MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa i
Lời cam đoan ii
Lời cảm ơn iii
Mục lục 1
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt 4
Danh mục bảng và hình ảnh 5
MỞ ĐẦU 6
1. Lý do chọn đề tài 6
2. Đối tượng nghiên cứu 7
3. Mục đích và nội dung nghiên cứu 7
4. Phương pháp nghiên cứu 7
5. Bố cục luận văn 8
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 9
1.1. Giới thiệu chung về họ Quắn hoa (Proteaceae) 9
1.1.1. Phân loại 9
1.1.2. Mô tả chung 9
1.1.3. Phân bố 10
1.1.4. Trồng và sử dụng 10
1.2. Chi Macadamia 11
1.3. Các đặc điểm thực vật học của loài M. tetraphylla và M. integrifolia 12
1.3.1. Macadamia tetraphylla (L.A.S Johnoson) 12
1.3.2. Macadamia integrifolia (Maiden – Betche) 13
1.4. Giá trị dinh dưỡng và ứng dụng của hạt M. tetraphylla và M. integrifolia 15
1.5. Một số nghiên cứu về chi Macadamia 16
Chương 2. THỰC NGHIỆM 19
2.1. Thu và xử lí mẫu hạt 19
2.2. Xác định các chỉ số vật lý và hóa học của chất béo 19
2.2.1. Xác định hàm lượng dầu béo 19
2.2.2. Xác định chỉ số vật lý của chất béo 19
2.2.3. Xác định các chỉ số hóa học của chất béo 19
1
2.2.3.1. Chỉ số axit 19
2.2.3.2. Chỉ số xà phòng hóa 20
2.2.3.3. Chỉ số este 21
2.2.3.4. Chỉ số iot 21
2.2.3.5. Chỉ số peroxit 22
2.3. Chiết xuất và xác định thành phần hóa học của dịch chiết 23
2.3.1. Chiết xuất bằng các dung môi hữu cơ 23
2.3.2. Xác định TPHH của dịch chiết và xác định hàm lượng amino axit
trong phần bã 24
2.4. Thử hoạt tính sinh học của các cao chiết 25
2.5. Phân lập cấu tử từ dịch chiết và xác định cấu trúc 26
2.5.1. Phân lập cấu tử từ cao MHE 26
2.5.2. Phân lập cấu tử từ cao MHSH 27
2.5.3. Xác định cấu trúc 27
Chương 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 29
3.1. Các chỉ số vật lý và hóa học của dầu macadamia 29
3.1.1. Chỉ số vật lý của chất béo 29
3.1.2. Các chỉ số hóa học của chất béo 29
3.1.2.1. Chỉ số axit 29
3.1.2.2. Chỉ số xà phòng hóa 29
3.1.2.3. Chỉ số este 30
3.1.2.4. Chỉ số iot 30
3.1.2.5. Chỉ số peroxit 30
3.2. Thành phần hóa học các dịch chiết 31
3.4.1. Thành phần axit béo 31
3.4.1. Thành phần amino axit 33
3.4.2. Thành phần hóa học cao MHSE 34
3.4.2. Thành phần sterol của cao MHSH 35
3.3. Xác định cấu trúc của một số cấu tử đã được phân lập 36
3.3.1. Cấu trúc của MHE1 37
3.3.2. Cấu trúc của chất rắn NHSH3 39
2
3.4. Kết quả thử hoạt tính sinh học của các cao chiết 42
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 43
TÀI LIỆU THAM KHẢO 45
PHỤ LỤC
3
DANH MỤC BẢNG VÀ HÌNH ẢNH
Bảng 1.1. Thành phần các hợp chất phenol trong dầu nhân và vỏ hạt
M. integrifolia ở Hawaii 16
Bảng 3.1. Thành phần axit béo của dầu macadamia ở Đắc Lắc 31
Bảng 3.2. Thành phần amino axit của hạt macadamia 33
Bảng 3.3. Thành phần hóa học của cao MHSE theo kết quả GC/MS 35
Bảng 3.4. Thành phần sterol trong cao MHSH theo kết quả GC/MS 35
Bảng 3.5. Gán ghép tín hiệu phổ tương ứng cho các nguyên tử
C và H của MHE1 37
Bảng 3.6. Bảng so sánh dữ liệu phổ
1
H-NMR của NHSH3 và
Stigmast-5-en-3β-ol trong CDCl
3
, 500MHz 40
Bảng 3.7. Bảng so sánh dữ liệu phổ
13
C-NMR của NHSH3 và
Stigmast-5-en-3β-ol trong CDCl
3,
125MHz 40
Bảng 3.8. Kết quả thử hoạt tính sinh học đối với cao MH và ME 42
Hình 1.1. Lá, hoa, quả Macadamia tetraphylla 13
Hình 1.2. Lá, hoa, quả, hạt và nhân hạt Macadamia integrifolia 14
Hình 3.1. Các tương tác HMBC (H→C) chính trong phân tử MHE1 38
4
Trang
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
13
C-NMR Cộng hưởng từ hạt nhân
13
C
2D-NMR Cộng hưởng từ hạt nhân hai chiều
d dublet
EI-MS Khối phổ va chạm electron
FT-IR Phổ hồng ngoại biến đổi Fourier
GC/MS Sắc ký khí - khối phổ liên hợp
1
H-NMR Cộng hưởng từ hạt nhân
1
H
J (Hz) Hằng số tương tác tính bằng Hz
LC/MS/MS Sắc ký lỏng - khối phổ liên hợp
M. Macadamia
m multiplet
ME Dịch chiết etyl axetat của nhân hạt macadamia
MH Dịch chiết n-hexan của nhân hạt macadamia
MHSE Dịch chiết đietyl ete (sau khi rửa bằng nước cất đến
pH=7) từ hỗn hợp thu được khi xà phòng hóa cao MH
MHSH Dịch chiết n-hexan (sau khi rửa bằng nước cất đến
pH=7) từ hỗn hợp thu được khi xà phòng hóa cao MH
MHE Nước rửa của dịch chiết đietyl ete đem axit hóa rồi chiết
lấy phần không tan trong nước (lớp trên)
MUFA Axit béo bất bão hòa đơn
PUFA Axit béo bất bão hòa đa
R
f
Yếu tố làm chậm trễ
s singulet
SKBM Sắc ký bản mỏng
SFA Axit béo bão hòa
t triplet
TPHH Thành phần hoá học
UV Tử ngoại
δ (ppm) Độ chuyển dịch hóa học tính bằng ppm
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nước ta có khí hậu nhiệt đới ẩm nên hệ thực vật hết sức đa dạng và phong phú.
