Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Luận văn: Cải cách kinh tế của Nhật Bản và mối quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (548.41 KB, 56 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC .....
KHOA ....

Luận văn
Cải cách kinh tế của Nhật
Bản và mối quan hệ kinh tế
Việt Nam - Nhật Bản


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

Lời nói đầu
Trong tiến trình toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ, với những xu thế
vận động và bối cảnh khách quan của nền kinh tế thế giới và khu vực, với
những tác động của tình hình kinh tế, chính trị, xà hội để tránh khỏi bị tụt
hậu Việt Nam đang đứng trước thời cơ mới và thách thức mới. Đối với Việt
Nam, trong điều kiện chuyển từ nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập
trung sang kinh tế thị trường lại có điểm xuất phát thấp, tốc độ tăng trưởng
kinh tế chưa cao, để đưa đất nước phát triển nhanh Đảng ta đà khẳng định
Phát huy cao ®é néi lùc, ®ång thêi tranh thđ ngn lực bên ngoài Quá
trình tham gia vào hội nhập kinh tế thế giới và khu vực là tất yếu.
Nhật Bản là một trong những nước có tầm ảnh hưởng rất lín trong nỊn
kinh tÕ thÕ giíi nãi chung vµ ViƯt Nam nói riêng. Nhật Bản là một cường
quốc kinh tế đà trải qua nhiều năm phát triển thần kỳ vào trước thập niên
90của thế kỷ XX khiến cho cả thế giới khâm phục. Nhiều nước trong khu
vực Châu á đà phấn đấu noi theo mô hình phát triển của Nhật Bản, trong đó
một số nước và lÃnh thổ Đông á ®· nhanh chãng trë thµnh con rång, con hỉ
kinh tÕ, giải quyết thành công nhiều vấn đề đời sống kinh tÕ – x· héi, chØ
trong vßng 2 – 3 thËp niên.Vì vậy, việc xem xét, nghiên cứu, tìm hiểu học


hỏi những chính sách, biện pháp, giải pháp, chiến lược mà chính phủ Nhật
Bản đà sử dụng để đưa nền kinh tế phát triển mạnh mẽ như vậy đối với Việt
Nam là rất cần thiết nhằm tạo ra sự tăng trưởng cao và bền vững cho việc
phát triển kinh tế - xà hội.
Sau quá trình thực tập tại Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản em đà hoàn
thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp với đề tài: Cải cách kinh tế của Nhật
Bản và mối quan hệ kinh tế Việt Nam Nhật Bản.
Vì thời gian ngắn và kiến thức bản thân còn hạn chế nên nội dung
chuyên đề thực tập này không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong các
thầy cô chỉ bảo, góp ý để chuyên đề thực tập của em được hoàn chỉnh hơn.

1


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

Mục tiêu và phương pháp nghiên cứu
I. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu, hệ thống những vấn đề về cải cách kinh
tế của Nhật Bản, hiệu quả của cuộc các cuộc cải cách đó và sự ảnh hưởng
của nó tới Việt Nam.
Đánh giá bước đầu hiệu quả của các cuộc cải cách đó đối với việc
thúc đẩy phát triển kinh tế - xà hội của Nhật Bản, Việt Nam và một số tồn
tại.
Trên cơ sở đó để có những giải pháp và tìm ra những ảnh hưởng của
các cuộc cải cách đó đối với nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói
riêng trong các lĩnh vực kinh tế xà hội.
II. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu trên cần phải có phương pháp, cách tiếp

cận khoa học và phù hợp. Cơ sở lý luận thực hiện đề tài chủ yếu dựa vào
các lý thuyết liên quan đến lợi thế so sánh, lý thuyết về phát triển thương
mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế ngày nay.
III. Kết cấu của Đề tài
Lời nói đầu đề cập đến sự cần thiết, mục tiêu, nội dung, ý nghĩa, đề tài.
Chương I, Đề tài tập trung nghiên cứu về Nhật Bản, quá trình cải cách
của Nhật Bản và tầm ảnh hưởng của nó tới nền kinh tế Nhật Bản.
Chương II, Đề tài tập trung phân tích, đánh giá các cuộc cải cách tài
chính của Nhật Bản và hiệu quả của nó.
Chương III, Quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản. Một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả của các cuộc cải cách đó và triển vọng phát triển
trong tương lai.

2


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

Kết luận, Trên cơ sở kết quả nghiên cứu phần kết luận khẳng định
những kết quả đạt được và một số kiến nghị nhằm nâng cao mối quan hệ
kinh tế Nhật Bản - Việt Nam trong tương lai.

3


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

Chương I: Quá trình cải cách kinh tế

của Nhật Bản
I. Xu h­íng cđa nỊn kinh tÕ thÕ giíi
Héi nhËp kinh tế quốc tế đà và đang trở thành một trong những xu
hướng quan trọng trong hoạt động kinh tế quốc tế. Các nước đang phát triển
(trong đó có Việt Nam) cïng víi viƯc tranh thđ thu hót c¸c ngn vèn để
phát triển cũng khuyến khích, đẩy mạnh việc quan hệ hợp tác với các nước
phát triển trên thế giới nhằm häc hái kinh nghiƯm cịng nh­ më réng thÞ
tr­êng, tËn dụng các nguồn tài nguyên, lao động, tăng nguồn thu lợi nhuận
cũng như tăng cường ảnh hưởng với các nước khác và. Chính vì những lẽ đó
mà đà có rất nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế, các cơ quan nghiên cứu, các
nhà khoa học đà đưa ra, tổng kết những kinh nghiệm, những vấn đề lý luận,
thực tiễn và dù b¸o vỊ xu h­íng ph¸t triĨn cđa nỊn kinh tế thế giới trong đó
có Nhật Bản và Việt Nam.
II. nền kinh tế nhật bản từ cuối những năm 1980 đến
nay
Nhật Bản, một nước nghèo tài nguyên, không thể đánh mất bất kỳ
một cơ hội thương mại quốc tế nào nếu đó là cơ hội để phát triển kinh tế và
duy trì một mức sống cao. Các chính sách liên quan tới thương mại và đầu
tư do vậy đà chiếm một vị trí nổi bật trong quá trình phát triển kinh tế. Sau
thời kỳ tăng trưởng kinh tế cao, ở Nhật Bản đà nảy sinh hàng loạt vấn đề đòi
hỏi nhà nước phải điều chỉnh chính sách và tiến hành cải cách trên nhiều
lĩnh vực: kinh tế, xà hội, chính trị, văn hóa
Phạm vi của đề tài được xác định là những cải cách được tiến hành ở
Nhật Bản từ cuối những năm 80 của thế kỷ 20 đến nay. Những cải cách này
đÃ, đang và sẽ được tiến hành với nội dung và hình thức rất phong phú và đa
dạng, chưa biết được thời gian kết thúc.
- Những yếu tố (bên trong và bên ngoài) thúc đẩy Nhật Bản cải cách.
Đó là sự đổ vỡ của kinh tế bong bóng, đồng Yên lên giá, hệ thống ngân
hàng tài chính lạc hậu, sự già hoá dân số, bộ máy nhà n­íc u kÐm, t×nh


