Chu Xuân Minh- Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Tài liệu chuyên đề
GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Phần thứ nhất
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
1. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ TRANH CHẤP HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
1.1. Phân biệt vụ án tranh chấp hơn nhân và gia đình và việc dân sự về
hơn nhân và gia đình
Các tranh chấp về hơn nhân và gia đình (HN-GĐ) được quy định tại Điều 28
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS). Các yêu cầu về HN-GĐ được quy
định tại Điều 29 BLTTDS. Đặc trưng của yêu cầu về HN-GĐ làcác bên đương sự
không tranh chấp về quyền và nghĩa vụ mà chỉ yêu cầu Tồ án cơng nhận hoặc
khơng cơng nhận một sự kiện pháp lý nào đó về HN-GĐ.Phạm vi của chuyên đề
này là kỹ năng giải quyết các tranh chấp HN-GĐ, cũng có nghĩa là kỹ năng giải
quyết vụ án dân sự về HN-GĐ.
Theo quy định tại Điều 28 BLTTDS thì những tranh chấp HN-GĐ thuộc
thẩm quyền giải quyết của Toà án bao gồm:
1.1.1. Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; chia tài
sản sau khi ly hôn (Khoản 1 Điều 28 BLTTDS).
Vụ án ly hôn đồng thời có tranh chấp cả về việc ni con, chia tài sản khi
ly hôn là loại vụ án HN-GĐ điển hình. Loại tranh chấp này là việc do một bên
yêu cầu Tòa án giải quyết đồng thời cả 3 mối quan hệ phát sinh từ quan hệ hôn
nhân hợp pháp, đó là quan hệ về hơn nhân, quan hệ về nuôi con chung và quan
hệ về chia tài sản.
Trong quan hệ tranh chấp này, tranh chấp về hôn nhân là một bên yêu cầu
được ly hôn để chấm dứt quan hệ vợ chồng, cịn một bên khơng chấp nhận việc
ly hơn mà có u cầu được đồn tụ.
Tranh chấp về nuôi con là việc các bên không thống nhất được ai là
người có trách nhiệm trực tiếp ni con, ai là người có nghĩa vụ cấp dưỡng,
mức cấp dưỡng và thời gian cấp dưỡng ni con khi ly hơn. Ngồi ra, đương
sự khơng có sự thống nhất về việc chia tài sản, phân chia các quyền hoặc
nghĩa vụ về tài sản.
Vụ án ly hơn điển hình là có tranh chấp đối với cả 3 quan hệ. Tuy
nhiên, nếu đương sự yêu cầu giải quyết đồng thời các quan hệ thì chỉ cần có
tranh chấp đối với một quan hệ thì cũng phải xác định là vụ án hôn nhân và
gia đình.
Việc tranh chấp về chia tài sản sau khi ly hôn cũng là vụ án thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tịa án. Khi ly hơn, đương sự khơng bắt buộc phải yêu
cầu giải quyết về chia tài sản chung hoặc chỉ yêu cầu giải quyết một phần.
Do đó, sau khi đã ly hơn, nếu có tranh chấp về tài sản chung, đương sự có
quyền khởi kiện những vụ án về chia tài sản sau khi ly hôn.
1
Chu Xuân Minh- Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
1.1.2. Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân(Khoản 2 Điều 28 BLTTDS).
Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
được hiểu là mối quan hệ hôn nhân của vợ chồng vẫn đang tồn tại. Giữa họ
khơng có u cầu Tịa án giải quyết việc ly hơn mà chỉ yêu cầu phân chia tài
sản chung của vợ chồng xuất phát từ nhu cầu chính đáng của họ như để thực
hiện nghĩa vụ về tài sản riêng hoặc để thuận tiện cho các giao dịch riêng về
tài sản. Do vậy, nếu khơng thỏa thuận phân chia đượcthì trường hợp này pháp
luật quy định là có tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân và cũng là loại vụ án về HN-GĐ.
Nếu giữa vợ chồng khơng có sự tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng
mà đã tự nguyện, thống nhất phân chia bằng văn bản và có u cầu Tịa án cơng
nhận sự phân chia của họ về khối tài sản chung đó thì khơng thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tịa án. Trong trường hợp họ u cầu Tịa án cơng nhận sự thỏa
thuận đó thì Tịa án khơng thụ lý vì không phải vụ án HN-GĐ quy định ở Điều
28 và cũng không phải việc HN-GĐ quy định tại Điều 29. Do vậy, cần hướng
dẫn đương sự để họ liên hệ với cơ quan cơng chứng hoặc cơ quan hành chính
nhà nước có thẩm quyền để xác nhận. Cần lưu ý là tranh chấp về chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân đã được giải quyết bằng bản án, quyết định của
Tịa án nếu sau này có thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản
chung thì được giải quyết theo trình tự việc HN-GĐ theo quy định tại Khoản
7 Điều 29 BLTTDS.
1.1.3. Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly
hôn(Khoản 3 Điều 28 BLTTDS).
Đây là trường hợp mà trước khi đương sự khởi kiện giữa họ đã chấm dứt
quan hệ vợ chồng và đã giao con cho một bên trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc.
Do thay đổi tình hình của một trong hai bên mà nếu khơng thay đổi việc ni
con thì có thể ảnh hưởng đến cuộc sống của người con và giữa họ không thống
nhất được việc thay đổi nuôi con thì họ có quyền xin thay đổi việc ni con.
Trường hợp này có sự tranh chấp nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án theo quy định tại Điều 28 BLTTDS 2015. Nếu có sự thỏa thuận và chỉ
yêu cầu công nhân sự thỏa thuận về thay đổi người trực tiếp ni con thì là việc
HN-GĐ, khơng phải vụ án HN-GĐ.
1.1.4. Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho
cha, mẹ (Khoản 4 Điều 28 BLTTDS).
Tranh chấp này bao gồm cả yêu cầu khơng thừa nhận người nào đó là
con, là cha, là mẹ của họ hoặc xin được xác định mình là cha, là mẹ, là con của
một người nào đó.
Đối với những trường hợp mà yêu cầu xác định việc xác định cha, mẹ cho
con hoặc xác định con cho cha, mẹ khơng có tranh chấp mà tự nguyện thỏa
thuận thì thuộc thẩm quyền của UBND theo pháp luật về hộ tịch mà khơng
thuộc thẩm quyền của Tịa án.
2
Chu Xuân Minh- Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Trường hợp khơng có tranh chấp nhưng cũng khơng có thỏa thuận thì được
giải quyết theo thủ tục việc dân sự quy định tại Khoản 10 Điều 29 BLTTDS. Đó
là trường hợp chủ thể được yêu cầu xác định là cha, là mẹ, là con đã chết.
1.1.5. Tranh chấp về cấp dưỡng(Khoản 5 Điều 28 BLTTDS).
Đây là trường hợp chỉ có một yêu cầu về cấp dưỡng của những người được
cấp dưỡng và những người có nghĩa vụ cấp dưỡng như cha, mẹ, con, anh chị em
với nhau, giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa vợ chồng... việc cấp
dưỡng xuất phát có thể từ việc người có nghĩa vụ cấp dưỡng trốn tránh nghĩa vụ
hoặc có sự thay đổi về mức cấp dưỡng khi có căn cứ cho rằng mức cấp dưỡng
đó khơng cịn phù hợp với người được cấp dưỡng nữa. Tuy nhiên, yêu cầu cấp
dưỡng này chỉ được Tòa án thụ lý để giải quyết là vụ án tranh chấp khi có căn
cứ cho rằng giữa họ không thỏa thuận được mức cấp dưỡng, thời gian cấp
dưỡng, cấp dưỡng một lần hay theo định kỳ....và giữa họ đã xảy ra tranh chấp
với nhau. Ngoài người được cấp dưỡng có u cầu thì cịn có cơ quan, tổ chức
xã hội cũng có quyền u cầu Tịa án giải quyết yêu cầu về cấp dưỡng cho người
được cấp dưỡng như Cơ quan dân số - gia đình và trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ...
1.1.6. Tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo
Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 ( Luật HN-GĐ) đã quy định về
mang thai hộ với mục đích nhân đạo. Cùng với đó, Luật đã quy định Tịa án là
cơ quan có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ
trợ sinh sản, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, cụ thể trong các trường hợp:
+ Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con, thì bên mang
thai hộ có quyền u cầu Tòa án buộc bên nhờ mang thai hộ nhận con;
+ Trong trường hợp bên mang thai hộ từ chối giao con, thì bên nhờ mang
thai hộ có quyền u cầu Tòa án buộc bên mang thai hộ giao con;
+ Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ khơng cịn mà bên mang thai
hộ khơng nhận ni đứa trẻ, thì Tịa án chỉ định người giám hộ cho đứa trẻ theo
quy định của Bộ luật dân sự;
+ Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ không nhận con và bên mang
thai hộ khơng tự nguyện chăm sóc, ni dưỡng đứa trẻ, thì Tịa án chỉ định
người giám hộ cho đứa trẻ, bên nhờ mang thai hộ có trách nhiệm thực hiện
nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
Cần lưu ý là Khoản 6 Điều 29 BLTTDS cũng quy định về “Yêu cầu liên
quan đến việc mang thai hộ theo quy định của pháp luật hơn nhân và gia đình”.