Có rất nhiều giống cây trồng thích hợp với khí hậu và đất đai Việt Nam đem lại hiệu
quả kinh tế cao ở trong nước và có giá trị xuất khẩu như: Chè, tiêu, cà phê, ca cao…
Bên cạnh những chủng loại cây nông lâm nghiệp truyền thống đó, các nhà khoa học
không ngừng tìm tòi, nghiên cứu và triển khai nhiều dự án để tìm ra nhiều giống
cây mới có giá trị cao hơn. Nổi bật nhất trong số những giống cây trồng mới về giá
trị kinh tế là cây macadamia (ở nước ta tạm gọi là mắc ca). Một loại cây lấy hạt có
nguồn gốc từ rừng mưa nhiệt đới Australia được ví như là hoàng hậu của các loại
quả khô bởi giá trị dinh dưỡng của nó.
Các nghiên cứu khác nhau về thành phần hạt macadamia ở các địa điểm khác
nhau trên thế giới có sự chênh lệch đáng kể; nhưng có thể ước lượng trung bình bao
gồm chất béo khoảng 75%, chất đạm 7,9-8,4%, đường 4%, nước 1-1,5%, các hợp
chất phenolic, các vitamin và khoáng chất rất cần thiết cho cơ thể [14], nên hạt
macadamia được đánh giá rất cao và được xem là rất tốt cho sức khỏe. Hiện nay hạt
macadamia được sử dụng rộng rãi trong công nghiệp thực phẩm và mỹ phẩm.
Ở nước ta, hạt macadamia chưa được biết đến nhiều nhưng trên thế giới đã
có một nền công nghiệp macadamia. Macadamia là giống cây duy nhất xuất xứ từ
Châu Úc được trồng tại các quốc gia khác có khi hậu ẩm, cận nhiệt đới. Bên cạnh
vùng trồng chính là Châu Úc với 600 nông trại thì Hawaii được xếp hạng hai.
Phần còn lại khoảng 30% được trồng tại các nước như New Zealand, Nam Phi,
Kenia, Malawi, Israel, Brazil, Mỹ và Paraguay [2] [13].
Từ năm 1999, trung tâm giống cây rừng thuộc Viện Khoa học Lâm nghiệp
Việt Nam đã bắt đầu trồng thử nghiệm cây macadamia tại Ba Vì (Hà Nội) và huyện
Krông Năng (Đắc Lắc). Các tỉnh Lạng Sơn, Nghệ An cũng đã nhập một số cây này
về trồng và đã bắt đầu cho quả. Năm 2002, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm
nghiệp Tây Nguyên đã trồng 1 ha tại TP Buôn Ma Thuột và Trung tâm nghiên cứu
Thuỷ Nông Lâm Gia Lai trồng 1 ha với mật độ trồng thuần trên 400 cây/ha. Năm
2005, các cây giống macadamia tiếp tục trồng thực nghiệm theo hình thức xen với
6
cây cà phê chè, cà phê vối và cây ca cao tại TP Buôn Ma Thuột và tỉnh Lâm Đồng
[24], [27].
Những báo cáo của các dự án cho thấy việc trồng macadamia ở Việt Nam có
khả năng thúc đẩy các giá trị kinh tế, xã hội và môi trường của đất nước đồng thời
giúp mở rộng sản phẩm macadamia từ cây công nghiệp có giá trị cao ra phạm vi
toàn cầu.
Chính vì mới được du nhập vào nước ta chưa lâu và đang được trồng thử
nghiệm, hiện nay ở các trung tâm nghiên cứu cây macadamia cũng chỉ mới cho quả
bói nên chưa tìm thấy nghiên cứu hóa học nào về hạt này ở Việt Nam. Do đó, trong
luận văn của mình, chúng tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu thành phần hóa học của
hạt macadamia (Macadamia integrifolia (Maiden-Betche)) ở Đắc Lắc – Việt
Nam” nhằm làm rõ thành phần, hàm lượng cũng như tính chất của một số hợp chất
hóa học có trong hạt macadamia ở trồng ở Việt Nam góp phần đưa hạt macadamia
lên ngôi “hoàng hậu của các loại quả khô” ở Việt Nam.
2. Đối tượng nghiên cứu
Các dịch chiết từ hạt macadamia được lấy từ trung tâm nghiên cứu của Viện
Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên tại thành phố Buôn Ma Thuột
thuộc tỉnh Đắc Lắc.
3. Mục đích, nội dung nghiên cứu
+ Xác định hàm lượng, một số chỉ số vật lý, hóa học và thành phần hóa học
của dịch chiết n-hexan đối với nhân hạt.
+ Xác định thành phần và hàm lượng amino axit có trong phần nhân hạt sau
khi loại béo bằng dung môi n-hexan.
+ Phân lập, xác định cấu trúc cấu tử chính từ dịch chiết của dung môi n-
hexan của nhân hạt.
+ Thử hoạt tính sinh học của dịch chiết n-hexan và etyl axetat của nhân hạt.
4. Phương pháp nghiên cứu
* Nghiên cứu lý thuyết: Phương pháp nghiên cứu các hợp chất tự nhiên, tổng
quan tài liệu về đặc điểm hình thái thực vật, TPHH, tình hình nghiên cứu và ứng
dụng của một số loài thuộc chi Macadamia trên thế giới.
7
* Nghiên cứu thực nghiệm:
- Chiết dầu béo trong dung môi n-hexan bằng phương pháp ngâm dầm.
- Xác định các hằng số vật lý và chỉ số hóa học đặc trưng của chất béo : Phương
pháp xác định tỉ trọng, chỉ số axit, chỉ số xà phòng hóa, chỉ số iot, chỉ số peroxit.
- Xác định TPHH của dịch chiết: Phương pháp sắc ký khí - khối phổ liên hợp
(GC/MS), phương pháp sắc lý lỏng – khối phổ liên hợp (LC/MS/MS).
- Phân lập cấu tử chính bằng phương pháp sắc ký cột hoặc kết tinh lại (nếu có
kết tinh), SKBM.
- Xác định cấu trúc của cấu tử phân lập được bằng các loại phổ hiện đại như:
FT-IR,
1
H-NMR,
13
C-NMR, DEPT, MS, COSY, HSQC, HMBC.
5. Bố cục luận văn
Luận văn gồm 47 trang, trong đó có 8 bảng và 3 hình.
Ngoài phần mục lục (3 trang), danh mục ký hiệu và chữ viết tắt (1 trang),
danh mục bảng biểu và hình ảnh (1 trang), phần mở đầu (3 trang), kết luận và kiến
nghị (2 trang) và tài liệu tham khảo (3 trang, 28 tài liệu), nội dung của luận văn
được chia làm 3 chương, bao gồm:
+ Chương 1. Tổng quan (10 trang)
+ Chương 2. Thực nghiệm (10 trang)
+ Chương 3. Kết quả và thảo luận (14 trang).
8
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Giới thiệu chung về họ Quắn hoa (Proteaceae) [10], [25]
1.1.1. Phân loại
Họ Proteaceae hiện nay được chia ra thành 5 phân họ, bao gồm:
Bellendenoideae, Persoonioideae, Symphionematoideae, Proteoideae và
Grevilleoideae. Proteaceae là họ tương đối lớn, với khoảng 80 chi và 1.600 loài. Ở
Việt Nam có 3 chi và khoảng 15 loài.