4


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

hình chính trị mất ổn định và tình hình quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp
tác động mạnh tới kinh tế, xà hội Nhật Bản.
- Những nội dung cơ bản của cải cách kinh tế ở Nhật Bản, trong đó bao

gồm các chính sách và giải pháp tình thế lẫn các chương trình cải cách kinh
tế một cách toàn diện. Đồng thời, đánh gia một số thành công cũng như hạn
chế của cải cách kinh tế ở Nhật Bản và cuối cùng vạch ra những vấn đề cần
được tiếp tục cải cách.
Trong những năm 80 của thế kỷ XX, cuộc khủng hoảng nợ đà làm
cho nhiều nước đang phát triền lâm vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng.
Để thoát khỏi khủng hoảng, suy thoái các nước đang phát triển đà phải cải
cách kinh tế theo hướng chuyển đổi sang nỊn kinh tÕ thÞ tr­êng, më cưa nỊn
kinh tÕ, thùc hiện chiến lược CNH, hướng về xuất khẩu. Và Nhật Bản cũng
không là ngoại lệ, từ đầu thập niên 1990 đến nay, nền kinh tế Nhật Bản vẫn
chưa thoát hẳn ra khỏi cơn suy thoái kéo dài, cho dù cũng đà có sự tăng
trưởng trở lại của nền kinh tế với chỉ số dự đoán khoảng 2,4% năm 2003
(tạp chí Times số tháng 10/2003).
Sự phát triển không ổn định đi liền với khủng hoảng suy thoái kéo dài
là đặc trưng cơ bản của nền kinh tế Nhật Bản trong khoảng hơn thập niên
vừa qua. khởi đầu của sự phất triển đó được đánh dấu bởi sự đổ vỡ của nền
kinh tế bong bóng Nhật Bản vào đầu thập niên 1990. Tăng trưởng kinh tế
(GDP) của Nhật Bản trong những năm 1990 đà suy giảm liên tục với động
thái tăng trưởng rất chậm chạp và thất thường. Cụ thể như sau:
- Từ 1990 đến 1996: với động thái tăng trưởng kinh tế: 0,5%; 0,6%; 2,8%;

và 3,2%.
- Từ 1997 đến 1999: tiến dần đến tình trạng trầm trọng của khủng hoảng.
Khủng hoảng kinh tế Nhật Bản được gắn liền với ảnh hưởng tiêu cực của
khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông á (1997 1998). Lần đầu tiên kể
từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, kinh tế Nhật Bản tăng trưởng âm
liên tục trong 2 năm liền(1997: - 0,7% và 1998: -1,1%).Năm 1999: kinh
tế Nhật Bản phục hồi trở lại nhưng tăng trưởng còn mong manh: 0,7%.
- Năm 2000: kinh tế Nhật Bản tăng trưởng khả quan: 2,4%.
- Năm 2001: suy giảm kinh tế trở lại với chỉ số tăng trưởng: -0,4%.
- Năm 2002 đến nay: đang phục hồi yếu 1,6%.

5


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

Về đại thể, các chỉ số tăng trưởng GDP hàng năm trên đây đà phản
ánh khái quát nhất về mặt định lượng của cuộc khủng hoảng kinh tế Nhật
Bản kéo dài suốt thập niên 1990 đến nay. Nếu so với cc khng ho¶ng
kinh tÕ 1973 – 1975 cđa thÕ giíi Tư Bản Chủ Nghĩa, trong đó có Nhật Bản
thì mức độ khủng hoảng lần này còn tồi tệ hơn nhiều (cuộc khủng hoảng
1973 1975, năm 1973: tăng trưởng GDP của Nhật Bản là 8%, đến năm
1974 tuy có bị giảm đột ngột đến mức 1,2%, song đến năm 1975, lại khôi
phục trở lại ngay với tăng trưởng 3%, tiếp đó năm 1976 là 4%, từ đó bình
quân hàng năm cho đến cuối thập niên 1980 đều đạt tăng trưởng khoảng
5%).
Đó là biểu hiện tổng quát nhất của khủng hoảng kinh tế Nhật Bản
qua động thái suy giảm của tăng trưởng GDP hàng năm.
Iii. cải cách trong lĩnh vực kinh tế của nhật bản

Các chính sách và biện pháp cải cách kinh tế ở Nhật Bản kể từ đầu
thập kỷ 1990 đến nay có thể được chia thành hai cum chính sách và biện
pháp chủ yếu, đó là các chính sách và biện pháp mang tính chất tình thế, và
các chương trình cải cách kinh tế một cách cơ bản và toàn diện.
1. Các chính sách và giải pháp tình thế
Trước tình trạng suy thoái kinh tế nghiêm trọng và kéo dài, đồng yên
bất ổn định, sự yếu kém của hệ thống ngân hàng tài chính, và các vấn đề
kinh tế xà hội khác, Chính phủ Nhật Bản đà thực hiện khá nhiều chính
sách và giải pháp tạm thời để khôi phục và lấy lại sức sống cho nền kinh tế.
Các chính sách và biện pháp loại này thực ra đà được áp dụng nhiều lần
trong các thập kỷ trước đây khi nền kinh tế Nhật Bản cã biĨu hiƯn suy tho¸i
theo chu kú. Néi dung chđ yếu của nó là bơm thêm tiền vào nền kinh tế
bằng các chương trình kích thích kinh tế trọn gói, tăng đầu tư vào các công
trình công cộng, giảm thuế, gi¶m tû lƯ l·i st chiÕt khÊu chÝnh thøc,…
nh»m kÝch thích nhu cầu trong nước.
- Các chương trình kích thích kinh tế trọn gói: Đây là một giải pháp
truyền thống mà Chính phủ Nhật Bản thường sử dung để khác phục khủng
hoảng chu kỳ. Đó là việc dựa vào ngân sách bổ sung hoặc các chương trình

6


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

kÝch thÝch kinh tÕ trän gãi nh»m kÝch cÇu trong nước thông quq việc mỏ
rộng các công trình công cộng. KĨ tõ khi nỊn kinh tÕ “bong bãng” sơp ®ỉ,
ChÝnh phủ Nhật Bản đà thực hiện rất nhiều biện pháp cả gói với tổng chi phí
lên tới 107.000 tỷ Yên. Đây chính là những biện pháp can thiệp của Chính
phủ mà theo lý thuyết của Kêyn thì có thể tạo ra những đòn bẩy cho nền

kinh tế.
- Cắt giảm thuế và xoá matt phần nợ cho các công ty kinh doanh bất
động sản: Đây cũng là một giải pháp quan trọng nhằm trợ giúp các công ty
đang đứng trước bờ vực thẳm của sự phá sản sau sự sụp đổ cđa nỊn kinh tÕ
bong bãng. VÝ dơ, Néi c¸c cđa thủ tướng Obuchi đà thực hiện giảm thuế thu
nhập 9.000 tû Yªn (2%GDP). Møc th thu nhËp cao nhÊt cđa cả cấp quốc
gia và cấp địa phương đà được giảm từ 65% xuống còn 50%. Sự giảm thuế
này được hy vọng là sẽ thúc đẩy tiêu dùng cá nhân và kích thích tinh thần
làm việc chung. Việc giảm thuế để khuyến khích xây dựng nhà ở cũng đÃ
được tiến hành một cách rộng rÃi. Hơn nữa, Chính phủ Nhật Bản đà quyết
định giảm tỷ lệ thuế kinh doanh kết hợp cả quốc gia và địa phương từ mức
46,36% xuống 40,87% tương đương với 2,4 tỷ tỷ Yên (0,4% GDP). Thông
qua các cuộc cải cách và giảm thuế này, Chính phủ hy vọng giảm gánh
nặng thuế xuống bằng mức trung bình của các nước đà công nghiệp hoá.
Cùng với quá trình này, việc lập quyết định về ngân sách quốc gia và
cải cách thuế đà đưa vấn đề cơ cấu vào bàn nghị sự. Chính phủ đà tăng ngân
sách về nghiên cứu cơ bản và phát triển 8,1%, các thiết bị thông tin như
máy vi tính, máy photcoppy kỹ thuật số, và máy điện thoạ kỹ thuật số sẽ
được thanh lý ngay nếu chúng ít hơn 1 triệu Yên. Để khuyến khích sử dụng
các loại ô tô có hiệu quả và ít gây ô nhiễm môi trường, thuế xe khách và các
loại xe tải tương tự sẽ được giảm đi.
Nhằm khuyến khích việc quốc tế hoá đồng Yên, Chính phủ đà ban
hành hệ thống bỏ thầu mở đối với các trái phiếu ngắn hạn, đây là matt hình
thức miễn thuế thu nhập đặc biệt đối với các trái phiếu Chính phủ cho
những người không phải cư dân Nhật Bản. Chính phủ cũng đà quyết định
huỷ bỏ thuế giao dịch chứng khoán và ban hành một hệ thống thuế đà được
củng cố trong năm 2001.