Đây là trường hợp khơng có tranh chấp, được giải quyết theo thủ tục việc HNGĐ.
1.1.7. Tranh chấp về nuôi con, chia tài sản của nam, nữ chung sống với
nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn hoặc khi hủy kết hôn trái
pháp luật (Khoản 7 Điều 28 BLTTDS).
Hủy kết hôn trái pháp luật là một yêu cầu về HN-GĐ, được giải quyết
theo trình tự việc dân sự. Tuy vậy, nếu cùng với việc xin hủy kết hơn trái pháp
luật mà có tranh chấp về việc nuôi con chung hoặc chia tài sản thì phải giải
quyết theo thủ tục vụ án HN-GĐ.
3
Chu Xuân Minh- Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà khơng đăng
ký kết hơn thì khơng được cơng nhận quan hệ hơn nhân nhưng nếu có tranh chấp
về chia tài sản chung, ni con chung thì thuộc trường hợp vụ án HN-GĐ chứ
không phải vụ án dân sự thông thường.
1.1.8. Các tranh chấp khác về hôn nhân và gia đình theo quy định của
pháp luật (Khoản 8 Điều 28 BLTTDS).
Đây là một quy định mở về những tranh chấp về HN-GĐ khác mà chưa được
nêu tại Điều 28 BLTTDS nhưng nếu chưa có quy định cơ quan khác giải quyết thì
đều do Tịa án giải quyết.
1.2. Vấn đề chuyển việc HN-GĐ thành vụ án HN-GĐ.
1.2.1. Chuyển việc yêu cầu cơng nhận thuận tình ly hơn, thỏa thuận ni
con, chia tài sản khi ly hôn thành vụ án ly hơn.
u cầu “Cơng nhận thuận tình ly hơn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly
hôn” là một yêu cầu HN-GĐ quy định tại Khoản 2 Điều 29 BLTTDS. Yêu cầu này
được thụ lý để giải quyết theo trình tự việc dân sự khi cả hai vợ chồng cùng có đơn
hoặc cùng ký vào đơn có nội dung yêu cầu cơng nhận thuận tình ly hơn, thỏa thuận
ni con, chia tài sản chung.
Sau khi Tòa án đã thụ lý theo trình tự việc dân sự, một trong hai bên hoặc cả
hai bên có sự thay đổi yêu cầu. Nếu hai bên đạt được thỏa thuận mới, kể cả thỏa
thuận chưa yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản, thì Tịa án vẫn tiếp tục giải quyết
theo thủ tục việc dân sự (Ra Quyết định Cơng nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận
nuôi con, chia tài sản khi ly hôn). Nếu các đương sự không thỏa thuận được về việc
chia tài sản, hoặc việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con thì Tịa án
phải đình chỉ giải quyết việc dân sự về cơng nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận
nuôi con, chia tài sản khi ly hôn và thụ lý vụ án để giải quyết (Khoản 5 Điều 397
BLTTDS).
Khi chuyển từ thủ tục giải quyết việc dân sự về cơng nhận thuận tình ly hơn,
thỏa thuận ni con, chia tài sản khi ly hôn sang thủ tục giải quyết vụ án, Tịa án
khơng phải thơng báo việc thụ lý vụ án, không phải phân công lại Thẩm phán giải
quyết vụ án.
Thỏa thuận nuôi con không bao gồm thỏa thuận khơng u cầu Tịa án giải
quyết về con cái. Do vậy, khơng có được thỏa thuận cụ thể về việc trơng nom, ni
dưỡng, chăm sóc, giáo dục con là phải chuyển từ thủ tục việc dân sự sang vụ án
dân sự.
Có trường hợp vợ chồng thỏa thuận về tất cả các quan hệ về hôn nhân, nuôi
con, tài sản nhưng một bên khơng có mặt để tiến hành hịa giải thì khơng đủ cơ sở
để ra quyết định “Cơng nhận thuận tình ly hơn, thỏa thuận ni con,chia tài sản khi
ly hơn” theo trình tự quy định tại Điều 397 và Điều 212 BLTTDS. Như vậy, trường
hợp không hịa giải được thì cũng phải chuyển từ thủ tục giải quyết việc dân sự
sang thủ tục vụ án dân sự.
1.2.2.Chuyển việc yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật thành vụ án ly hôn.
Yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật là một yêu cầu HN-GĐ được giải quyết
theo thủ tục việc dân sự (Khoản 1 Điều 29 BLTTDS). Sau khi đã thụ lý việc dân sự
về yêu cầu hủy kết hơn trái pháp luật, có những trường hợp do đương sự thay đổi ý
4
Chu Xuân Minh- Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
kiến mà dẫn đến không thể tiếp tục giải quyết theo trình tự việc dân sự, phải chuyển
sang giải quyết theo trình tự vụ án dân sự. Cụ thể là một số trường hợp sau:
- Có đương sự yêu cầu được ly hôn (Xác định hôn nhân của họ là hợp pháp và
xin chấm dứt quan hệ hôn nhân hợp pháp). Đây là trường hợp được giải đáp ở mục
số 10, Phần IV, Giải đáp số 01/GĐ-TANDTC ngày 25/7/2016 của TAND tối cao.
- Bổ sung yêu cầu giải quyết tranh chấp về nuôi con chung hoặc tranh chấp
về chia tài sản đồng thời với việc giải quyết hủy kết hôn trái pháp luật hoặc đồng
thời với việc ly hôn (trường hợp đến thời điểm giải quyết thì hơn nhân đã đủ điều
kiện hợp pháp).
Trong các trường hợp này, Tòa án cũng phải đình chỉ giải quyết việc dân sự
về yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật và thụ lý vụ án dân sự về HN-GĐ.
1.3. Một số đặc thù của vụ án hơn nhân và gia đình.
1.3.1. Thường có 3 quan hệ tranh chấp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Đó là quan hệ hơn nhân, quan hệ nuôi con chung, quan hệ chia tài sản. Quan
hệ tranh chấp về hơn nhân giữ vai trị chi phối vì có ly hơn mới có chia tài sản khi
ly hơn; có ly hơn mới phải giải quyết việc ni con sau khi ly hơn.
Có quan hệ chặt chẽ nhưng khơng có nghĩa đều phải giải quyết đồng thời.
Trường hợp cấp sơ thẩm bác u cầu xin ly hơn thì cũng không giải quyết về việc
nuôi con hay chia tài sản. Cấp phúc thẩm vẫn có thể sửa bản án sơ thẩm và cho ly
hôn; giành quyền cho đương sự khởi kiện vụ án khác về việc nuôi con hoặc chia tài
sản.
Ba quan hệ tranh chấp thường phải được xem xét đồng thời nên cũng thường
xuất hiện đồng thời trong các văn bản tố tụng, thậm chí trong từng phần của một
văn bản tố tụng. Điều cần lưu ý là việc gọi tên các quan hệ này đang không thống
nhất. Cần phải gọi tên theo văn bản quy phạm pháp luật.
1.3.2. Đương sự trong vụ án là những người có quan hệ gia đình với nhau.
Ngồi vợ, chồng, con cái của họ, những đương sự khác cũng thường có nhiều
người có quan hệ gia đình, họ hàng. Cách dùng đại từ chỉ người cần phù hợp với
phong tục, văn hóa, có thứ bậc phù hợp. Do đó, khi tiến hành tố tụng, cần phải
lựa chọn đại từ nhân xưng (ông, bà, anh, chị) của từng đương sự một cách hợp
lý về thứ bậc và quan hệ gia đình.
Ví dụ: Trong vụ án ly hôn, nguyên đơn và bị đơn dưới 40 tuổi thì nên gọi là
anh, chị, để có thể gọi cha, mẹ họ là ông, bà, gọi các con đương sự là cháu; tránh
tình trạng con cái và cha mẹ cùng được gọi là ông, bà hay anh, chị như nhau.
1.3.3.Quan hệ giữa các đương sự trong vụ án thường diễn ra trong thời
gian dài.