Các chi được biết đến nhiều nhất bao gồm Protea, Banksia, Embothrium,
Grevillea, Hakea, Dryandra và Macadamia.
1.1.2. Mô tả chung
1.1.2.1. Hoa, quả
Ở nhiều chi, cụm hoa thường to và rất sặc sỡ, chứa nhiều hoa nhỏ mọc dày
đặc thành một đầu hay bông kết chặt, trừ các loài thuộc chi Adenanthos lại có các
hoa mọc riêng lẻ. Cụm hoa thường hình bông xuất phát từ nách lá dài khoảng 20 cm
với nhiều hoa hơi hình ống dài phình 2 đầu.
Hoa phần lớn lưỡng tính, đều hay hơi không đều, mẫu 4, không có cánh hoa,
1 vòng bao hoa dính tạo thành ống phình ở gốc và ở đỉnh, khi nở bao hoa cuộn ra
ngoài. Đài dạng cánh hoa. Nhị 4 đối diện với các thùy bao hoa. Bầu 1 ô.
Ở phần lớn các loài thuộc họ Proteaceae thì cơ chế thụ phấn mang đặc tính
chuyên biệt hóa cao, với việc sử dụng "vùng dẫn dụ phấn hoa", một khu vực trên
đỉnh vòi nhụy phô bày phấn hoa.
Quả đại, quả hạch hay hạch khô, đôi khi quả có cánh. Quả không mở hay mở
bằng khe nứt.
1.1.2.2. Thân, lá, rễ
Proteaceae nói chung là các cây thân gỗ hay cây bụi, ngoại trừ một số loài
thuộc chi Stirlingia là cây thân thảo. Chúng là cây thường xanh, với lá dao động
mạnh về kích thước, hình dáng và mép lá.
Lá đơn, nguyên hoặc có răng cưa nhọn hay chia thùy, mọc cách, thường cục
lại ở đầu cành có lá kèm.
Rễ kiểu quắn hoa (rễ cụm), các rễ cụm này là các khối rễ con ở bên và lông
tơ tạo thành một bề mặt hấp thụ tỏa tròn, sinh ra dưới lớp lá rụng trong mùa tăng
9
trưởng và thường teo lại vào cuối mùa tăng trưởng. Chúng là sự thích nghi để phát
triển trong các loại đất nghèo phốt pho, làm tăng mạnh khả năng tiếp xúc của cây
với nguồn nước và dưỡng chất khan hiếm bằng cách gia tăng bề mặt hấp thụ của rễ.
1.1.3. Phân bố
Proteaceae là họ chủ yếu ở Nam bán cầu, với các trung tâm đa dạng chính ở
Australia và Nam Phi. Nó cũng có tại miền Trung châu Phi, Nam và Trung Mỹ, Ấn
Độ, miền Đông và Đông Nam châu Á, các đảo của châu Đại Dương.
1.1.4. Trồng và sử dụng
Nhiều loài Proteaceae được trồng trong vườn ươm làm hàng rào do tán lá và
hoa nổi bật và đặc biệt của chúng.
Một vài loài có tầm quan trọng đối với ngành trồng hoa, đặc biệt các loài
trong chi Banksia và Protea.
Một số loài trồng để lấy hạt như hai loài của chi Macadamia là Macadamia
integrifolia và Macadamia tetraphylla và loài Gevuina avellana được trồng tại
Chile và New Zealand, hạt của chúng cũng ăn được và được sử dụng trong công
nghiệp dược mỹ phẩm để dưỡng da, là thành phần của kem chống nắng do các tính
chất giữ ẩm của nó.
Các loài có giá trị như là các cây cảnh do chúng có thể tạo ra cảnh quan đẹp
kỳ lạ tại các khu vực có khí hậu ôn đới, như các loài ở Chile sau: Lomatia
ferruginea, Lomatia hirsuta. Embothrium coccineum (cây lửa Chile hay Notro) có
giá trị cảnh quan do nó có hoa màu đỏ thẫm, phát triển tốt trên đảo Anh và có thể
thấy tại quần đảo Faroe ở vĩ độ 62° vĩ Bắc.
Trong số các loài Banksia, nhiều loài được trồng tại khu vực Địa Trung Hải
và vùng có khí hậu hải dương. Chúng được trồng vì độ cao của mình. Trong số các
loài cao nhất có: B. integrifolia với phân loài B. integrifolia subsp. Monticola là loài
Banksia thân gỗ cao nhất và chịu đựng sương giá tốt hơn cả. B. grandis , B.
prionotes, B. marginata, B. coccinea và B. speciosa được trồng trong các công viên,
vườn và ven đường phố. Phần còn lại của chi này là khoảng 170 loài cây bụi, nhưng
vẫn có thể có giá trị vì hoa đẹp của chúng.
Một vài loài trong khí hậu ôn đới cũng được trồng ở quy mô địa phương tại
Australia bởi vẻ đẹp của chúng: Persoonia pinifolia (geebung lá thông) vì hoa vàng
10
chói lọi và quả giống như quả nho. Adenanthos sericeus (cây bụi lá quăn) được
trồng vì lá mềm lòe loẹt và hoa nhỏ màu đỏ hay da cam của chúng. Hicksbeachia
pinnatifolia được trồng vì quả ăn được và lá của nó.
1.2. Chi Macadamia [10], [13]
Macadamia là một chi của 22 loài thực vật có hoa trong họ Proteaceae bao
gồm:
- Macadamia integrifolia (Maiden-Betche) - còn gọi là mắc ca vỏ
láng hoặc mắc ca lá nhẵn.
- Macadamia tetraphylla (L.A.S Johnoson) – còn được gọi là mắc ca
4 lá, mắc ca hạt nhám hoặc mắc ca lá răng cưa, mắc ca lá gai.
- Macadamia ternifolia (F.V. Muell)
- Macadamia hildebrandii (Steenis)
- Macadamia alticola (Apuron)
- Macadamia claudiensis (C.L.Gross & B.Hyland)
- Macadamia angustifolia (Virot )
- Macadamia erecta (J.A.McDonald & Ismail R.)
- Macadamia francii (Guillaumin) Sleumer
- Macadamia grandis (C.L.Gross & B.Hyland)
- Macadamia heyana (Baill. Sleumer)
- Macadamia jansenii (C.L.Gross & P.H.Weston)
- Macadamia leptophylla (Guillaumin Virot)
- Macadamia lowii (F.M.Bailey)
- Macadamia minor (F.M.Bailey)
- Macadamia neurophylla (Guillaumin Virot)
- Macadamia praealta (Bailey)
- Macadamia rousselii (Vieill. Sleumer)
- Macadamia verticillata (F.Muell.Benth)
- Macadamia vieillardii (Brongn. & Gris) Sleumer
- Macadamia whelanii (F.M.Bailey)
- Macadamia youngiana (F.Muell. ex Benth).