7



Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

- Giảm lÃi suất chiết khấu chính thức: Trước tình trạng sản xuất đình
trệ, nhu cầu đầu tư trong nước giảm sút, Chính phủ Nhật Bản đà liên tục
giảm lÃi suất cho vay chính thức của ngân hàng nhằm kích thích đầu tư.
Đây cũng là một trong những hướng cơ bản của chính sách kích cầu trong
nước. Trong suốt những năm 1990, lÃi suất chính thức đà luôn được giảm đi
trước tình trạng kinh tế suy thoái. Ngân hàng trung ương Nhật Bản đà duy
trì một tỷ lệ lÃi suất thÊp tíi møc ch­a tõng cã trong lÞch sư NhËt Bản
(0,5%) trong suốt nhiều năm liên tục và thậm chí hiện nay đà xuống tới
mức sấp sỉ con số không nhằm phuch hồi và lấy lại sinh khí cho nền kinh
tế.
2. Các chương trình cải cách kinh tế một cách cơ bản và toàn diện
Nguyên nhân sâu xa gây ra tình trạng trì trệ kéo dài của nền kinh tế
Nhật Bản là sự bất cập hay những hạn chế của mô hình kinh tế Nhật Bản
trước bối cảnh mới của tình hình kinh tế quốc tế, sự lạc hậu của hệ thống
ngân hàng tài chính mang nặng tính bao cấp, sự cứng nhắc cũng như thiếu
minh bạch của bộ máy hành chính trong việc quản lí và điều hành nền kinh
tế Chính vì vậy, để khắc phục một cách triệt để tình trạng kinh tế suy
thoái đòi hỏi phải tiến hành những cải cách toàn diện hệ thống kinh tế Nhật
Bản. Tuy nhiên, không phải vấn đề này đà được nhận thức và thực hiện
ngay từ đầu thập kỷ1990 sau khi những bong bóng kinh tế bất đông sản
sụp đổ đẩy nền kinh tế Nhật Bản lâm vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng
và kéo dài. Mà phải đến 1996, sau khi hàng loạt các chương trình kích thích
kinh tế trọn gói, như đà đề cập đến ở trên, không đem lại hiệu quả, Chính
phủ Nhật Bản dưới sự lÃnh đạo của Thủ tướng Hashimoto mới ban hành
một loạt các chương trình cải các liên quan đến nhiều mặt hoạt ®éng cđa
nỊn kinh tÕ x· héi NhËt B¶n. Cã 6 chương trình cải cách lớn đà được đưa ra,

trong đó có 3 chương trình liên quan đến cải cách kinh tế. Đó là: Điều
chỉnh chính sách kinh tế; Cải cách cơ cấu kinh tế; và Cải cách hành chính.
Sau đây là một số nội dung cơ bản nhất của các chương trình cải cách này.
Thứ nhất, để thực hiện cải cách cơ câu kinh tế, Chinh phủ Nhật Bản
một mặt đà áp dụng các giải pháp hỗ trợ đối với một số nghành công nghiệp
đang bị sa sút như luyện kim, đóng tầu, hoá chất nhằm ngăn chặn nguy
cơ phá sản của các doanh nghiệp đang hoạt động trong các lĩnh vực này.
Các giải pháp chủ yếu như tài trợ qua ngân sách, kích thích đổi mới trang

8


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

thiết bị qua thực hiện khấu hao nhanh, áp dụng giải pháp miễn thuế và hỗ
trợ thất nghiệp Mặt khác, Chính phủ đà thực thi các giải pháp để khuyến
khích đầu tư vào các nghành công nghệ mới như ưu đÃi về thuế để khuyến
khích các hoạt động đầu tư nghiên cứu triển khai (R&D), thực hiện trợ cấp
cho các chương trình và dự án quan trọng có qui mô lớn, và các dự án trong
các lĩnh vực mới có nhiều rủi ro. Chính phủ cũng thực hiện hỗ trợ cho công
tác nghiên cứu tại các trường, các viện và kêu gọi vốn của khu vực tư nhân
tập trung vào nghiên cứu cơ bản, sáng chế quy trình công nghệ mới.
Thứ hai, cùng với các biện pháp kích cầu của Chính phủ, các công ty
Nhật Bản đà thực hiện hàng loạt các giải pháp như:
+ Cắt giảm chi phí sản xuất, trước hết là chi phí lao động. Trong suốt
những năm 1990, các công ty Nhật Bản đà hết sức hạn chế việc tuyển thêm
công nhân mới, giảm công nhân hợp đồng, khuyến khích những người cao
tuổi về hưu sớm, và ép các xí nghiệp vừa và nhỏ làm thầu khoán phải giảm
tối đa các chi phí sản xuất phụ tùng. Kết quả là thất nghiệp gia tăng và các

công nhân thường xuyên còn được tuyển mộ phải làm thêm giờ song tiền
lương lại không được tăng một cach tương ứng. Chính vì thế trong suốt
những năm 1990, những cơ hội tìm kiếm công ăn việc làm tại các công sở
nhà nước lẫn khu vực tư nhân cho những người dân ở Nhật Bản ở độ tuổi
lao động, đặc biệt là những sinh viên mới và đang chuẩn bị tốt nghiệp ra
trường, đà trở nên rất khó khăn. Đối với những ai lần đầu tiên đi tìm kiếm
công ăn việc làm thì quả thật là cơ hội rất mỏng manh. Bởi vì phần đông
các công ty Nhật Bản trong những năm này luôn ở trong tình trạng suy
thoái, họ phải co nhỏ lại quy mô họat động kinh doanh để tránh tổn thất và
sa thải công nhân. Một số nhỏ các công nhân được thuyên chuyển tới các xí
nghiệp vừa và nhỏ với những công việc mang tính chất tạm thời.
+ Tiến hành thu hẹp và giảm đầu tư vào nhiều khâu sản xuất cần
nhiều lao động, không còn cạnh tranh được với hàng nhập khẩu, đồng thời
chuyển chúng sang các nước Đông á. Đó là các nghành sản xuất phụ tùng
ô tô, lắp ráp đồ điện, điện tử, dệt Hướng thích ứng này đà dẫn tới nguy cơ
của sự trống rỗng nền công nghiệp trong nước mà các sách báo đà đề cập
đến rất nhiều. Theo các số liệu thống kê của 14 nghành công nghiệp, tỷ lệ
đầu tư ra nước ngoài trong những năm giữa thập kỷ 90 bình quân đều đạt
trên 27%, vượt xa mức 1,8% vào năm 1986. Trong đó công nghiệp chế tạo