Quan hệ giữa các đương sự trong vụ án hơn nhân và gia đình thường diễn
ra trong một thời gian dài. Do đó, sẽ có những sự kiện pháp lý ở những thời
điểm nhất định tuy là có liên quan đến các đương sự nhưng khơng phải là sự
kiện có ý nghĩa quyết định trong việc giải quyết u cầu của đương sự thì khơng
cần thiết phải đề cập đến trong quá trình tố tụng. Cần phải biết chọn lọc, xác
định đúng và đủ những sự kiện pháp lý liên quan đến mối quan hệ cần giải quyết
để đưa vào các văn bản tố tụng cũng như điều hành tranh tụng.
5
Chu Xuân Minh- Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Ví dụ: Chị B khởi kiện u cầu ly hơn anh A thì khơng cần thiết phải nêu
cả sự kiện trước khi lấy chị B, anh A đã có vợ là chị C, do chị C không sinh
được con nên phải nhờ chị B mang thai hộ; sau đó, tranh chấp con, rồi anh A lại
có tình cảm với chị B, bỏ chị C lấy chị B…
1.3.4. Nguyên nhân xảy ra tranh chấp, những sự kiện pháp lý trong
quan hệ HN-GĐ có nhiều vấn đề có tính chất tế nhị.
Đối với các tranh chấp về hơn nhân và gia đình, trong nhiều trường hợp,
nguyên nhân mâu thuẫn gia đình là những ngun nhân tế nhị. Do đó, phải chọn
ngơn ngữ, cách thể hiện, diễn đạt làm sao để giữ gìn danh dự cho đương sự. Vì
thế, tránh viết lại cụ thể những từ thơ tục, những đánh giá có tính chất mạt sát
lẫn nhau, những hành vi thể hiện lối sống đồi trụy, sa đọa… Tránh trích dẫn
nguyên văn những lời khai của đương sự làm ảnh hưởng đến danh dự, nhân
phẩm của họ.
1.3.5. Vụ án HN-GĐ thường có nhiều vấn đề liên quan đến cá nhân cần
giữ bí mật trước cơng chúng.
Trong vụ án hơn nhân và gia đình, có những vấn đề liên quan đến danh dự,
uy tín và có tính chất riêng tư của cá nhân cần giữ bí mật trước cơng chúng. Bí
mật cá nhân, bí mật nghề nghiệp, bí mật gia đình theo quy định của pháp luật là
Tịa án khơng được phép cơng khai. Vụ án hơn nhân và gia đình thường có
nhiều vấn đề cần giữ bí mật hơn các vụ án dân sự khác. Tuy vậy, tùy từng
trường hợp cụ thể, từng loại phạm vi giữ bí mật mà Tịa án xác định là bí mật cá
nhân, bí mật gia đình, khơng phải cứ đương sự đề nghị là chấp nhận.
Ở nhiều nước, án kiện hơn nhân gia đình đều được xử kín.
2. MỘT SỐ LƯU Ý VỀ PHÁP LUẬT HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH.
2.1.Nguyên tắc chung về áp dụng pháp luật hơn nhân và gia đình
Cũng như các lĩnh vực chun ngành khác, pháp luật HN-GD là pháp luật
chuyên ngành nên chỉ trong trường hợp pháp luật HN-GĐ không quy định thì mới
áp dụng pháp luật chung là pháp luật dân sự. Do đó, nghiên cứu về kỹ năng giải
quyết vụ án HN-GĐ phải bao gồm nghiên cứu về pháp luật HN-GĐ, là căn cứ định
hướng để tiến hành các hoạt động tố tụng như thu thập chứng cứ, điều hành tranh
tụng, quyết định các vấn đề của vụ án.
Nguyên tắc áp dụng pháp luật HN-GĐ cũng theo nguyên tắc chung được quy
định theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Khoản 1 Điều 156 Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật quy định:
“1. Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng từ thời điểm bắt đầu có hiệu lực.
Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng đối với hành vi xảy ra tại thời điểm
mà văn bản đó đang có hiệu lực. Trong trường hợp quy định của văn bản quy phạm
pháp luật có hiệu lực trở về trước thì áp dụng theo quy định đó.”
Quan hệ HN-GĐ lại thường diễn ra trong thời gian rất dài. Vì vậy, giải quyết vụ
án HN-GĐ cũng thường phải áp dụng văn bản quy phạm pháp luật không cịn hiệu
lực ở thời điểm xét xử. Ví dụ: Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân ở thời
điểm thi hành Luật HN-GĐ năm 1986 phải do Tòa án quyết định (Điều 18 và Điều
42 Luật HN-GĐ năm 1986) nhưng trong thời kỳ thi hành Luật HN-GĐ năm 2000
6
Chu Xuân Minh- Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
thì vợ chồng có thể tự chia theo quy định (Điều 29 Luật HN-GĐ năm 2000) cũng có
hiệu lực hợp pháp. Do đó, nắm vững pháp luật HN-GĐ để giải quyết vụ việc HNGĐ bao gồm toàn bộ hệ thống pháp luật HN-GĐ chứ không phải chỉ gồm những văn
bản đang có hiệu lực thi hành. Tuy nhiện, nội dung nghiên cứu về pháp luật HN-GĐ
dưới đây chỉ tập trung vào những vấn đề phải áp dụng thường xuyên tại Tòa án.
2.2. Khái quát chung về hệ thống pháp luật Hơn nhân và gia đình
Từ khi giành độc lập, thành lập nước Việt Nam 1945 đến nay, Nhà nước
ta đã 04 lần ban hành Luật Hơn nhân và gia đình:
- Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959, có hiệu lực từ ngày 13/01/1960
đối với miền Bắc, từ 25/3/1977 đối với miền Nam;
- Luật Hơn nhân và gia đình năm 1986, có hiệu lực từ ngày 03/01/1987;
- Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000, có hiệu lực từ ngày 01/01/2001;
- Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014, có hiệu lực từ ngày 01/01/2015.
Sau đây Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 là Luật hiện hành nên chỉ viết
là Luật Hơn nhân và gia đình, viết tắt là Luật HN-GĐ.
Ở mỗi giai đoạn thi hành luật hôn nhân và gia đình, tại các thời kỳ khác
nhau, Nhà nước lại ban hành các văn bản pháp quy hướng dẫn. Khi xét xử
các tranh chấp về hôn nhân và gia đình, cần lưu ý những văn bản quy phạm
pháp luật hướng dẫn Luật sau:
Văn bản hướng dẫn Luật HN-GĐ năm 1959 bao gồm:
- Thông tư số 01-TTg/NC ngày 04/01/1966 của Thủ tướng chính phủ về
việc các cơ quan, xí nghiệp nhà nước, đơn vị quân đội giúp đỡ thi hành
những bản án về hơn nhân và gia đình xử người công nhân, viên chức, quân
nhân phải cấp tiền nuôi dưỡng vợ con;
- Nghị quyết số 76-CP ngày 25/3/1977 của Hội đồng Chính phủ về việc
hướng dẫn thi hành và xây dựng pháp luật thống nhất trong cả nước.
- Thông tư số 60/TATC ngày 22/02/1978 của Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn giải quyết các việc tranh chấp về hôn nhân và gia đình của cán bộ,
bộ đội có vợ, có chồng trong Nam tập kết ra Bắc lấy vợ, lấy chồng khác.
Văn bản hướng dẫn Luật HN-GĐ năm 1986 bao gồm:
Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật HNGĐ năm 1986.
Nghị quyết 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế.
Văn bản hướng dẫn Luật HN-GĐ năm 2000 bao gồm:
- Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội về việc thi
hành Luật HN-GĐ năm 2000;
- Chỉ thị số 15/2000/CT-TTg ngày 09/8/2000 của Thủ tướng Chính phủ
về việc thi hành Luật HN-GĐ năm 2000;
- Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành Luật HN-GĐ năm 2000;
- Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 của Chính phủ quy định
về đăng ký kết hôn.
7
Chu Xuân Minh- Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
- Nghị định số 87/2001/NĐ-CP ngày 21/11/2001 của Chính phủ về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hơn nhân và gia đình;
- Thơng tư số 07/2001/TT-BTP ngày 10/12/2001 của Bộ Tư pháp hướng
dẫn thi hành một số quy định của Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày
03/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị
quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội;
- Nghị định số 32/2002/NĐ-CP ngày 27/3/2002 của Chính phủ quy định
việc áp dụng Luật HN-GĐ đối với các dân tộc thiểu số;
- Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật HN-GĐ về quan hệ hơn nhân và gia
đình có yếu tố nước ngồi;
- Thông tư số 07/2002/TT-BTP ngày 16/12/2002 của Bộ Tư pháp hướng
dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002
của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật HN-GĐ năm
2000 có yếu tố nước ngoài;
- Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm
phán Tịa án nhân dân tối cao;
- Thơng tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày
03-01-2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ
Tư pháp hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000
của Quốc hội về việc thi hành Luật HN-GĐ năm 2000;
- Công văn số 112/2001 -KHXX ngày 14/9/2001 của Toà án nhân dân tối
cao;
- Kết luận số 84a/UBTVQH 11 ngày 29/4/2003 của Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội;
- Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của Tòa án nhân dân
tối cao về việc hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại
tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình.