11
Tuy nhiên, trong các loài tìm thấy trên chỉ có 2 loài, M. integrifolia và M.
tetraphylla có tầm quan trọng thương mại. Phần còn lại của chi có hạt nhưng không
ăn được vì chứa cyanogen glycozit có độc tính. Dưới đây chúng tôi giới thiệu cụ thể
hơn về hai loài này.
1.3. Các đặc điểm thực vật học của loài Macadamia tetraphylla và Macadamia
integrifolia
Cả hai loài có nguồn gốc từ bờ biển phía đông của Australia, trong khoảng từ
25° đến 31° về phía nam. M. tetraphylla có nguồn gốc ở nửa phía nam và M.
integrifolia ở nửa phía Bắc. M. integrifolia sinh trưởng tốt hơn trong điều kiện khí
hậu ấm. Bề mặt các hạt giống có thể dễ dàng xác định vì M. integrifolia tròn và mịn
màng còn M. tetraphylla có hình bầu dục, thô hoặc sần sùi.
1.3.1. Macadamia tetraphylla (L.A.S Johnoson) [10], [13], [21], [24]
Đây là cây có kích thước trung bình, cao khoảng 15m, thân hình trụ, tán xòe
rộng. Vỏ cây màu nâu thẫm. Lá non màu đỏ hoặc hồng phai, hình thuôn ngược dài
7-30 cm; rộng 1,4-6 cm; cuống lá dài 2-4 mm. Mép lá có răng cưa nhọn như gai,
đuôi lá nhọn, 4 lá mọc cách xoáy ốc (hiếm khi có 3 hoặc 5 lá mọc xoáy).
Hoa tự mọc ra từ cành già, các hoa treo trong chuỗi dài giữa các lá. Hoa tự
dài 15,2-20,3cm, có từ 100-300 bông hoa. Hoa màu hồng phai rất tươi màu, nhưng
cũng có cây cá biệt có hoa màu trắng sữa hoặc tím hoa cà.
Loài này mỗi năm chỉ ra quả 1 lần. Mùa quả chín rộ ở úc từ tháng 3 đến
tháng 6, tại Hawaii từ tháng 7 đến tháng 10, tại California từ tháng 9 đến tháng 1
năm sau, tại Quảng Châu và Bán đảo Lôi Châu từ trung tuần tháng 8 đến cuối tháng
9. Quả hình bầu dục, vỏ quả màu xanh xám, có phủ lớp lông nhung dày. Hạt có vỏ
nhám, đường kính hạt từ 1,2-3,8 cm; vỏ dày 2-6 mm, nhân có màu thẫm hơn mắc-
ca vỏ nhẵn.
12
Hình 1.1. Lá, hoa, quả Macadamia tetraphylla [21]
1.3.2. Macadamia integrifolia (Maiden-Betche): [10], [13], [22], [24]
M.integrifolia chiếm ưu thế hơn M. tetraphylla trong các vườn trồng hạt
macadamia. Những lý do cho điều này là: hàm lượng đường cao của M.
tetraphylla, dẫn đến màu nâu của các hạt nhân khi rang; mặt khác hạt nhân M.
integrifolia có khả năng chống thấm nước tốt hơn M. tetraphylla. Do đó, các
chương trình nghiên cứu, chọn lọc và nhân giống vô tính chủ yếu tập trung vào
M.integrifolia.
Cây của loài M. integrifolia có kích thước trung bình cao khoảng 12 đến 15m,
thân thẳng đứng đường kính thân trung bình khoảng 300mm. Lá non màu xanh
nhạt, lá già cứng, mép lá lượn sóng, bề mặt lá bóng có hình dạng thuôn dài khoảng
6,5-14 cm; rộng 2-6,5 cm và thường có lượn sóng. Cuống lá ngắn (dài 6-8 mm),
không có răng cưa, đuôi lá tròn, thường có 3 lá mọc xoáy ốc nhưng ở cây con hoặc
cành non có thể gặp 1 đôi lá mọc đối.
Những bông hoa màu kem hoặc trắng sữa có mùi thơm ngọt ngào dễ chịu nở
ra ở các cành hoa có hình như đuôi sóc, các cành hoa này rũ xuống dài khoảng 30
cm mọc ra ở các cành cây 1,5 đến 2 tuổi. Mỗi cành hoa đuôi sóc thường có từ 100
đến 300 bông hoa, hoa thường mọc thành chùm đôi hoặc 3-4 bông trên 1 cuống hoa
chung dài 3-4 mm, mỗi bông dài khoảng 12mm; khoảng 10% trong số này cuối
cùng sẽ hình thành các 'nutlet' và chín thành quả hạch.
Sau khi hoa tàn và hình thành quả non, quả cần có 215 ngày để quả chín, tức
30 tuần. Quả thường mọc thành chùm 2-3 quả trên cuống hoa tự, đôi khi có chùm
có 17-20 quả. Quả hình tròn, vỏ quả không có lông nhung, màu xanh bóng. Vỏ hạt
nhẵn, đường kính hạt khoảng 1,3 - 3,2cm; vỏ quả dày 6-10 mm. Vỏ quả gồm 2 lớp
13
gồm lớp vỏ ngoài tạo nên bởi những tế bào dạng sợi và lớp áo trong tạo nên bởi tế
bào nhu mô. Lớp áo trong rất mỏng, phần sát rốn hơi có màu nâu, phần sát lỗ nảy
mầm màu trắng sữa. Lớp ngoài dày gấp 15 lần lớp áo trong và tạo ra bởi những tế
bào có lớp vỏ cenlulose rất dày và tế bào thạch. Khi già cả 2 loại tế bào này đều hoá
gỗ cao độ làm cho vỏ hạt rất cứng. Vỏ hạt được coi là loại vỏ hạt cứng nhất thế giới
và không thể dùng các thiết bị thông thường để mở được mà phải dùng các thiết bị
tương tự như kìm vặn ống nước để mở.
Sau qui trình phơi sấy, lớp vỏ dày 3 mm có màu nâu nhạt được rạch ra và
được bóp bể một cách cẩn thận để khỏi phạm vào nhân. Nhân có màu trắng sữa, có
hương thơm bơ sữa, chất lượng rất cao.
Ở Viện Khoa học Nông lâm nghiệp Tây Nguyên hiện đang trồng và nhân
giống các dòng vô tính của loài M. integrifolia, hoa nở vào khoảng cuối tháng 2 đầu
tháng 3. Thu hoạch quả khoảng tháng 9.