9


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

tăng mạnh nhất. Ví dụ, đằu tư ra nước ngoài trong ngành chế tạo ô tô đÃ
tăng từ 4,8% năm 1986 lên 38,1% năm 1995 (Tạp chí Kinh tế hệ số
tháng 7/1996). Tỷ trọng sản xuất ở nước ngoài (chỉ mối quan hệ giữatổng
ngạch tiêu thụ của các xí nghiệp ở nước ngoài thuộc ngành chế tạo với tổng

ngạch tiêu thụ của ngành chế tạo trong nước) đà tăng từ 3% năm 1985 lên
6,4% năm 1990 và 7,4% năm 1993, trong đó nghành sản xuất máy điện
tăng lên 12,6%, máy móc vận tải tăng lên 17,3% (Sách trắng đầu tư, Hội
Chấn hưng mậu dịch Nhật Bản năm 1995).
+ Tăng cường nhập khẩu các sản phẩm công nghiệp, bán thành
phẩm, và linh kiện, đặc biệt là những sản phẩm được sản xuất từ những cơ
sở chế tạo của Nhật Bản ở nước ngoài và nâng cao hơn nữa giá cả hàng xuất
khẩu để bù lại những thiệt hại do sư tăng giá của đồng Yên gây ra. Ví dụ
trong năm 1995, nhiều công ty xuất khẩu của Nhật Bản đà tăng giá hàng
xuất khẩu từ 10 15%. Điều này đà khiến cho hàng nhập khẩu dễ có điều
kiện thâm nhập hơn vào thị trường Nhật Bản trong khi đó hàng xuất khẩu từ
Nhật Bản lại khó được chấp nhận hơn đối với người tiêu dùng nước ngoài.
Theo số liệu thống kê, xuất khẩu của Nhật Bản trong name 1995 chỉ tăng có
2,6%so với 5,1% vào năm 1994, trong khi đó, nhập khẩu tăng tới 9,2% so
với 8,4% vào năm 1994. Do xuất khẩu giảm và nhập khẩu tăng, cán cân
mậu dịch thặng dư của Nhật Bản đà giảm đi đáng kể. Song điều đáng nói là
trong khi thặng dư mậu dịch với Mỹ và EU giảm đi thì thặng dư mậu dịch
của Nhật Bản với Châu á vẫn tiếp tục tăng nhanh, chứng tỏ Châu á ngày
càng trở thành một thị trường xuất khẩu quan trọng của Nhật Bản. Ví dụ,
xuất khẩu của Nhật Bản sang Châu á trong 6 tháng đầu năm 1995 đà lên
tới 99,8 tỷ đôla, cao hơn cả xuất khẩu của Nhật Bản sang Mỹ và EU cộng
lại (97,3 tỷ đôla). (Trịnh Ngọc - Kinh tế Nhật Bản phục hồi trong sự trì trệ.
Nghiên cứu Nhật Bản, số 1(5), 3/1996).
+ Tăng cường liên doanh, liên kết với nước ngoài trong việc nghiên
cứu và phát triển các sản phẩm mới. Đồng thời tến hành đào tạo lại lao
động, hợp nhất các cơ sở sản xuất không có hiệu quả, hoặc bán lại cho các
nhà đầu tư nước ngoài
Thứ ba, trong lĩnh vực tài chính, Bing Bang được coi là một trong
những cuộc cải cách có vị trí quan trọng hàng đầu. Đây là một cuộc cải


10


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

cách toàn diện, sâu sắc, và triệt để với mục tiêu cơ bản là: làm cho thi
trường tài chính Nhật Bản năng động hơn, linh hoạt hơn, tự do hơn, minh
bạch, chuẩn mực hơn và có thể sánh vai với những trung tâm tài chính lớn
như New York và Luân Đôn. Những nội dung chủ yếu của cuộc cải cách
này là:
+ Mở rộng sự lựa chọn cho các nhà đầu tư và những người đi vay.
+ Cải tiến chất lượng phục vụ của các trung gian tài chính và thúc
đẩy sự cạnh tranh giữa các ngân hàng.
+ Phát triển một thị trường đem lại nhiều lợi ích hơn.
+ Thiết lập những khung khổ pháp lý và những quy định đáng tin cậy
cho sự giao dịch bình đẳng, minh bạch.
Trên cơ sở những hướng cải cách cơ bản nói trên, Chính phủ Nhật
Bản đà ban hành và thực hiện hàng loạt các chính sách và biện pháp cải
cách cụ thể đối víi tõng lÜnh vùc cđa hƯ thèng tµi chÝnh. Trong đó, đặc biệt
là các chính sách cơ cấu lại Bộ Tài Chính, chính sách tăng cường vai trò của
Ngân hàng trung ương Nhật Bản, chính sách cơ cấu lại các ngân hàng
thương mại, chính sách nới lỏng các quy chế tạo điều kiện cho sự phát triển
của các thị trường vốn độc lập và sự thâm nhập vào các công việc kinh
doanh lẫn nhau của các cơ quan tài chính nhằm tăng cường khả năng cạnh
tranh của chúng, các chính sách về lÃi suất tín dụng, tỷ giá đồng Yên, và thị
trường chứng khoán, các chính sách về thuế, thu chi ngân sách và bảo
hiểm(Hệ thống tài chính Nhật Bản: những đặc trưng cơ bản và cuộc cải
cách hiện nay; chủ biên Trần Quang Minh, Nxb KHXH, Hà Nội, 2003).
Chi tiết quá trình thực hiện cải cách tài chính Bing Bang của Nhật Bản

được chỉ rõ trong bảng sau:
Tiến trình thực hiện Big Bang của Nhật Bản
Các khoản mục
1. Mở rộng sự lựa chọn cho các
nhà đầu tư và các tổ chức tăng
nguồn vốn

1997

1998

1999

2000

2001

11


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

-

-

-

-


Tự do hoá giao dịch vốn và
kinh doanh noại hối trong
nước cũng như ngoài nước
Thực hiện tài khoản chứng
khoán chung
Tự do hoá hoàn toàn các
loại chứng khoán
Giới thiệu việc bán uỷ thác
đầu tư không cần qua quầy
của ngân hàng và các tổ
chức khác
Tăng khả năng thanh toán
của ABS và các khoản nợ
khác
Mở rộng định nghĩa về
chứng khoán
Cải cách chế độ lương hưu

4/98
10/98
12/98

12/98

9/98

12/98
2/97


2. Cải tiến chất lượng các loại
dịch vụ và đẩy mạnh cạnh
tranh
- Khai thác sử dụng các công
ty cổ phần
- Xoá bỏ những hạn chế
trong hoạt động kinh doanh
ở các chi nhánh của các tổ
chức tài chính
- Chuyển từ chế độ cấp giấy
phép sang chế độ dăng ký
đối với các công ty chứng
khoán
- Tự do hoá mức hoa ang
của người môi giới
- Cho phép các ngân hàng

3/98

10/99

12/98

10/99
10/99

12


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software

For evaluation only.

phát hành thẳng trái phiếu
và cổ phiếu
3. Sử dụng thị trường thân
thiện, nhiều hơn
- Cải tiến mua bán ngoại tệ
và xoá bỏ mức ấn dịnh cho
các loại chứng khoán có
trong danh sách
- Tăng cường chức năng của
thị trường đăng ký qua máy
- Xoá bỏ thuế giao dịch
chứng khoán và thuế ở thị
trường hối đoái
- Xoá bỏ một phần thuế của
những người có JGBs