- Chỉ thị số 02/2003/CT-BTP ngày 14/7/2003 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp
về việc tiếp tục đăng ký kết hôn cho các trường hợp nam và nữ chung sống
với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001;
- Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải
quyết các vụ án dân sự, hơn nhân và gia đình;
- Cơng văn số 77/2003/HĐTP ngày 27/6/2003 của Tịa án nhân dân tối
cao thơng báo việc tiếp tục giải quyết các vụ án nêu tại điểm b mục 1 phần II
của Nghị quyết số 01/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao.
Văn bản hướng dẫn Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 (Luật HNGĐ)
- Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ quy
định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật HN-GĐ;
8
Chu Xuân Minh- Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
- Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày 28/01/2015 của Chính phủ quy định
về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo.
- Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày
06/01/2016 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật HN-GĐ.
2.3. Các trạng thái hôn nhân, ý nghĩa pháp lý.
2.3.1. Hôn nhân hợp pháp:
Hôn nhân hợp pháp là quan hệ hôn nhân được xác lập và tồn tại phù hợp
với các quy định pháp luật, có đăng ký kết hơn và được Cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận kết hơn.
Nam nữ có quan hệ hơn nhân hợp pháp được Nhà nước thừa nhận và bảo
vệ, ln có điều kiện thuận lợi về mặt pháp lý khi tham gia các giao dịch dân
sự cũng như được bảo đảm quyền lợi phát sinh từ việc xác lập quan hệ hơn
nhân này.
Hơn nhân hợp pháp cịn bao gồm những trường hợp tuy có vi phạm một
số quy định khi kết hơn nhưng sau đó đã đủ điều kiện được cơng nhận hôn
nhân theo quy định của pháp luật.
Trong vụ án HN-GĐ hay các tranh chấp dân sự khác có liên quan đến
quan hệ hơn nhân, việc xác định tính chất của quan hệ hơn có ý nghĩa rất
quan trọng. Từ việc xác định được tính chất của quan hệ hơn nhân mới xác
định đúng được các quyền, nghĩa vụ cụ thể.
Ví dụ: Quan hệ giữa Ơng A, và bà B được xác định là quan hệ hơn nhân
hợp pháp thì khi ơng A chết trước, bà B có quyền hưởng thừa kế của ông A,
và việc chia tài sản chung của ông A và bà B tuân theo pháp luật hơn nhân và
gia đình; nếu giữa hai người khơng được cơng nhận là hơn nhân hợp pháp thì
bà B khơng được hưởng thừa kế của ông A và việc chia tài sản chung tuân
theo quy định của pháp luật dân sự.
2.3.2. Hôn nhân thực tế:
Hôn nhân thực tế một quan hệ được xác lập giữa hai người, một nam và
một nữ, có đủ các điều kiện để kết hơn, chung sống với nhau như vợ chồng
nhưng lại không đăng ký kết hơn.
Có một thời kỳ dài hơn nhân thực tế được thừa nhận trong thực tiễn giao
dịch, như là một chế định bổ khuyết có tác dụng khắc phục những khó khăn
trong việc thiết lập hệ thống hộ tịch trên phạm vi cả nước (khó khăn do chiến
tranh), cũng như việc hạn chế nhận thức của một bộ phận dân cư về hơn nhân
và gia đình.
Từ trước ngày 03/01/1987, Nhà nước ta vẫn thừa nhận giá trị của hôn
nhân thực tế, nếu các bên cư xử với nhau như vợ chồng, sống chung và gánh
vác cơng việc gia đình, được gia đình hai bên và xã hội thừa nhận. Từ sau khi
Luật hơn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực (03/01/1987), thì chỉ có các
trường hợp hai người chung sống với nhau như vợ chồng, có tài sản chung
hoặc có con chung mới được coi là hơn nhân thực tế và mới được Nhà nước
thừa nhận là hôn nhân hợp pháp.
9
Chu Xuân Minh- Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Từ ngày 01/01/2001 (ngày Luật HN-GĐ năm 2000 có hiệu lực) thì các
tiêu chí xác định “khái niệm chung sống với nhau như vợ chồng” để được
thừa nhận là hôn nhân thực tế được mở rộng hơn nhiều, khơng địi hỏi họ
phải "có con chung, có tài sản chung", "sống chung công khai được họ hàng,
xã hội thừa nhận" như hướng dẫn trước đây.
Cần lưu ý là từ thời điểm thi hành Luật HN-GĐ năm 2000 thì văn bản
pháp quy và thực tiễn xét xử không sử dụng thuật ngữ “hôn nhân thực tế”
nữa mà sử dụng thuật ngữ “chung sống như vợ chồng”. Từ việc chung sống
như vợ chồng sẽ được “công nhận quan hệ hôn nhân” hay “không cơng nhận
quan hệ vợ chồng” (sẽ trình bày cụ thể ở phần sau).
Tuy nhiên, thời điểm xác định “chung sống như vợ chồng” cũng có ý
nghĩa rất quan trọng. Nghị quyết số 35/2000/QH10 quy định hậu quả pháp lý
rất khác nhau đối với các mối quan hệ có thời điểm chung sống như vợ
chồng khác nhau. Có quan hệ ở mức độ nào được coi là “chung sống như vợ
chồng” cũng cần phải có tiêu chí thống nhất. Theo quy định tại Điểm d Mục
2 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày
03/01/2001 thì chung sống như vợ phải thuộc một trong những trường
hợp sau đây:
- Có tổ chức lễ cưới khi về chung sống với nhau;
- Việc họ về chung sống với nhau được gia đình (một bên hoặc cả hai
bên) chấp nhận;
- Việc họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng
kiến;
- Họ thực sự có chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau
xây dựng gia đình.
Thời điểm nam và nữ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng là ngày
họ tổ chức lễ cưới hoặc ngày họ về chung sống với nhau được gia đình (một
hoặc cả hai bên) chấp nhận hoặc ngày họ về chung sống với nhau được người
khác hay tổ chức chứng kiến hoặc ngày họ thực sự bắt đầu chung sống với
nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình.
2.3.3. Kết hơn trái pháp luật:
Kết hơn trái pháp luật là tình trạng hơn nhân có đăng ký kết hơn nhưng vi
phạm một hoặc một số điều kiện kết hôn hợp pháp; hoặc thủ tục kết hôn
không đúng quy định của pháp luật.
Trường hợp kết hơn trái pháp luật thì mới là đối tượng của việc yêu cầu
hủy hôn nhân trái pháp luật. Cần phân biệt trường hợp kết hôn trái pháp luật
với trường hợp chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết
hôn.
Chung sống với nhau như vợ chồng cũng là một tình trạng hơn nhân bất
hợp pháp (nếu một bên đã có vợ hoặc có chồng), thậm chí có thể bị xử lý
bằng biện pháp hình sự nhưng khơng thuộc đối tượng của yêu cầu hủy kết
hôn trái pháp luật. Việc giải quyết hậu quả của việc chung sống như vợ
chồng mà không đăng ký kết hôn theo quy định tại các điều 14, 15, 16 Luật
HN-GĐ.
10
Chu Xuân Minh- Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Luật HN-GĐ có một quy định mới là có thể công nhận hôn nhân khi
giải quyết yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật.
Khoản 2 Điều 11 Luật HN-GĐ quy định: “Trong trường hợp Tòa án giải
quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật mà cả hai bên kết hơn đã có đủ
các điều kiện theo quy định của Điều 8 Luật này và hai bên yêu cầu cơng
nhận quan hệ hơn nhân thì Tịa án cơng nhận quan hệ hơn nhân đó. Trong
trường hợp này, quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm các bên đủ điều
kiện kết hôn theo quy định của Luật này.”
2.3.4. Ly thân:
Ly thân là trạng thái hôn nhân mà nam nữ khơng cịn chung sống như vợ
chồng nhưng họ chưa chính thức chấm dứt hơn nhân, vì nhiều lý do khác
nhau họ vẫn muốn duy trì mối quan hệ, nghĩa vụ với nhau.