Hình 1.2. Lá, hoa, quả, hạt và nhân hạt Macadamia integrifolia
14
1.4. Giá trị dinh dưỡng và ứng dụng hạt Macadamia integrifolia và Macadamia
tetraphylla
Nhân macadamia không những béo ngậy mà còn có vị ngọt, rất bùi và
thoang thoảng mùi thơm của bơ sữa bò rất hấp dẫn, giòn mà không cứng như hạt
điều, hạt lạc Nếu so sánh với hàm lượng chất béo sau khi rang của lạc nhân là
44,8%, hạt điều 47%, hạnh nhân 51%, hạt hạch đào 63% thì hàm lượng dầu béo 69-
75% trong nhân macadamia rõ ràng là cao hơn hẳn [28]. Theo những nghiên cứu
của nhiều nhà khoa học trên thế giới về hạt macadamia, điều đặc biệt của dầu chiết
ra từ hạt này là hàm lượng acid béo không no đơn trong lên tới 84% chỉ đứng sau
dầu Sở (97%). Sự có mặt của các MUFA (axit oleic và palmitoleic) cao nhất trong
các loại dầu thực vật làm cho dầu hạt macadamia có khả năng duy trì mức độ tối ưu
của cholesterol trong cơ thể và làm giảm nguy cơ bệnh tim mạch. Nghiên cứu về
dược học đã chỉ ra rằng ăn một lượng nhỏ hạt macadamia mỗi ngày có thể làm giảm
lượng LDL (loại cholesterol có hại trong máu) mà không làm giảm lượng HDL
(loại cholesterol có lợi trong máu). Trong nhân hạt macadamia có các loại đường
đơn fructose, glucose, maltose, và sucrose. Hàm lượng protein trong nhân
macadamia 7,9-8,4% có chứa một lượng lớn amino axit tự do cần thiết cho cơ thể.
Các vitamin bao gồm B complex, C, pantothenic và folate. Khoáng chất như Kali,
Magie, Canxi, kẽm, sắt, đồng…rất cần thiết cho sự phát triển của cơ thể [14]. Trong
dầu Macadamia có chứa các chất chống oxi hóa, các phytosterol, squalen…có khả
năng dập tắt các gốc tự do chống lại các bệnh mãn tính hoặc tế bào ung thư [20].
Chính nhờ giá trị dinh đặc biệt của hạt macadamia, ở các nước trên thế giới
như Australia, Mỹ và các nước Châu Âu, nhân macadamia rất được ưa chuộng.
Trong thực phẩm, nhân Macadamia được tiêu thụ trong các gói snack (rang
muối hoặc nướng), độn vào kem cốc, kẹo socola, bánh gatô và nhiều loại đồ ngọt
khác đều làm cho các đồ ăn này tăng hẳn giá trị [13].
Dầu macadamia được sử dụng trong thực phẩm như một loại dầu cao cấp
nhất và sử dụng trong mỹ phẩm như: kem dưỡng da, dầu masage, dầu gội và nhũ
môi nhờ tính chất đặc biệt của các axit béo có trong dầu như axit oleic và đặc biệt là
axit palmitoleic; Trong tất cả các loại hạt thực vật, hạt macadamia có hàm lượng
axit béo palmitoleic cao nhất (gần 20% trong khi các loại hạt khác chỉ chứa chưa
15
đến 5%)…Axit palmitoleic có tác dụng làm mềm và giữ ẩm da, giúp chữa lành các
vết thương nhẹ, giúp trẻ hóa tế bào, ngăn ngừa lão hóa, chống cháy nắng và cũng
giúp da duy trì độ ẩm của nó mà lại không có bất kỳ kích ứng da nào [6].
Ngoài nhân là sản phẩm chính, vỏ quả macadamia chứa 14% tanin, 8-10%
protein, sau khi chiết xuất tanin bằng nước nóng, vỏ quả thường được nghiền làm
thức ăn gia súc. Vỏ hạt có ít giá trị hơn, tại các xưởng chế biến dùng vỏ hạt làm
nhiên liệu, hoặc nghiền làm vật liệu hữu cơ độn bầu ươm cây, độn đất chậu cảnh.
Do hương vị nhân và giá cả macadamia rất hấp dẫn nên hàng chục nước đã
đua nhau phát triển cây macadamia trong mấy chục năm qua, nhưng người ta dự
báo rằng còn lâu cung mới đuổi kịp cầu, giá cả macadamia trên thị trường vẫn
không ngừng tăng và là hàng nông sản đắt giá nhất trên thị trường thế giới hiện nay.
1.5. Một số nghiên cứu về chi Macadamia
Năm 1996, L.A. Quinn và H. H. Tang đã xác định được thành các hợp chất
phenol và hoạt tính chống oxi hóa của chúng trong vỏ hạt và dầu chiết từ nhân M.
integrifolia ở Hawaii [15]:
Chiết hợp chất phenol từ vỏ hạt và tinh dầu nhân (được chiết bằng
phương pháp ép) bằng dung môi etyl axetat với sự có mặt của chất chuẩn nội p-
hydroxycinamic sau đó rửa với NaHCO
3
5% trong nước và chiết lại bằng dd NaOH
2% trong nước. Các hợp chất phenol từ dịch chiết được tạo dẫn xuất metyl bằng
diazometan sau đó xác định thành phần bằng sắc ký khí (so sánh với thời gian lưu
của 44 chất chuẩn trong cùng điều kiện) và sắc ký bản mỏng Silicagel 60 F254 với
hệ dung môi giải ly clorofom/etyl axetat : 3/1, thuốc thử hiện màu là Folia-
Ciocalten hoặc hơi amoniac hoặc sắt (III) clorua trong ancol dưới ánh sáng đèn UV
(254 và 265 nm).
Kết quả thu được theo GC, có 4 hợp chất phenol đã được xác định.
Bảng 1.1. Thành phần các hợp chất phenol trong dầu nhân và vỏ hạt M.
integrifolia ở Hawaii
Các hợp chất phenol
Hàm lượng trong
dầu nhân (µg/g)
Hàm lượng trong vỏ
(µg/g)
axit 2,6-đihidroxi benzoic 24,0±3,61 285,6±56,9
2’-đihidroxi-4’-metoxi axetophenon 6,9±0,9 83,7±27,1
3’,5’-đimetoxi-4’-hidroxi 10,5±0,7 202,3±47,0
16
axetophenon
3,5-đimetoxi-4-hidroxi cinamic 7,3±0,3 266,3±22,6
Tổng 48,7 837,9
Bằng sắc ký bản mỏng cũng đã xác định được sự có mặt của của catechol,
phrogallol và axit 3,4,5-trihidroxi benzoic.
Tác giả cũng đã xác định hoạt tính chống oxi hóa của 4 loại hợp chất
phenol thu được theo kết quả GC bằng cách thêm lần lượt 4 loại hợp chất phenol
với nồng độ khác nhau lần lượt vào các mẫu dầu macadamia tinh chế, sau đó xác
định thời gian cảm ứng trung bình theo phương pháp Racimat của các mẫu. Kết quả
cho thấy các hợp chất thêm vào ở nồng độ 0,01% đều làm tăng đáng kể thời gian
lưu Racimat đặc biệt là 3’,5’-đimetoxi-4’-hidroxi axetophenon.