12/98

12/98

4/99
4/99

4. Cải tiến khung pháp lý cho
việc trao đổi bình đẳng và
minh bạch
- Thực hiện ngay các biện
pháp hành động đúng

- Tăng cường chế độ công
khai tình hình kinh doanh
của các doanh nghiệp
- Cải cách các tiêu chuẩn về
kế toán: đánh gia kế toán
thị trường bằng điểm

4/99

12/98

3/01

13


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

Chương ii: một số thành công bước đầu
của cải cách kinh tÕ ë nhËt b¶n
Cã thĨ thÊy t­ sau cc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực
Đông á Nhật Bản đà có những cố gắng xúc tiến mạnh hơn chương trình cải
cách nền kinh tế của mình. Trên thực tế cuộc khủng hoảng đà làm bộc lộ rõ
những điểm hạn chế trong bản thân nền kinh tế Nhật Bản, nhất là trong hệ
thống Tài chính Ngân hàng buộc Nhật Bản phải có sự cải cách toàn diện.
Nhìn lại các cuộc cải cách trong những năm gần đây ta thấy Nhật Bản
không chỉ chú trọng vào phương diện tạo cầu, kích cầu mà còn chú ý cả
khía cạnh cung của nền kinh tế nhằm tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý trên
cơ sởphát triển mạnh các ngành kinh tế kỹ thuật cao.

Trên phương diện cầu, Chính phủ Nhật Bản đà có nhiều chương trình
kích thích kinh tế hàng năm nhằm mở rộng đầu tư. Bên cạnh đó là những cố
gắng tập trung giải quyết các khoản nợ khó đòi, nhằm tạo sự lành mạnh
trong hệ thống ngân hàng, kích thích các hoạt động đầu tư tư nhân. Trong
các chương trình cải cách của Thủ tướng Nhật Bản trước ông Koizumi lại
chú trọng kích thích đầu tư tư nhân, hạn chế, giảm tài trợ đầu tư công cộng
nhằm tiến tới cân bằng ngân sách. Chẳng hạn theo dự toán ngân sách năm
tài chính 2002, công trái được phát hành không qua 30 nghìn tỷ Yên,giảm
10% ODA và giảm đầu tư công cộng 10%. Để kích thích mạnh hơn đầu tư
tư nhân chính phủ đà tập trung vào giải quyết nợ khó đòi thông qua một số
giải pháp mạnh có tính khả thi như bán lại nợ, cho doanh nghiệp chịu nợ
phá sản, ngân hàng tự huỷ bỏ một phần nợ. Cùng với đó thực hiện giảm
thuế để kích thích người dân tăng chi tiêu và đầu tư phát triển kinh tế.
Trên phương diện cung nhà nước chú ý đẩy mạnh cải cách cơ cấu và
thể chế kinh tế nhằm tạo môi trường thông thoáng cho các doanh nghiệp
hoạt động. Các chính sách Nhà nước tập trung chú trọng phát triển các
nghành công nghệ cao đại diện cho nền kinh tÕ míi – kinh tÕ tri thøc. Xóc
tiÕn ch­¬ng trình phát triển tổng thể vùng kinh tế nhằm gắn kÕt c¸c khu vùc
trong nỊn kinh tÕ theo 4 trơc chính: Đông Bắc, ven biển Nhật Bản, ven
Thái Bình Dương và trục phía tây Nhật Bản, qua đó phát huy lợi thế so sánh
của từng vùng trong hoạt động kinh doanhhợp tac quốc tế. Nhật Bản cũng

14


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

đẩy mạnh tiến trình tự do hoá và hội nhập quốc tế. Bên cạnh gia tăng các
hoạt động hợp tác với ASEAN, Nhật Bản cũng từng bước mở cửa thị trường

nội địa và tự do hoá các hoạt động kinh doanh, thu hút nhiều hơn dòng vốn
nước ngoài đổ vào thị trường Nhật Bản.
Điều đáng chú ý trong các cuộc cải cáchgần đây là chú trọng phát
triển kinh tế theo hướng gia tăng nội nhu, láy nội nhu làm động lực phát
triển.
I. một số thành công bước đầu của cải cách kinh tế
Nhật Bản
Nhìn một cách tổng thể, cải cách kinh tế ở Nhật Bản đà thu được
những kết quả tương đối khả quan. Các cuộc cải cách này đà và đang dẫn
tới những thay đổi mạnh mẽ cơ cấu kinh tế Nhật Bản, làm cho khu vực tài
chính Nhật Bản đà trở lên có sức cạnh tranh mạnh hơn và, sự thâm nhập của
nước ngoài vào nền kinh tế Nhật Bản cũng trở nên ít khó khăn hơn. Các
cuộc cải cách này cũng đà dẫn tới sự cơ cấu lại các công ty và sự phát triển
mạnh của các thị trường vốn độc lập. Hơn 10 năm trước dây, người Nhật
Bản không thể nghĩ rằng sự xuất hiện của thị trường vốn sẽ là một lực lượng
quan trọng thúc đẩy sự cơ cấu lại nền kinh tế Nhật Bản và làm thay đổi
phong cách quản lý truyền thống trong các công ty của Nhật Bản. Sự ra đời
của một ban giám đốc độc lập và quyền lợi của các cổ đông là những vấn
đề đáng chu ý hiện nay ở các công ty Nhật Bản. Chế độ làm việc suốt đời và
trả lương theo thâm niên cũng đà trở nên không còn thích hợp nữa. Nếu như
trong những năm 1980, người ta không thể tuyển mộ sinh viên giỏi từ một
trường đại học có tiếng ở Nhật Bản vào làm việc cho một công ty mà không
phải là lớn hoặc không phải Bộ tài chính; và người Nhật Bản cũng không
thích thú vào làm việc trong các công ty nước ngoài, thì trong những năm
gần đây, tình hình đà hoàn toàn khác. Những sự thay đổi này, một phần
chính là kết quả của những cuộc cải cách kinh tế trong những năm 1990,
đặc biệt là cuộc cải cách hệ thống tài chính trong những năm gần đây của
Nhật Bản.

15



Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

1. Những tiến bộ trong việc điều chỉnh cơ cấu kinh tÕ.
KĨ tõ khi nỊn kinh tÕ “bong bãng” bÞ sụp đổ, Chính phủ Nhật Bản đÃ
ban hành khá nhiều giải pháp kích thích cả gói với quy mô lớn cùng với các
luật cải cách tài chính và tỷ lệ lÃi suất thấp nhằm chuyển đổi cơ cấu kinh tế.
Những giải pháp này đà góp phần thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của khu
vực kinh tế tư nhân. Các nhà lÃnh đạo kinh doanh của khu vực tư nhân đÃ
phần nào lấy lại được lòng tin trong việc đưa khu vực tư nhân thành khu vực
đi đầu trong việc đem lại sự phục hồi kinh tế cho Nhật Bản. Dưới tác động
của các chính sách cải cách, các tập đoàn công ty của Nhật Bản đà và đang
tiến hành việc cơ cấu lại theo hướng phù hợp với xu thế toàn cầu hoá kinh
tế. Có 4 tín hiệu chứng tỏ các tập đoàn công ty Nhật Bản đang tự chuyển
đổi theo hướng một cơ cấu có khả năng cạnh tranh mạnh hơn.
Thứ nhất là có sự thay đổi trong khâu quản lý theo hướng tăng cường
vai trò của những người nắm cổ phần. Theo hướng này, các tập đoàn công
ty Nhật Bản được đặt dưới sự giám sát chặt chẽ của các cổ đông, và do đó
các hoạt động kinh doanh sẽ trở nên có hiệu quả hơn.
Thứ hai là việc thực hiện hệ thống tính toán thống nhất. Hệ thống này
đà có tác dụng quan trọng trong việc tăng cường sự minh bạch cũng như
buộc các công ty phải tập trung vào những khả năng cốt lõi của họ.
Thứ ba là các công ty đang xúc tiến việc nâng cao chất lượng lÃnh
đạo bằng cách đưa vào các giám đốc từ bên ngoài. Bằng cách này các nhà
quản lý có thể nghe được nhiều ý kiến khác nhau và không thiên vị về chiến
lược công ty của họ, cho phép họ thực hiện những thay đổi làm tăng khả
năng cạnh tranh hơn. Việc làm này cũng góp phần tăng cường vai trò của
lÃnh đạo vì nó tách chức năng kiểm tra khỏi chức năng hoạt động kinh