Ở Việt Nam, ly thân đã từng được quy định trong Bộ Dân luật giản yếu
Nam kỳ 1883, trong án lệ ở Bắc Kỳ trước năm 1945 và trong pháp luật về gia
đình của chế độ cũ ở miền Nam (Luật Gia đình năm 1959, Bộ luật Dân sự
năm 1972).
Trên thế giới, ly thân cũng đã được nhiều nước thừa nhận như: Cộng hòa
Pháp, Cộng hòa Liên bang Đức, Thụy Điển, Thái Lan, Philippin, Singapore,
một số bang của Hoa Kỳ...
Tuy nhiên, Luật HN-GĐ hiện hành không ghi nhận ly thân là một chế
định pháp lý của pháp luật hơn nhân và gia đình. Luật hiện hành khơng có
quy định nào buộc vợ chồng nhất thiết phải sống chung nên đương nhiên họ
có quyền sống riêng mà khơng cần có quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
Với quy định hiện hành thì thời kỳ ly thân vẫn là thời kỳ hôn nhân hợp pháp,
các quan hệ về tài sản cũng như các quyền và nghĩa vụ vẫn có giá trị pháp lý
như trong thời kỳ hơn nhân. Ví dụ: tài sản do một bên làm ra trong thời kỳ ly
thân cũng vẫn là tài sản chung.
2.4. Một số trường hợp có vi phạm nhưng vẫn được cơng nhận hôn
nhân hợp pháp
2.4.1. Vi phạm chế độ một vợ, một chồng
Một trong những nguyên tắc xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình Việt
Nam là hơn nhân một vợ một chồng (Khoản 1 Điều 2 Luật HN-GĐ). Luật
Hôn nhân và gia đình năm 1959, 1986, 2000 đều quy định nguyên tắc “một
vợ, một chồng”. Do đó, người đang có vợ, có chồng mà kết hơn hoặc chung
sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết
hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ là vi
phạm chế độ một vợ, một chồng và bị pháp luật cấm. Các trường hợp kết hôn
này bị coi là hôn nhân không hợp pháp.
Tuy nhiên, do đặc điểm lịch sử Việt Nam trải qua nhiều giai đoạn của
chiến tranh và có thời kỳ đất nước bị chia cắt, do đó pháp luật Việt Nam vẫn
thừa nhận một số trường hợp hôn nhân vi phạm chế độ một vợ, một chồng là
hôn nhân hợp pháp, cụ thể như sau:
11
Chu Xuân Minh- Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
2.4.1.1. Trường hợp kết hôn trước ngày 13/01/1960 ở miền Bắc (ngày
Luật Hơn nhân và gia đình 1959 có hiệu lực):
Theo quy định của Luật HN-GĐ năm 1959 thì kể từ ngày 13/01/1960,
những trường hợp kết hôn vi phạm nguyên tắc một vợ một chồng là hôn nhân
không hợp pháp. Các quan hệ hôn nhân xác lập trước thời điểm 13/01/1960
không bị điều chỉnh bởi nguyên tắc của Luật HN-GĐ năm 1959 nên dù có
quan hệ hơn nhân nhiều vợ, nhiều chồng vẫn được coi là hợp pháp. Những
quan hệ hôn nhân này là hợp pháp nên các chủ thể (vợ hoặc chồng) có quyền
và nghĩa vụ theo quan hệ hơn nhân hợp pháp. Cụ thể như họ có quyền thừa
kế tài sản của nhau, nhưng nếu họ không được Tịa án cho ly hơn mà đã kết
hơn với người khác (kể từ thời điểm 13/01/1960) là trái pháp luật; hôn nhân
sau không được công nhận.
Cũng cần lưu ý là, quan hệ hôn nhân nhiều vợ, nhiều chồng trước Luật
HN-GĐ 1959 có thể có đăng ký, cũng có thể khơng có đăng ký. Do tồn tại
lịch sử, chúng ta khơng chỉ thừa nhận những quan hệ hơn nhân có đăng ký là
hợp pháp mà cả những quan hệ hôn nhân thực tế cũng được coi là hợp pháp.
2.4.1.2. Trường hợp kết hôn trước ngày 25/3/1977 ở miền Nam (ngày ban
hành Nghị quyết số 76/CP)
Do đặc điểm lịch sử của nước ta, Luật HN-GĐ năm 1959 sau khi ban
hành, mới chỉ có hiệu lực ở miền Bắc. Ở miền Nam, thời điểm áp dụng Luật
HN-GĐ năm 1959 là ngày 25/3/1977 (ngày ban hành Nghị quyết 76/CP công
bố danh mục văn bản pháp luật áp dụng trong cả nước, trong đó có luật Hơn
nhân và gia đình năm 1959). Tương tự như ở miền Bắc, những quan hệ hôn
nhân xác lập trước ngày 25/3/1977 ở miền Nam không tuân theo nguyên tắc
một vợ một chồng vẫn được công nhận hợp pháp.
2.4.1.3. Trường hợp công nhận hôn nhân hợp pháp theo Thông tư
60/TATC ngày 22/02/1978 của Tòa án nhân dân tối cao.
Theo quy định tại Thơng tư 60 nêu trên thì bộ đội, cán bộ có vợ, có chồng
ở miền Nam tập kết ra miền Bắc, lấy vợ, chồng khác. Nay nếu vợ hoặc chồng
ở miền Nam vẫn khơng có quan hệ hơn nhân mới và vẫn muốn duy trì quan
hệ hơn nhân trước đây thì cơng nhận cả hơn nhân trước đây và hôn nhân mới
là hôn nhân hợp pháp.
Cần chú ý là Thông tư 60 quy định hướng giải quyết khá cụ thể cho từng
loại quan hệ hôn nhân và chỉ với những quan hệ hôn nhân được xác lập trong
thời gian từ sau ngày ký Hiệp định Giơnevơ đến ngày Luật Hơn nhân và gia
đình áp dụng trong cả nước (từ ngày 20/7/1954 đến 25/3/1977).
Quy định của Thông tư 60 là trường hợp công nhận hôn nhân hợp pháp
đặc biệt trên cơ sở xét đến hoàn cảnh đặc biệt của chiến tranh, yêu cầu ổn
định quan hệ gia đình phù hợp đạo lý và giải quyết hậu quả đặc biệt của
chiến tranh.
Vấn đề đặt ra là, trường hợp cán bộ, bộ đội đã có quan hệ hơn nhân ở
miền Bắc, vào miền Nam chiến đấu, cơng tác lại có quan hệ hơn nhân mới ở
miền Nam có được cơng nhận hôn nhân mới ở miền Nam là hợp pháp theo
quy định của Thông tư 60 hay không? Trước hết, phải xác định các đối tượng
12
Chu Xuân Minh- Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
này không phải là các chủ thể thuộc phạm vi điều chỉnh của Thông tư 60.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt do hoàn cảnh đặc biệt của chiến
tranh và u cầu nhiệm vụ cơng tác mà có cơ sở xem xét giống như quy định
tại Thông tư 60 thì cũng cần cơng nhận quan hệ hơn nhân mới của họ là hợp
pháp (cùng với quan hệ hôn nhân đã có trước ở miền Bắc). Ví dụ: Do điều
kiện công tác mà cơ quan, tổ chức của một người đồng ý cho họ kết hôn, mặc
dù họ đang có quan hệ hơn nhân ở miền Bắc.
Riêng với trường hợp đang có quan hệ hơn nhân ở miền Bắc lại kết hôn ở
miền Nam trong khoảng thời gian từ 01/5/1975 đến trước 25/3/1977 (thời
gian mà đất nước đã thống nhất nhưng Luật Hơn nhân và gia đình chưa áp
dụng ở miền Nam) thì khơng thể cơng nhận quan hệ hơn nhân sau là hợp
pháp. Người đang có quan hệ hôn nhân ở miền Bắc biết rõ quan hệ hôn nhân
mà họ đang có là hợp pháp và việc họ chưa được ly hôn lại kết hôn với người
khác là trái pháp luât; điều kiện đất nước đã giải phóng, đã thống nhất nên
khơng cịn cơ sở để chấp nhận việc họ không thực hiện Luật HN-GĐ năm
1959.
2.4.2. Vi phạm do không đăng ký kết hôn
Việc đăng ký kết hôn được Nhà nước ta quy định từ Luật HN-GĐ năm
1959. Điều 11 quy định: “Việc kết hôn phải được Uỷ ban hành chính cơ sở
nơi trú quán của bên người con trai hoặc bên người con gái công nhận và ghi
vào sổ kết hôn”. Luật HN-GĐ năm 1986 cũng quy định tại Điều8: “Việc kết
hôn do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi thường trú của một trong
hai người kết hôn công nhận và ghi vào sổ kết hôn theo nghi thức do Nhà
nước quy định….Mọi nghi thức kết hơn khác đều khơng có giá trị pháp lý”.