Năm 2000, Anna Kaijser, Paresh Dutta và Geoffrey Savage đã nghiên cứu
về thành phần axit béo, tocopherols, sterols và độ bền oxi hóa của hạt M.
tetraphylla ở New Zealand [11]:
Các tác giả đã nghiên cứu thành phần của 4 dòng vô tính khác nhau của
loài M. tetraphylla ở 7 vùng khác nhau ở New Zealand.
Dầu béo được chiết từ nhân hạt bằng phương pháp chiết Soxhlet trong
dung môi ete dầu hỏa. Tổng lipid chiết được từ nhân là 69–78 (g/100g) nhân. Độ
bền oxi hóa xác định bởi phương pháp Racimat biến đổi trong khoảng rộng từ 3,6
đến 19,8 h. Chỉ số peroxit trong khoảng từ 0,56–3,61 (meq O
2
/kg dầu). Hàm lượng
axit béo không bão hòa đơn (MUFA) trung bình khoảng 80%, hàm lượng tổng axit
béo bão hòa 13,2–17,8% (SFA), tổng axit béo bất bão hòa đa (18:2 + 18:3) thấp từ
2,8–4,7%. Các axit béo chính là axit oleic (40,6–59%), palmitoleic (16,86–33,75%),
axit palmitic, axit linoleic…; đây là lần đầu tiên phát hiện có axit cis-vaccenic
(18:1
∆
11
) trong dầu chiết từ hạt macadamia.
Tổng tocopherol trong loài M. tetraphylla ở New Zealand thấp và chỉ có
hai loại tocopherol đã được xác định trong dầu chiết là α-tocopherol 0,8-1,1 (µg/g
chất béo) và δ-tocopherol 3.5±4.8 (µg/g chất béo);
Các sterol đã được xác định là sitosterol (901±1354 µg/g lipid), Δ5-
avenasterol (82±207 µg/g lipid), campesterol (61±112 µg/g lipid) và stigmasterol
(8±19 µg/g lipid).
17
Năm 2010, Marisa M. Wall đã nghiên cứu về thành phần lipid đặc trưng,
tính ổn định oxi hóa và hoạt tính chống oxi hóa của M. integrifolia ở Hawaii [20]:
Bảy dòng vô tính của loài M. integrifolia ở Trạm thí nghiệm Nông nghiệp
Hawaii đã được nghiên cứu. Dầu béo được chiết từ nhân bằng phương pháp chiết
soxhlet trong dung môi ete dầu hỏa. Tổng lượng dầu là 68–72% (2006) và 64–69%
(2007). Độ bền oxi hóa của dầu chiết đã được xác định theo phương pháp Racimat
là từ 7-10h.
Bột macadamia nghiền mịn được chiết 3 lần với hệ dung môi
hexan/isopropanol: 3/2 (v/v) theo tỷ lệ 1g hạt/3 ml dung môi. Phần dịch chiết được
cô đuổi dung môi và làm khan bởi NaHSO
4
. Đem cao chiết thu được định lượng
tocopherol và squalen bằng HPLC. Các tocopherol [delta (δ), gamma (γ), alpha (α)]
đã được xác định là hầu như không có; trong khi đó một lượng đáng kể tocotrienol
(31–92 µg/g dầu) và squalen (72–171 µg/g dầu) đã được xác định.
Kết quả tra cứu trên đĩa CD Từ điển các hợp chất thiên nhiên, Version 16.1
[9] thấy có hai hợp chất được phân lập từ loài M. ternifolia (F.V. Muell) là:
Axit palmitoleic
và (R)-2- nitrin-2-(4-hydroxy phenyl)-2-O-β-D-glucopyranozit
catechol, phrogallol, and 3,4,5-
trihydroxy phenolic compounds. Four phenolic compounds
were tentatively identified as 2,6- dihydroxybenzoie acid, 2'-hydroxy-e
CHƯƠNG 2 THỰC NGHIỆM
2.1. Thu và xử lý mẫu hạt
18
OH
O
N
O
OH
O
HO
OH
OH
HO
+ Mẫu được lấy từ vườn Macadamia ở Viện Khoa học Nông lâm nghiệp Tây
Nguyên, thành phố Buôn Ma Thuột – Đắc Lắc.
+ Hạt sau khi thu hái đem phơi khô (để nguyên vỏ) đến khi độ ẩm giảm xuống
thấp nhất có thể (phơi đến khi khối lượng hạt không thay đổi).
2.2. Xác định các chỉ số vật lý và hóa học của chất béo
2.2.1. Xác định hàm lượng dầu béo
Tách bỏ lớp vỏ cứng ở ngoài thu được nhân, giã nhỏ sau đó ngâm chiết kiệt
trong dung môi n-hexan 5 lần. Cân khối lượng nhân hạt trước và sau khi
chiết.
Hàm lượng dầu béo trong mẫu: H(%)=
.100%
m
m
∆
Trong đó: Δm là hiệu khối lượng nhân hạt trước và sau khi chiết
m là khối lượng mẫu ban đầu đem chiết
2.2.2. Xác định chỉ số vật lý của chất béo
Tỷ trọng
( )
25
25
n
: Xác định bằng picromet có dung tích 1ml, trên cân phân tích.
2.2.3. Xác định các chỉ số hóa học của chất béo
2.2.3.1. Chỉ số axit [19]
Là lượng mg KOH dùng để trung hòa axit béo tự do trong 1g mẫu phân tích.
Chỉ số axit cho biết độ tươi của chất béo. Chỉ số này càng cao thì chất béo càng
không tươi đã bị phân hủy hoặc bị oxi hóa một phần.
Phương pháp phân tích:
- Dùng dung dịch KOH biết trước nồng độ để trung hòa axit béo tự do có
trong mẫu phân tích với chỉ thị phenolphthalein
- Xác định thể tích KOH đã dùng để trung hòa
- Xác định chỉ số axit của mẫu chất béo phân tích theo công thức:
Chỉ số axit
a
CV
N
56
=
Trong đó: - V là thể tích KOH (ml)
- C
N
là nồng độ đương lượng của KOH (N)
- a là khối lượng mẫu đem phân tích (g)
Tiến hành:
19
- Cân 1g chất béo bằng cân phân tích ( độ chính xác 0,001g).
- Tiến hành chuẩn độ với dd KOH 0,1N trong etanol; chỉ thị là
phenolphtalein.
- Chuẩn độ 3 lần, lấy kết quả trung bình.
2.2.3.2. Chỉ số xà phòng hóa [19]
Là số mg KOH dung để xà phòng hóa hoàn toàn glicerit và trung hòa axit béo tự do
trong 1g mẫu phân tích.
Cho biết phân tử lượng trung bình của các axit béo tham gia thành phần của chất
béo đem phân tích. Chỉ số này càng cao chứng tỏ khối lượng phân tử trung bình của
axit nhỏ.