doanh.
Thứ tư, việc quản lý các nguồn nhân lực cũng đang có sự thay đổi.
Nhiều công ty hiện nay nhấn mạnh vào khả năng làm việc hơn là sự thâm
niên và thuê mướn suốt đời. Ví dụ, theo một nghiên cứu, chỉ có 6,3% người
Nhật cho rằng hệ thống trả lương theo thâm niên cần được duy trì, trong khi
đó 53,8% cho rằng tiền lương cần được trả trên cơ sở công viÖc thùc tÕ .

16


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

Bên cạnh những nhân tố kể trên, sự phát triển mạnh của đầu tư nước
ngoài vào Nhật Bản cũng là một động lực khác cho sự thay đổi cơ cấu các
ngành. Đặc biệt là cuộc cải cách tài chính Big Bang đà và đang dẫn tới
những thay đổi cơ cấu sâu sắc ở Nhật Bản. Khu vực tài chính Nhật Bản trở
nên có sức cạnh tranh mạnh hơn và sự thâm nhập của nước ngoài vào khu
vực này cũng trở nên ít khó khăn hơn. Theo các số liệu thống kê, đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) vào Nhật Bản trong những năm gần đây đà tăng rất
mạnh. Trong đó khoảng 34,1% tổng vốn FDI là vào khu vực tài chính, và
khoang 24% vào kỹ thuật thông tin và các ngành thương nghiệp bán lẻ.
FDI, ngoài các khoản tiền đầu tư, đà đưa vào Nhật Bản các quan điểm của
các nhà đầu tư và các kiểu quản lý công ty không chỉ mới mà còn có thể áp
dụng đối với các xí nghiệp Nhật Bản truyền thống. Nếu như trước đây người
Nhật Bản đà không thích thú làm việc trong các công ty nước ngoài ở Nhật
Bản thì trong những năm gần đây tình trạng này đà được cải thiện rất nhiều.
Ví dụ, nhiều người Nhật Bản đà hoan nghênh sự sát nhập của Nissan và
Renault nhằm cứu vÃn sự sèng cßn cđa Nissan, trong khi thõa nhËn r»ng sù
sèng còn không thể có được nếu không chấp nhận sự cơ cấu lại tập đoàn

một cách đau đớn như sa thải công nhân,
Tất cả những nhân tố kể trên đà góp phần tạo ra một sự chuyển dịch
đáng kể trong nội bộ các ngành kinh tế của Nhật Bản. Nhiều ngành công
nghiệp mới đà ra đời và phát triển như: Thông tin liên lạc, viễn thông, điện
tử và điện dân dụng, nhiều ngành công nghiệp truyền thống đà được điều
chỉnh theo hướn thu hẹp sản xuất, hoặc liên doanh liên kết, hoặc tăng cường
năng lực sản xuất nhằ nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh như: ôtô, sắt
thép, xây dựng(Điều chỉnh cơ cấu kinh tế Nhật Bản trong bối cảnh toàn
cầu hoá, Chủ biên Vũ Văn Hà, Nxb. KHXH, Hà Nội, 2002).
Có thể nói rằng, kể từ đầu thập kỷ 90 đến nay Nhật Bản đà và đang ở
trong một quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế sâu sắc. Nền kinh tế Nhật
Bản đang chuyển dịch theo hướng giảm sự can thiệp của Chính phủ và tăng
cường sự cạnh tranh của một nền kinh tế mở theo cơ chế thị trường, và theo
hướng một nền kinh tế mà sự tiến bộ của ký thuật thông tin đang được lan
rộng một cách nhanh chóng đem lại những khả năng cạnh tranh mới cho
các công ty trên thị trường. Trước vµ ngay sau ChiÕn tranh thÕ giíi thø hai,

17


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

nông nghiệp và dệt là những ngành đặc trưng của cơ cấu kinh tế Nhật Bản
kiểu cũ. Trong những thập kỷ gần đây, cơ cấu kinh tế Nhật Bản lại được đặc
trưng bởi các công ty to lớn đà được thiết lập một cách vững chắc trong
nhiều ngành công nghiệp nặng (như luyện kim, chế tạo máy, và hoá chất),
hệ thống ngân hàng, và các công ty thương mại tổng hợp lớn, Và trong
những năm gần đây, cơ cấu kinh tế này lại đang được chuyển đổi theo
hướng cải tổ cơ cấu và đầu tư vào kỹ thuật thông tin để có thể hoạt động có

hiệu quả trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ trên thế
giới. Bên cạnh những ngành nghề truyền thống đà và đang được cải tổ và
nâng cấp, có rất nhiều ngành nghề mới đang được hình thành trong nền
kinh tế Nhật Bản. Người ta gọi đó là Kinh tế Nhật Bản kiểu mới. Sự
chuyển dịch cơ cấu ngành chính là nhân tố quan trọngnhất tạo ra gương mặt
mới của nền kinh tế Nhật Bản.
2. Những thành tựu trong lĩnh vực cải cách tài chính.
Theo đánh giá chung, cuộc cải cách hệ thống tài chính Nhật Bản đà thu
được những kết quả bước đầu như: Vai trò và chức năng của hai cơ quan
chủ yếu trong hệ thống tài chính là Bộ Tài chính (MOF) và Ngân hàng
Trung ương Nhật Bản (BOJ) đà có sự thay đổi về cơ bản với việc tăng
cường tính độc lập và quyền tự quyết của BOJ trong việc quản lý và thực
hiện chính sách tiền tệ; Luật Ngân hàng mới đà có hiệu lực và đi vào hoạt
động kể từ năm 1997; nhiều ngân hàng đà tiến hành việc bán những uỷ thác
đầu tư; các cơ quan tài chính đà có quyền chủ động hơn trong việc giải
quyết những vấn đề nảy sinh; và rất nhiều công ty kinh doanh chứng khoán
đà được thành lập và đi vào hoạt động. Việc hợp nhất, các ngân hàng nhằm
làm tăng sức mạnh tài chính và khả năng lợi nhuận đà được đẩy mạnh. Sự
thâm nhập của các ngân hàng thương mại và ngân hàng uỷ thác vào kinh
doanh bảo hiểm thông qua các chi nhánh cũng đà được thực hiện
Sau hơn 5 năm triển khai và thực hiện, cuộc cải cách hệ thống tài
chính Nhật Bản bước đầu đà thu được những kết quả đáng khích lệ. Cuộc
cải cách này đà và đang dẫn tới những thay đổi cơ cấu sâu sắc ở Nhật Bản.
Khu vực tài chính Nhật Bản đà trở nên có sức cạnh tranh hơn, sự thâm nhập
của nước ngoài vào khu vực này cũng trở nênít khó khăn hơn, các thị trường
vốn độc lập cũng đà được phát triển thêm một bước. Các cơ quan tài chính