Tuy nhiên, do nhiều yếu tố về lịch sử, kinh tế, xã hội mà quy định về đăng ký
kết hôn của cả Luật HN-GĐ năm 1959 và Luật HN-GĐ năm 1986 không
được thi hành nghiêm chỉnh. Để khắc phục thực tế tồn tại, tại Nghị quyết số
01/NQ-HĐTP ngày 20/01/1988, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao hướng dẫn thi hành Luật Hơn nhân và gia đình, có nội dung: đối với việc
kết hơn khơng có đăng ký, tuy vi phạm về thủ tục kết hôn nhưng không coi là
kết hơn trái pháp luật, trong trường hợp này nếu có một hoặc hai bên xin ly
hơn, thì Tịa án khơng hủy việc kết hôn mà xử như ly hôn.
Từ ngày Luật HN-GĐ năm 2000 có hiệu lực (01/01/2001) và theo quy
định tại Luật HN-GĐ hiện hành (2014), thì việc đăng ký kết hơn tại Cơ quan
có thẩm quyền là bắt buộc. Nếu nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng
mà khơng đăng ký kết hơn thì hơn nhân khơng được pháp luật thừa nhận,
việc kết hơn khơng có giá trị pháp lý.
Như vậy, kể từ ngày 01/01/2001 thì nam nữ muốn trở thành vợ chồng
hợp pháp của nhau phải đăng ký kết hôn. Đăng ký kết hôn là một nghi thức
bắt buộc, chỉ khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký việc kết hơn cho
họ thì giữa họ mới phát sinh quan hệ vợ chồng. Về thẩm quyền đăng ký kết
hôn cũng được quy định rõ theo Điều 17 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP của
Chính phủ: Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú của bên nam hoặc bên nữ
thực hiện việc đăng ký kết hôn.
13
Chu Xuân Minh- Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Quy định về đăng ký kết hơn chỉ mang tính bắt buộc từ ngày
01/01/2001, do đó Nghị quyết số 35/2000 NQ-QH10 ngày 09/6/2000 của
Quốc hội và Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTCBTP ngày 18/01/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Bộ Tư pháp về thực hiện Luật Hơn nhân và Gia đình 2000 quy định
một số trường hợp hôn nhân không đăng ký kết hôn vẫn là hôn nhân hợp
pháp, cụ thể là:
2.4.2.1 Hôn nhân xác lập trước ngày 03/01/1987
Theo Điểm a Muc 3 Nghị quyết số 35/2000 NQ-QH10 thì: Đối với quan
hệ vợ chồng được xác lập trước khi Luật HN-GĐ năm 1986 có hiệu lực
(trước ngày 03/01/1987) thì khơng bắt buộc phải đăng ký kết hơn mà chỉ
khuyến khích đăng ký kết hơn. Nếu họ đăng ký kết hơn thì việc tham gia các
giao dịch có căn cứ pháp lý và thuận lợi hơn, Nhà nước tạo điều kiện để họ
đăng ký kết hơn được dễ dàng nhưng dù họ có đăng ký kết hơn hay khơng
đăng ký kết hơn thì quan hệ vợ chồng vẫn được công nhận là hợp pháp và
thời kỳ hôn nhân hợp pháp bắt đầu kể từ ngày xác lập.
2.4.2.2. Hôn nhân xác lập trong thời gian có hiệu lực của Luật HN-GĐ
năm 1986 (từ 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001), được coi là hợp pháp đến
ngày 01/01/2003:
Theo quy định tại Điểm b Mục 3 Nghị quyết số 35/2000 NQ-QH10 và
Mục 2 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP thì:
Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến ngày
01/01/2001, mà có đủ điều kiện kết hơn theo quy định của Luật thì có nghĩa
vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật có hiệu lực cho
đến ngày 01/01/2003; trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn,
nhưng có u cầu ly hơn thì Tịa án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật
HN-GĐ năm 2000 để giải quyết. Từ sau ngày 01/01/2003 mà họ không đăng
ký kết hơn thì pháp luật khơng cơng nhận họ là vợ chồng.
Như vậy, kể từ ngày 01/01/2001 cho đến ngày 01/01/2003 nếu họ chưa
đăng ký kết hôn hoặc đã đăng ký kết hơn mà họ có u cầu ly hơn, thì Tồ án
thụ lý vụ án và áp dụng quy định về ly hôn của Luật HN-GĐ năm 2000 để
giải quyết vụ án ly hôn theo thủ tục chung. Cần chú ý trong trường hợp họ
thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định tại Điểm b Khoản 3 Nghị quyết
số 35 của Quốc hội, thì quan hệ của họ vẫn được công nhận là đã xác lập kể
từ ngày họ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng, chứ không phải kể từ
ngày đăng ký kết hôn.
Đặc trưng quy định cho trường hợp tại Điểm b Khoản 3 Nghị quyết
35/2000 khác với trường hợp quan hệ vợ chồng xác lập trước Luật HN-GĐ
năm 1986 có hiệu lực (trước 03/01/1987) và sau Luật HN-GĐ năm 1986 có
hiệu lực (từ 01/01/2001) là quy định một thời hạn để họ đi đăng kí kết hơn.
Thời hạn "đăng kí chậm" 2 năm này để giành quyền cho họ hợp pháp hố
quan hệ vợ chồng. Và như vậy, có thể có các khả năng như sau:
- Trường hợp 1: Họ xin ly hơn trong thời gian "đăng kí chậm". Trong
thời hạn này, họ khơng đăng kí kết hơn mà u cầu xin ly hơn thì "Tồ án áp
14
Chu Xuân Minh- Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
dụng các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết". Có
nghĩa là hơn nhân đã có của họ được cơng nhận là hợp pháp từ thời điểm xác lập
đến thời điểm cho ly hôn: các quyền và nghĩa vụ pháp lý xuất hiện trong thời kì
hơn nhân này giống như các quan hệ hơn nhân hợp pháp khác.
Ví dụ: Ơng A và và B chung sống với nhau như vợ chồng từ 01/01/1988
khơng có đăng kí kết hơn. Năm 1995, ơng A mua được một ngơi nhà (khơng
có cơng sức của bà B). Năm 1999, ông A bán nhà cho ông C (bà B không
đồng ý bán nhà). Ngày 2/1/2001, ông A xin ly hơn bà B. Tịa án có cơ sở xác
định cho ly hôn và xác định ngôi nhà mua năm 1995 là tài sản chung để phân
chia cho ông A và bà B; hợp đồng mua bán nhà giữa ông A với ông C là vô
hiệu.
- Trường hợp 2: Họ đăng kí kết hơn trong thời gian "đăng kí chậm". Quan
hệ hôn nhân của họ được công nhận hợp pháp kể từ thời điểm xác lập. Trong
ví dụ nêu trên, nếu ông A và bà B đi đăng kí kết hôn vào ngày 02/01/2001,
sau đó mới xin ly hơn và đến ngày 1/1/2004 mới được xét cho ly hơn thì thời
kỳ hôn nhân hợp pháp của ông A và B là từ 1/1/1988 đến 1/1/2004 chứ
không phải chỉ từ 2/1/2001 (ngày đăng kí kết hơn) đến ngày cho ly hơn. Và
như vậy, ngôi nhà tạo lập năm 1995 vẫn là tài sản chung của vợ chồng.
- Trường hợp 3: Đến 15/01/2003, ông A và bà B mới đăng kí kết hôn.
Trường hợp này, quan hệ hôn nhân hợp pháp của ông A và bà B chỉ được
tính kể từ thời điểm kết hôn (15/01/2003). Và như vậy, ngôi nhà tạo lập năm
1995 là tài sản có trước hơn nhân, nó đương nhiên là tài sản riêng của ông A.
Qua ngày 01/01/2003 họ khơng đăng kí kết hơn là họ đã tự xố khả năng
cơng nhận thời kỳ hơn nhân hợp pháp của tồn bộ q trình chung sống trước
đó.
- Trường hợp 4: Sau ngày 01/01/2003, ông A và bà B không đăng kí kết
hơn và một trong hai người xin ly hơn thì phải xử khơng cơng nhận là vợ
chồng. Thậm chí, họ khơng được Tồ án xử cho ly hơn mà tự đi kết hơn với
người khác thì hơn nhân mới không bị coi là vi phạm chế độ một vợ một
chồng (vì sau ngày 01/01/2003 quan hệ chung sống trước đó giữa ơng A và
bà B đương nhiên bị coi là không hợp pháp).