Phương pháp phân tích:
- Mẫu phân tích được cho tác dụng với một lượng thừa KOH để các chất
béo chuyển thành dạng xà phòng. Phần KOH thừa được định lượng bằng dung dịch
axit chuẩn và chỉ thị là phenolphthalein.
- Chỉ số xà phòng hóa của mẫu phân tích được tính theo công thức:
Chỉ số xà phòng hóa
( ) ( )
( )
( )
56. .
axit N axit
N KOH
N KOH
V C
C V
C
a
−
=
Trong đó: - a là khối lượng mẫu đem phân tích
- V là thể tích KOH đã dùng ban đầu
Tiến hành:
- Cân 1g chất béo bằng cân phân tích (độ chính xác 0,001g).
- Thêm lượng dư dd KOH 1N (3ml) trong etanol + 1 giọt chỉ thị
phenolphtalein vào lượng chất béo trên.
- Đun nóng hỗn hợp thu được ở 60
0
C trong khoảng 40 phút.
- Tiến hành chuẩn độ dd sau khi đun nóng bằng dd HCl 0,1N.
- Chuẩn độ 3 lần, lấy kết quả trung bình.
2.2.3.3. Chỉ số este
20
Là số mg KOH dùng để trung hòa axit béo liên kết với glicerit khi xà phòng hóa 1g
mẫu phân tích.
Chỉ số este được xác định bởi công thức:
Chỉ số este = chỉ số xà phòng hóa – chỉ số axit
2.2.3.4. Chỉ số iot [19]
Là số gam Iot phản ứng với 100g chất béo.
Cho biết độ chưa no của các axit béo có trong mẫu. Chỉ số này càng cao chứng tỏ
chất béo càng lỏng và càng dễ bị oxi hóa.
Phương pháp phân tích:
Có ba phương pháp thường dùng:
- Phương pháp Wijs: thuốc thử ICl
- Phương pháp Hanus: thuốc thử IBr
- Phương pháp Hubl: thuốc thử I
2
+ xúc tác HgCl
2
- Nguyên tắc: chất béo được hòa tan trong dung môi hữu cơ không nước,
cho phản ứng cộng vào nối đôi với thuốc thử trong bóng tối. Phần thuốc thử dư cho
phản ứng với KI sẽ tạo ra I
2
(nếu là thuốc thử Hubl thì không cần thêm KI). Định
lượng I
2
sinh ra bằng Na
2
S
2
O
3
với chỉ thị là hồ tinh bột.
- Công thức tính:
Chỉ số iot =
0,01269. .100V
p
V(ml): Hiệu thể tích dung dịch Na
2
S
2
O
3
0,1N chuẩn độ mẫu trắng và mẫu thử
p(g): khối lượng chất béo (p được ước lượng theo nguyên tắc p=20/chỉ số iot
cao nhất theo dự đoán)
Tiến hành:
- Pha thuốc thử Hubl: Hòa tan 2,5 g I
2
trong 50 ml ancol etylic 96
0
; hòa tan
2 g HgCl
2
trong 50 ml ancol etylic 96
0
. Trộn lẫn 2 dung dịch trên theo tỷ lệ thể tích
1:1, lắc đều hỗn hợp sau đó để yên trong bóng tối trong 24 h trước khi dùng.
- Cân chính xác 0,3 g chất béo (vì theo dự đoán chỉ số iot của dầu hạt
Macadamia trong khoảng 50-100), thêm 10 ml clorofom, tiếp tục thêm 25 ml thuốc
thử Hubl đã pha ở trên; lắc đều hỗn hợp sau đó để yên trong bóng tối trong 12h.
- Chuẩn độ I
2
dư sau phản ứng bằng dd Na
2
S
2
O
3
0,1N với chỉ thị hồ tinh bột.
21
- Song song tiến hành chuẩn độ mẫu trắng chỉ chứa thuốc thử Hubl.
2.2.3.5. Chỉ số peroxit [18]
Là số mili đương lượng mol oxy phản ứng với 1kg chất béo. Đơn vị: meqO
2
/kg.
Phản ánh mức độ ôi của chất béo đem phân tích. Chỉ số này càng cao thì độ tươi của
chất béo càng thấp.
Phương pháp phân tích:
Trong không khí, ở điều kiện thích hợp, O
2
kết hợp với các liên kết đôi trong
chất béo tạo ra peroxit. Trong môi trường axit, peroxit tác dụng với KI tạo ra iot ở
nhiệt độ nóng hoặc lạnh:
KI + 2H
+
+ ROOH ROH + H
2
O + I
2
+ 2K
+
Chuẩn độ I
2
sinh ra bằng dung dịch chuẩn Na
2
S
2
O
3
2S
2
O
3
2-
+ I
2
S
4
O
6
2-
+ 2 I
-
Công thức tính:
Chỉ số peroxit
. .1000S M
a
=
S(ml): thể tích dung dịch Na
2
S
2
O
3
M: nồng độ đương lượng của Na
2
S
2
O
3
a: khối lượng chất béo đem phân tích.
Tiến hành:
- Cân 1g chất béo bằng cân phân tích (độ chính xác 0,001g), chất béo được
hòa tan trong 10 ml CH
3
COOH+CHCl
3
(3/2 về thể tích). Lắc đều hỗn hợp đến tan
hoàn toàn.
- Thêm từ từ tinh thể KI vào hỗn hợp trên lắc đều đến khi màu vàng của hỗn
hợp không đậm thêm.
- Chuẩn độ lượng I
2
sinh ra bằng dd Na
2
S
2
O
3
0,01N và chỉ thị hồ tinh bột.
- Chuẩn độ 3 lần, lấy kết quả trung bình.
2.3. Chiết xuất và xác định thành phần hóa học của dịch chiết
2.3.1. Chiết xuất bằng các dung môi hữu cơ
22
* Cao n-hexan: Cân 900g nhân hạt đem nghiền nhỏ cho vào túi vải phin,
ngâm chiết kiệt trong 2L dung môi n-hexan. Cô đuổi dung môi bằng máy cô quay
dưới áp suất giảm thu được chất lỏng không màu đến hơi vàng, sánh và có mùi đặc
trưng. Lặp lại 5 lần, tổng khối lượng dầu thu được là 620,5g; cao này ký hiệu là
MH. Phần nhân hạt sau khi loại béo, cho bay hơi hết dung môi đem cân lại thấy
khối lượng bã thu được 275,5g.
* Cao etyl axetat: Lấy 100g bã đem ngâm chiết kiệt với 300 mL etyl axetat
(lặp lại 3 lần) (phần bã còn lại được bảo quản bằng cách ngâm trong dung môi n-
hexan). Cô đuổi dung môi dưới áp suất giảm thu được chất lỏng màu nâu, sánh và
có mùi đặc trưng. Cao etyl axetat (cao ME) thu được có khối lượng 5,7g.
* Xà phòng hóa cao MH [1], [3], [4]:
- Cân chính xác 100g cao MH cho vào bình cầu 1L; 90g KOH rắn cho vào
cốc.