18



Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

Nhật Bản đà hoàn toàn được tự do trong các hoạt động của mình và các
phương tiện quản lý tài sản đà được cải thiện một cách có ý nghĩa, sự thâm
nhập lẫn nhau về công việc kinh doanh của các ngân hàng, các công ty
chứng khoán và công ty bảo hiểm, cùng với xu hướng hợp nhất các loại cơ
quan này đà được đẩy mạnh, các thị trường vốn đà được phát triển thêm
một bước, đặc biệt là mạng lưới thị trường thông qua hệ thông trao đổi
thương mại điện tử và qua Internet; Sự liên doanh, liên kết với nước ngoài
và sự thâm nhập của các công ty ài chính nước ngoài vào Nhật Bản đà được
đẩy mạnh dưới các hình thức như: FDI, mua cổ phần, tham gia trực tiếp vào
công việc quản lý của các công ty Nhật Bản và các thị trường chứng khoán
ở Nhật Bản; Và chất lượng quản lý tín dụng của các cơ quan trong hệ thống
tài chính Nhật Bản đà được cải thiện rất đáng kể (Hệ thống tài chính Nhật
Bản: Những đăc trưng cơ bản và cuộc cải cách hiện nay; chủ biên Trần
Quang Minh, Nxb KHXH, Hà Nội, 2003).
II. những chính sách và biện pháp cải cách trong
từng lĩnh vực của hệ thống tài chính
Mặc dù đà từng có những đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh
tế của Nhật Bản, đặc biệt là trong thời kỳ tăng trưởng ngoạn mục (1955
1973), hệ thống tài chính Nhật Bản mà trong đó các ngân hàng đóng vai trò
trung tâm, kể từ cuối thập kỷ 80 đến nay đà bộc lộ rất nhiều những yếu kém
và bất cập, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế của ®Êt n­íc. Trong
st h¬n mét thËp kû võa qua, ChÝnh phủ Nhật Bản đà phải thực hiện khá
nhiều chính sách và biện pháp nhằm cơ cấu lại hệ thống tài chính thích ứng
với những đòi hỏi của tình hình kinh tế trong nước và bối cảnh quốc tế mới.
Tuy nhiên, những giải pháp tình thế được thực hiện trong những năm đầu
thập kỷ 90 đà chứng tỏ rằng đó không phải là những phương thuốc hữu hiệu
đẻ chữa trị căn bệnh khủng hoảng cơ cấu kinh tế nói chung và hệ thống

tài chính của Nhật Bản nói riêng. Chỉ khi chương trình Big Bang do Thủ
tướng Hashimoto khởi sướng và được thực hiện kể từ tháng 11/1996, hệ
thống tà chính Nhật Bản mới thực sự bước vào một cuộc cải cách sâu sắc và
toàn diện.

19


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

Đặc điểm nổi bật của hệ thống tài chính Nhật Bản là chủ yếu dựa vào
ngân hàng nên trước hết chúng ta sẽ đi vào các chính sách, biện pháp để cải
cách ngân hàng trung ương (NHTW) và ngân hàng thương mại (NHTM).
1. Các chính sách đối với NHTW và NHTM
Hệ thống tài chính Nhật Bản, đặc biệt là hệ thống ngân hàng, đà được
ca ngợi có vai trò sống còn trong phát triển kinh tế của Nhật Bản trước
những năm 1990. Rất nhiều ngân hàng Nhật Bản thời kỳ đó là những ngân
hàng lớn nhất trên thế giới: 9 trong số 10 ngân hàng hàng đầu thế giới xét
về quy mô tài sản là những ngân hàng Nhật Bản. Các ngân hàng này có
những quỹ tiền gửi khổng lồ, chi phí thấp và những đánh giá tín dụng cao
nhất. Chính vì thế, Nhật Bản đà thay đổi hẳn trong những năm 1990 với
những món nợ khó đòi khổng lồ của các ngân hàng, kinh tế triền miên
trong vòng suy thoái, giảm phát liên tục trong những năm gần đây. Vậy làm
thế nào để có thể lập lại trật tự của hệ thống tài chính để ngân hàng có thể
làm tốt vai trò trung gian tài chính của mình trong việc thu hút vốn nhàn rỗi
và cung cấp vốn cho doanh nghiệp, thực sự đáp ứng những yêu cầu mới
trong qua trình hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá. Chương trình cải cách
Big Bang đà đưa ra những chính sách và biện pháp tương đối toàn diện để
đổi mới nguyên tắc hoạt động cũng như cơ cấu tổ chức hệ thống ngân hàng

Nhật Bản.
a. Đối với NHTW
Như chúng ta đà biết, ngân hàng trung ương là một định chế quản lý
nhà nước về tiền tệ tín dụng. Nó n»m trong bé m¸y qun lùc qc gia.
Song, t theo điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi nước, HNTW có thể độc lập
hay trực thuộc Chính phủ. Chẳng hạn ở Mỹ và Đức, thực hiện thể chế
NHTW độc lập với Chính phủ. Trong thể chế này, Chính phủ không được
can thiệp vào hoạt động của NHTW. Nhưng ở Nhật, Anh, Pháp và một số
nước khác thực hiện thể chế NHTW trùc thc ChÝnh phđ, ChÝnh phđ cã
¶nh h­ëng qut định đối với hoạt động của NHTW.
Khác với tính chất quản lý nhà nước của các bộ, NHTW thực hiện
việc quản lý nhà nước qua các nghiệp vụ kinh doanh có đem lại lợi nhuận.

20


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

Song, việc kinh doanh này chỉ là phương tiện nâng cao hiệu suất của công
tác quản lý, chứ không phải là mục đích của hoạt động chính của NHTW.
Mục đích hoạt động của NHTW là cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế,
điều hoà lưu thông tiền tệ và quản lý hệ thống ngân hàng, nhằm bảo đảm
lưu thông tiền tệ ổn định, từ đó tạo diều kiện tăng trưởng kinh tế, tăng việc
làm và kiềm chế lạm phát. Với 3 chức năng cơ bản là: phát hành tiền tệ,
ngân hàng của các ngân hàng và ngân hàng của nhà nước, NHTW đóng vai
trò quan trọng trong việc ổn định và phát triển kinh tế xà hội như điều tiết
khối lượng tiền trong lưu thông, ổn định sức mua của đồng tiền quốc gia.
Ngân hàng trung ương Nhật Bản (DOJ) ra đời vào năm 1886 theo
sáng kiến của Bộ trưởng Tài chính Masayoshi Matsuka. Đây là một phần