2.4.3. Vi phạm về tuổi kết hôn
Vi phạm về độ tuổi kết hôn là trường hợp một trong hai bên hoặc cả hai
bên nam nữ chưa đạt đến độ tuổi quy định, trường hợp kết hôn vi phạm về độ
tuổi cịn được gọi là tảo hơn.
Luật HN-GĐ năm 1959, 1986 và 2000 đều quy định độ tuổi kết hôn là:
“Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên". Đến Luật HNGĐ hiện nay thì quy định về độ tuổi có sửa đổi. Theo Điều 8 Luật HN- GĐ
thì“nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên”. Như vậy, Luật HNGĐ hiện hành nâng độ tuổi kết hơn của nữ thành đủ 18 tuổi thay vì vừa bước
qua tuổi 18 như quy định tại các Luật HN-GĐ trước đây; độ tuổi kết hôn của
nam là đủ 20 tuổi thay cho vừa bước qua tuổi 20. Sự sửa đổi này để phù hợp
với quy định của Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự. Đó là, theo Bộ
luật Dân sự người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên, khi xác lập, thực
15
Chu Xuân Minh- Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, còn
theo Bộ luật Tố tụng dân sự thì đương sự là người từ đủ 18 tuổi trở lên mới
có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự.
Như vậy, nếu từ trước ngày 01/01/2015 mà nam chưa bước qua tuổi 20,
nữ chưa bước qua tuổi 18; từ ngày 01/01/2015 nam chưa đủ 20, nữ chưa đủ
18 tuổi mà kết hơn thì việc kết hơn giữa họ là trái quy định pháp luật và cần
được hủy bỏ. Tuy nhiên, tại Điểm d1, Mục D, Phần 2 Nghị quyết số 02/2000/
NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao có quy
định hướng dẫn: đối với trường hợp nếu đến thời điểm có yêu cầu huỷ việc
kết hôn trái pháp luật cả hai bên đã đến tuổi kết hôn, trong thời gian đã qua
họ chung sống bình thường, đã có con, có tài sản chung thì khơng quyết định
huỷ việc kết hơn trái pháp luật. Nếu mới phát sinh mâu thuẫn và có u cầu
Tồ án giải quyết việc ly hơn thì Tồ án thụ lý vụ án để giải quyết ly hôn
theo thủ tục chung. Đây là quy định cho trường hợp kết hôn trước
01/01/2015. Trường hợp tảo hôn trong thời kỳ thi hành Luật HN-GĐ hiện
hành có quy định cụ thể là quan hệ hôn nhân được công nhận xác lập “từ thời
điểm các bên đủ điều kiện kết hôn theo quy định” (Khoản 2 Điều 11 Luật
HN-GĐ). Do đó, đối với việc tảo hơn trước 01/01/2015 thì khi xác định thời
điểm xác lập hôn nhân hợp pháp vẫn phải theo quy định của Luật HN-GĐ là
từ thời điểm đủ tuổi kết hôn theo quy định tương ứng (trước 01/01/2015 họ
đủ tuổi theo Luật HN-GĐ năm 2000 thì cơng nhận hơn nhân từ ngày đó,
chưa đủ tuổi theo Luật HN-GĐ năm 2000 thì sau 01/01/2015 phải tính theo
quy định về tuổi của Luật mới).
2.5. Ly hôn
2.5.1. Về chủ thể và điều kiện xin ly hôn
Luật HN-GĐ hiện hành quy định về chế định ly hôn đã bổ sung thêm các
đối tượng được yêu cầu giải quyết ly hơn. Theo đó, thay vì chỉ vợ, chồng
hoặc cả hai vợ chồng mới có quyền yêu cầu Tịa án giải quyết ly hơn thì từ
ngày 01/01/2015, cha, mẹ, người thân thích khác cũng có thể u cầu giải
quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác
mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn
nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng
đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ. Trường hợp này thì Tịa án giải
quyết cho ly hơn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình
làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người
kia
Cần lưu ý là:
- Pháp luật quy định thêm một số chủ thể có quyền yêu cầu ly hơn thì
chính người vợ hoặc chồng vẫn là ngun đơn như hướng dẫn tại Nghị quyết
05/2012/ NQ-HĐTP.
- Việc bị bác u cầu xin ly hơn thì sau một năm, kể từ ngày bản án bác
yêu cầu xin ly hôn có hiệu lực pháp luật mới lại được yêu cầu Tịa án giải
quyết việc ly hơn quy định tại Điểm c Mục 10 Nghị quyết 02/2000/NQHĐTP vẫn được thi hành.
16
Chu Xuân Minh- Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
2.5.2. Căn cứ cho ly hôn
Theo quy định tại Điều 56 Luật HN-GĐ thì các căn cứ để Tịa án cho ly
hôn bao gồm một trong các trường hợp sau:
- Thứ nhất, hơn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung
khơng thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được (Khoản 1);
- Thứ hai, bị đơn đã bị Tồ án tun bố mất tích (Khoản 2);
- Thứ ba, bị đơn là người có hành vi bạo lực gia đình với người vợ hoặc
chồng có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần (Khoản 3).
Tất cả các luật hơn nhân và gia đình (1959, 1986, 2000, 2014) đều có quy
định giống nhau về một căn cứ cho ly hôn khi xét thấy hôn nhân đã ở “tình
trang trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài, mục đích của hơn
nhân khơng đạt được”. Do quy định của Luật giống nhau nên có thể áp
dụng hướng dẫn của Mục 8 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày
23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn thi hành Luật
HN-GĐ năm 2000 về căn cứ trên. Cụ thể là:
Được coi là tình trạng của vợ chồng trầm trọng khi (Điểm a.1):
- Vợ, chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như
người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng
muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ
chức, nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.
- Vợ hoặc chồng ln có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau, như thường
xuyên đánh đập, hoặc có hành vi khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và
uy tín của nhau, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức,
đoàn thể nhắc nhở, hồ giải nhiều lần.
- Vợ chồng khơng chung thuỷ với nhau như có quan hệ ngoại tình, đã
được người vợ hoặc người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ
quan, tổ chức, nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại
tình.
Cơ sở nhận định đời sống chung không thể kéo dài (Điểm a.2.): Thực tế
phải cho thấy đã được nhắc nhở, hoà giải nhiều lần, nhưng vẫn tiếp tục có
quan hệ ngoại tình hoặc vẫn tiếp tục sống ly thân, bỏ mặc nhau hoặc vẫn tiếp
tục có hành vi ngược đãi hành hạ, xúc phạm nhau, thì có căn cứ để nhận định
rằng đời sống chung của vợ chồng khơng thể kéo dài được.
Mục đích của hơn nhân khơng đạt được (Điểm a.3.):Là tình trạng khơng
có tình nghĩa vợ chồng; khơng bình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ,
chồng; không tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng; khơng tơn
trọng quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của vợ, chồng; khơng giúp đỡ, tạo
điều kiện cho nhau phát triển mọi mặt.
Người vợ hoặc người chồng đồng thời yêu cầu Toà án tun bố người
chồng hoặc người vợ của mình mất tích và u cầu Tồ án giải quyết cho ly
hơn thì trong trường hợp nếu Tồ án tun bố người đó mất tích thì giải
quyết cho ly hơn; nếu Tồ án thấy chưa đủ điều kiện tun bố người đó mất
tích thì bác các yêu cầu của người vợ hoặc người chồng (Điểm b.1. Mục 8
Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP).
17
Chu Xuân Minh- Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Người vợ hoặc người chồng đã bị Toà án tuyên bố mất tích theo u cầu
của người có quyền, lợi ích liên quan. Sau khi có quyết định của Tồ án
tuyên bố người vợ hoặc người chồng mất tích đã có hiệu lực pháp luật thì
người chồng hoặc người vợ của người đó có u cầu xin ly hơn với người đó.
Trong trường hợp này Tồ án giải quyết cho ly hôn (Điểm b.2. Mục 8 Nghị
quyết 02/2000/NQ-HĐTP.
3. KỸ NĂNG GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
3.1. Thụ lý vụ án
3.1.1. Xác định các điều kiện thụ lý vụ án
3.1.1.1. Xác định điều kiện về chủ thể khởi kiện
Chủ thể khởi kiện trong các vụ án tranh chấp về hơn nhân và gia đình có
những đặc trưng khác biệt với vụ án dân sự thông thường căn cứ vào từng loại
tranh chấp về hôn nhân và gia đình mà Tịa án giải quyết.