- Hòa tan hoàn toàn lượng KOH trên trong 600 mL etanol rồi cho vào bình cầu
có chứa cao MH.
- Tiến hành đun hoàn lưu cách thủy chất lỏng trên trong thời gian 4h, ở nhiệt
độ 70-80
0
C.
- Rót ngay hỗn hợp sau khi đun vào 1 bese lớn chứa sẵn 750ml nước cất khuấy
đều thu được dung dịch màu vàng đậm.
- Tiến hành chiết lỏng - lỏng dung dịch trên với dung môi đietyl ete (hầu như
toàn bộ phần dung dịch này tan trong đietyl ete) thu được dịch chiết đietyl ete; rửa
dịch chiết đietyl ete nhiều lần với nước cất đến pH = 7 (kiểm tra bằng giấy pH), làm
khan bằng CaCl
2
rồi đem cô đuổi dung môi, thu được cao đietyl ete (ký hiệu
MHSE) sệt, màu vàng khối lượng 1,1g.
- Phần nước rửa của dịch chiết đietyl ete có màu vàng được gộp lại vào 1 bese
lớn sau đó tiến hành axit hóa bằng HCl 6N (kiểm tra bằng chỉ thị phenolphtalein)
thấy có sự phân lớp. Chiết lấy lớp trên ra và làm khan nước bằng CaCl
2
thu được 20
g cao lỏng màu hơi vàng, sánh và có mùi đặc trưng (cao MHE).
23
- Phần không tan trong đietyl ete cũng được axit hóa bằng dd HCl 6N (kiểm
tra bằng chỉ thị phenolphtalein) sau đó chiết lỏng lỏng với etyl axetat. Làm khan
nước bằng CaCl
2
, cô đuổi dung môi thu được cao màu vàng đậm, dạng sệt.
* Vì trong quá trình chiết thấy đietyl ete chiết không chọn lọc, lượng xà
phòng tan trong dung môi này nhiều nên tiến hành xà phòng hóa 100 g cao MH
theo quy trình như trên nhưng chiết bằng n-hexan mà không chiết bằng đietyl ete.
Dịch chiết n-hexan rất ít, hầu như toàn bộ lượng xà phòng ở lại trong dịch nước.
- Tiến hành chiết lỏng–lỏng, rửa bằng nước cất (không thu nước rửa) làm
khan nước, cô đuổi dung môi thu được 0,05g cao màu vàng rắn có lẫn các tinh thể
hình kim (cao MHSH).
- Axit hóa phần dịch nước không tan trong n-hexan bằng HCl 6N (theo dõi
bằng chỉ thị phenolphtalein) thấy trong cốc phân thành 2 phân lớp, lớp trên màu
vàng, lớp dưới trong suốt không màu. Chiết lấy lớp trên, làm khan nước thu được
cao lỏng màu vàng, sánh có mùi đặc trưng có khối lượng 50g.
Tất cả các cao chiết thu được đều được bảo quản trong tủ lạnh.
2.3.2. Xác định TPHH của dịch chiết và xác định hàm lượng amino axit trong
phần bã
- Trích 50 g cao MH gửi đi phân tích thành phần axit béo theo phương pháp
GC/MS tại Trung tâm nghiên cứu và phát triển sắc ký thành phố Hồ Chí Minh. Ở
đây việc phân tích thành phần axit béo được tiến hành theo phương pháp chuẩn
quốc tế AOAC 996.06 for Food và AOAC 969.33 for Oil.
Trong thực nghiệm tiến hành như sau: cân chính xác 0,5g cao MH thêm vào
10ml NaOH trong metanol 0,5M rồi đun hoàn lưu cách thủy 15 phút. Cho tiếp 50
ml BF
3
trong metanol 14% vào hỗn hợp trên rồi đun hoàn lưu cách thủy 15 phút.
Cho tiếp 15 ml n-hexan vào hỗn hợp rồi tiếp tục đun hoàn lưu cách thủy 15 phút sau
đó để nguội. Hỗn hợp cuối cùng được chiết bằng n-hexan để thu phần dẫn xuất
metyl este của axit béo. Định mức 25 ml sau đó chuyển mẫu đã metyl hóa vào ống
mẫu đem phân tích thành phần axit béo bằng máy sắc ký khí ghép khối phổ GC FID
của hãng Shimadzu.
24
- Trích 50 g phần bã nhân hạt macadamia đã loại béo và cho bay hơi hết
dung môi gửi đi phân tích thành phần amino axit trong mẫu theo phương pháp
LC/MS/MS tại Trung tâm nghiên cứu và phát triển sắc ký thành phố Hồ Chí Minh.
Trong thực nghiệm tiến hành như sau: mẫu bột loại béo được thủy phân bằng
dd HCl 6N, trung hòa môi trường sau đó mẫu được chuyển vào ống mẫu của máy
LC/MS/MS dòng TSQ của hãng THERMO để xác định hàm lượng amino axit theo
phương pháp chuẩn TK. Ez Faast.
- Trích 0,1 g cao MHSE gửi đi phân tích thành phần hóa học bằng phương
pháp GC/MS tại trung tâm nghiên cứu và phát triển sắc ký thành phố Hồ Chí Minh.
- Trích 0,01 g cao MHSH gửi đi phân tích thành phần sterol tại trung tâm
kiểm nghiệm thuốc, thực phẩm và mỹ phẩm Thừa Thiên Huế bằng phương pháp
GC/MS.
2.4. Thử hoạt tính sinh học các cao chiết
Trích 1 g cao MH và 1 g cao ME đem thử hoạt tính sinh học tại Phòng sinh
học thực nghiệm - Viện Hóa học các hợp chất thiên nhiên - Viện Khoa học và Công
nghệ Việt Nam, 18 Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội.
Hoạt tính kháng vi sinh vật kiểm định được tiến hành để đánh giá hoạt tính
kháng sinh của các mẫu chiết được tiến hành trên các phiến vi lượng 96 giếng theo
phương pháp hiện đại của Vander Bergher và Vlietlinck (1991) và Mc Kane, L.,&
Kandel (1996).
Chủng vi sinh vật kiểm nghiệm: Chủng Gram (+) gồm Bacillus subtilis,
Staphylococcus aureus; Chủng Gram (-) gồm Escherichia coli, Pseudomonas
aeruginosa; nấm sợi: Aspergillus niger và Fusarium oxysporum và nấm men:
Candida albicans, Saccharomyces cerevisiae.
Môi trường nuôi cấy vi sinh vật:
- Môi trường nuôi cấy và bảo tồn giống: Saboraud Dextrose Broth
(SDB) - Sigma cho nấm men và nấm sợi; TSB (Tryptic Soya Broth) – Sigma cho vi
khuẩn.
- Môi trường thí nghiệm: Eugon Broth (Difco, Mỹ) cho vi khuẩn; Myco
Phil (Difco, Mỹ) cho nấm.
25