Thơng thường, các vụ án về ly hơn thì chủ thể khởi kiện chỉ có thể là vợ,
chồng mới có quyền khởi kiện vì quan hệ hôn nhân là quyền nhân thân của họ
mà không thể chuyển giao cho người khác. Tuy nhiên, theo Điều 51 Luật HNGĐ thì cha, mẹ, người thân thích khác cũng có thể u cầu giải quyết ly hơn cho
bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận
thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia
đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng,
sức khỏe, tinh thần của họ (Khoản 2 Điều 51). Quy định này là một quy định
mới và là bao gồm các yếu tố quy định ở Khoản 2 chứ không phải là một trong
các yếu tố của Khoản 2.
Đối với các tranh chấp khác về hơn nhân và gia đình như tranh chấp về
thay đổi việc nuôi con, mức cấp dưỡng, sau khi đã có bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật, nếu điều kiện ni con, cấp dưỡng thay đổi, thì người cha hoặc
mẹ có quyền khởi kiện tại Tồ án để yêu cầu thay đổi người nuôi con, thay đổi
về mức cấp dưỡng. Chủ thể khởi kiện cũng không nhất thiết phải là người vợ
hoặc người chồng trong quan hệ hơn nhân mà có thể là người thân thích, các cơ
quan, tổ chức xã hội khác cũng có quyền khởi kiện. Theo quy định tại Khoản 1,
2 Điều 119 Luật HN-GĐ thì:
“1. Người được cấp dưỡng, cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó,
theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền u cầu Tịa án buộc
người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ
đó.
2. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố
tụng dân sự, có quyền u cầu Tịa án buộc người không tự nguyện thực hiện
nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó:
a) Người thân thích;
b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
d) Hội liên hiệp phụ nữ.”
18
Chu Xuân Minh- Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Bên cạnh đó, Thẩm phán cần tiến hành kiểm tra về những điều kiện hạn
chế khởi kiện vụ án HN-GĐ. Đó là trường hợp người vợ đang có thai, sinh con
hoặc đang ni con nhỏ dưới 12 tháng tuổi thì người chồng khơng có quyền
khởi kiện xin ly hơn (Khoản 3 Điều 51 Luật HN-GĐ); trường hợpđối với người
có đơn u cầu xin ly hơn mà bị Tồ án bác đơn xin ly hơn thì sau một năm, kể
từ ngày bản án, quyết định của Toà án bác đơn xin ly hơn có hiệu lực pháp luật,
người đó mới lại được yêu cầu Toà án giải quyết việc xin ly hôn (Điểm c Mục
10 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật HNGĐ năm 2000).
Trong thực tế, việc giả mạo tư cách đương sự trong vụ án ly hôn xảy ra
nhiều hơn các vụ án dân sự thông thường. Do vậy, việc kiểm tra giấy tờ tùy thân
cũng như các loại giấy tờ chứng minh tư cách pháp lý của người khởi kiện cần
được lưu ý.
3.1.1.2. Xác định điều kiện về thẩm quyền của Toà án
Xác định thẩm quyền giải quyết vụ án tranh chấp là một trong những yêu
cầu quan trọng khi kiểm tra điều kiện thụ lý vụ án. Việc kiểm tra điều kiện thẩm
quyền giải quyết vụ án tranh chấp theo loại việc, thẩm quyền theo cấp xét xử,
thẩm quyền theo lãnh thổ, thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn đối với
vụ án HN-GĐ cần lưu ý những vấn đề sau
Thẩm quyền theo loại việc:
Các tranh chấp về HN-GĐ đã được xác định theo quy định tại Điều 28 của
BLTTDS. Đặc trưng phân biệt vụ án và việc dân sự là có tranh chấp hay khơng
có tranh chấp. Khơng rõ là thỏa thuận thì cũng phải coi là có tranh chấp. Nếu
đơn khởi kiện do một bên yêu cầu ký tên ở mục người khởi kiện mà khơng biết
đương sự phía bên kia có đồng ý hay khơng thì phải xác định đó là vụ án tranh
chấp.
Thẩm quyền theo cấp Tồ án:
Thẩm quyền của Tịa án nhân dân các cấp được xác định theo quy định tại
các Điều 35 và 37 của BLTTDS.Đối với vụ án HN-GĐ cần lưu ý thêm các vấn
đề sau:
- Quy định về “đương sự ở nước ngoài” hay bị nhầm lẫn với trường hợp
đương sự là “người nước ngoài”. Vợ hoặc chồng (hoặc đương sự khác trong vụ
án) là người nước ngoài nhưng cư trú ở Việt Nam thì vẫn thuộc thẩm quyền của
Tịa án cấp huyện.
- Trường hợp khơng thay đổi thẩm quyền quy định ở Điều 471 là trường
hợp thường xảy ra trong vụ án ly hôn. Khi thụ lý, hai vợ chồng và các đương sự
khác đều ở trong nước nhưng trong q trình giải quyết mới có đương sự ra
nước ngoài, và ngược lại. Cần lưu ý đến quy định “ở nước ngồi” chứ khơng
phải chỉ tạm thời ra nước ngoài.
Ngoài ra, cần lưu ý quy định riêng biệt tại Khoản 3 Điều 123 Luật HN-GĐ
về thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp huyện đối với các tranh chấp
về ly hôn, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, cha mẹ và con, về nhận cha, mẹ,
con, nuôi con nuôi và giám hộ giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên
19
Chu Xuân Minh- Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
giới với công dân của nước láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt
Nam. Khoản 3 Điều 123 Luật HN-GĐ quy định:
“3. Tòa án nhân dân cấp huyện nơi cư trú của công dân Việt Nam hủy việc
kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc ly hôn, các tranh chấp về quyền và nghĩa
vụ của vợ chồng, cha mẹ và con, về nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi và giám
hộ giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước
láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam theo quy định của Luật
này và các quy định khác của pháp luật Việt Nam”.
Khu vực biên giới quy định ở Khoản 3 nêu trên là các xã, phường, thị trấn
giáp biên giới. Hiện tại cần xác định theo Danh sách các xã, phường, thị trấn
thuộc khu vực biên giới đất liền kèm theo Thông tư 179/2001/TT-BQP ngày
22/01/2001 của Bộ Quốc phòng. Theo danh sách này thì có 400 đơn vị cấp xã
thuộc 93 huyện của 23 tỉnh biên giới đất liền.
Thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ
Xác định thẩm quyền giải quyết của Toà án theo lãnh thổ, về nguyên tắc,
phải căn cứ vào Điều 39, Điều 40 của BLTTDS và tham khảo hướng dẫn trước
đây tại Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP. Đối với các vụ án tranh chấp hơn
nhân và gia đình nói chung thì Tồ án có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ
thẩm là Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc. Trong trường hợp bị đơn cư trú ở
một nơi nhưng làm việc ở một nơi thì phải xác định thẩm quyền giải quyết của
Tòa án là nơi bị đơn cư trú. Trong một số trường hợp bị đơn ở một nơi, hộ khẩu
một nơi, làm việc một nơi thậm chí có trường hợp tạm trú một nơi nên việc xác
định thẩm quyền của Tịa án cũng gặp khó khăn. Trường hợp này chúng ta phải
căn cứ vào Điều 40 BLDS 2015 để xác định nơi cư trú là nơi người đó thường
xun sinh sống. Trong trường hợp khơng xác định được nơi người đó thường
xun sinh sống thì nơi cư trú là nơi người đó đang sống để xác định thẩm
quyền của Tòa án theo lãnh thổ.
Trong vụ án ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn khi nơi
cư trú của bị đơn và nơi có bất động sản tranh chấp khác nhau thì Tịa án có
thẩm quyền giải quyết là Tịa án nơi cư trú của bị đơn chứ không phải nơi có bất
động sản như vụ án dân sự thơng thường (Mục 1 Phần IV Giải đáp số
01/2017/GĐ-TANDTC). Trường hợp chia tài sản sau khi ly hơn thì do khơng có
quan hệ tranh chấp về hôn nhân và nuôi con chung nên thẩm quyền giải quyết là
nơi có bất động sản tranh chấp.
Thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn
Khi giải quyết vụ án HN-GĐ, việc xác định thẩm quyền Tòa án theo sự lựa
chọn của nguyên đơn, vấn đề xác định “nơi cư trú, làm việc, có trụ sở cuối
cùng”, vấn đề dấu địa chỉ được giải quyết như quy định đối với vụ án dân sự
thông thường và Nghị quyết 04/2017/NQ0-HĐTP.
Đối với việc tranh chấp về cấp dưỡng thì ngun đơn có thế u cầu Tịa án
nơi mình cư trú, làm việc, có trụ sở giải quyết (Điểm c Khoản 1 Điều 40
BLTTDS).
3.1.1.3. Về nộp tiền tạm ứng án phí:
20