trong chương trình hiện đại hoá tài chính Nhật Bản của thời Minh Trị. Mục
tiêu là để cải cách hệ thống tiền tệ, thiết lập một đồng tiền chung trong cả
nước, tạo cơ sở cho tài chính quốc gia và thúc đẩy sự phát triển của ngân
hàng nói chung. Gần 60 năm sau Pháp lệnh BOJ được thay thế bằng một
luật NHTW mới được thực hiện trong thời kỳ Chính phủ do giới quân sự
lắm quyền vào năm 1942. Sự sửa đổi lần đó có thêm vào quyền hạn của
NHTW trong chính sách tiền tệ, nhưng vẫn coi HNTW là một bộ phËn cđa
Bé Tµi ChÝnh. Sau ChiÕn tranh ThÕ giíi thø II, BOJ hầu như không có sự
thay đổi. Hai sáng kiến nhằm cải cách Luật NHTW một lần vào cuối
những năm 1950 và một lần nữa vào năm 1965 đều không đem lại kết quả.
Vì lúc đó kinh tế đang tăng trưởng với tốc độ cao nên các chính trị gia cũng
như công chúng thấy không quan tâm nhiều tới sự thay đổi Luật NHTW.
Điều này mới chỉ được thùc sù nghÜ tíi khi nỊn kinh tÕ ®· nh­ một quả
bóng căng phồng vào cuối những năm 1980 và khi bong bóng nổ thì những
tiếng kêu cứu từ những tổ chức cho vay và của công chúng buộc Chính phủ
phải có một vài hành động để thay đổi chính sách tiền tệ và hệ thống tài
chính. Một uỷ ban tư vấn riêng của Thủ tướng Hashimoto và báo cáo đầu
tiên được công bốvào tháng 11 năm 1996. Sau đó quá trình sửa đổi luật bắt
đầu được Uỷ ban Nghiên cøu hƯ thèng tµi chÝnh vµ Ban Cè vÊn trong Bộ
Tài chính tiến hành. Tháng 2 năm 1997 dự thảo luật được nội các chấp
thuận và được 2 viện của Quốc hội thông qua vài tháng sau đó. Với tiêu ®Ị
“TiÕn tíi sù ®éc lËp cđa BOJ” b¸o c¸o cđa Uỷ ban Tư vấn đà tổng hợp ý
kiến của các quan chøc trong BOJ vµ Bé Tµi chÝnh.

21


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.


Luật NHTW mới của Nhật Bản ghi rõ NHTW được độc lập trong
chính sách tiền tệ và cụ thể hoá những vấn đề thuộc phạm vi của NHTW.
Điều 1 của Luật đưa ra 2 mục tiêu của NHTW là quản lý tiền, ổn định giá
cả, và đảm bảo cung cấp vốn cho các ngân hàng và các tổ chức tài chính
khác, duy trì trật tự của hệ thống tài chính. Quy định này cho thấy NHTW
là trung tâm của hệ thống thanh toán cũng như là tổ chức để duy trì trật tự
tài chính. Điều 3 của Luật tuyên bố sẽ tôn trọng quyền tự quyết của
NHTW bằng sự độc lập trong quá trình ra quyết định và công bố nội dung
các quyết định. Luật cũng quy định chức năng và việc bổ nhiệm các chức
vụ của NHTW. Ban trị sù cđa BOJ sÏ gåm: 1 thèng ®èc, 2 phã thống đốc, 6
thành viên được lựa chọn nằm trong Ban chính sách, 3 kiểm toán viên,6
giám đốc điều hành, và mét sè cè vÊn. Thèng ®èc, 2 phã thèng ®èc, 6 thành
viên được lựa chọn nằm trong Ban Chính sách, ban này do Nội các chỉ định
với sự đồng ý của 2 viện trong Quốc hội sẽ được ra những quyết định quan
trọng về chính sách tiền tệ và về hệ thống ngân hàng. Những kiểm toán viên
cũng do Nội các bổ nhiệm, nhưng các giám đốc điều hành và các cố vấn thì
do Bộ trưởng Tài chính bổ nhiệm theo sù giíi thiƯu cđa Ban ChÝnh s¸ch.
Lt ghi râ 6 thành viên được lựa chọn phải là chuyên gia kinh tế hoặc tài
chính, hoặc những người có kiến thức uyên thâm về kinh tế xà hội để tăng
cường tính minh bạch và có thể hạn chế sự can thiệp của Bộ Tài chính. Như
vậy luật mới đà lành mạnh hoá chức năng của Ban Chính sách tiền tệ, trong
tổng số 9 người của ban thì 4 thành viên mới được bổ nhiệm vào tháng 4
năm 1998 đều độc lËp víi ChÝnh phđ. Trong Ban ChÝnh s¸ch tiỊn tƯ, không
một thành viên nào có quyền áp đặt quan điểm của riêng mình, mọi người
đều có thể thẳng thắn nêu ý kiến. Bắt đầu từ tháng 1 năm 1998, BOJ đà thực
hiện các cuộc họp định kỳ 1 hoặc 2 lần trong một tháng về chính sách tiền
tệ, và sau 5 hoặc 6 tuần sẽ công bố công khai nội dung các cuộc họp. Đây
có thể coi là một đột phá để đưa Nhật Bản tiến đến các tiêu chuẩn quốc tế
về tính minh bạch trong hoạt động ngân hàng. Ngoài ra, trong việc quản lý
nhân sự BOJ đà bÃi bỏ quy chế thăng chức tự động hàng năm, tăng cường

hiệu quả nguồn nhân lực, áp dụng một cách then trọng hệ thống thăng chức
dựa vào sự đóng góp của các cá nhân cho hoạt động của ngân hàng.
Như vậy vai trò, chức năng, cơ cấu tổ chức của BOJ đà có những thay
đổi đáng kể theo hướng độc lập, tự quyết chứ không phải là tổ chức chỉ biết
thực thi những mệnh lệnh của Bộ Tài chính như trước kia. Tuy nhiên, những

22


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

thay đổi này vẫn chưa thể theo kịp các đồng sự phương Tây của họ. Có
những phê phán cho rằng BOJ tuy đà được độc lập trong thực thi chính sách
tiền tệnhưng lại bị hạn chế trong việc quản lý tiỊn tƯ. Khi nãi vỊ quan hƯ víi
ChÝnh phđ, §iỊu 4 của Luật mới lại ghi tiền mặt và quản lý tiền tệ là một
bộ phận trong chính sách kinh tế tổng thể, BOJ cần phải giữ quan hệ mật
thiết với Chính phủ và trao đổi ý kiến đầy đủ, như vậy thì chính sách tiền tệ
mới có sự hài hoà với chính sách kinh tế của Chính phủ. Điều này có nghĩa
là BOJ phải bàn bạc với Bộ Tài chính, và nó không giống với đồng sự của
họ ở Đức hoặc ở Mỹ, các quan chức của NHTW ở 2 nước này không đựoc
phép nhận xét công khai về chính sách tài chính ngay cả khi nó không phù
hợp với sự lựa chọn trong chính sách tiền tệ. Điều 37 và 38 khi nói về
trường hợp cho vay khẩn cấp thì lại thiếu sự phân biệt giữa việc bảo vệ hệ
thống thanh toán của BOJ với sự quan tâm của Chính phủ trong việcgiúp đỡ
cho vay đối với các tỉ chøc. Víi vai trß ng­êi cho vay ci cïng, về nguyên
tắc BOJ chỉ cho những ngân hàng có khả năng trả nợ được vay nhưng điều
37 của Luật lại ghi khi các tổ chức tài chính thiếu vốn tạm thời ngoài dự
đoán do những tai nạn ngẫu nhiên mà không thanh toán được thì BOJ có
thể cho vay. Ngoài ra điều 38 còn nói Bộ Tài chính có thể yêu cầu BOJ cho

vay trong những trường hợp khác như khi thấy cần thiết phải duy trì hệ
thống theo trật tự nếu thấy tình trạng kinh doanh và tài sản cđa mét sè tỉ
chøc tµi chÝnh cã thĨ cã vÊn đề dẫn đến phá vỡ trật tự tài chính. Điều đó
không nói rõ là BOJ có thể từ chối những yêu cầu hoặc đưa ra điều kiện gì
không.
Với chức năng là ngân hàng của Chính phủ, NHTW luôn gặp phải
những vấn đề khó sử trước đây. Chính phủ các nước đều đà có lúc gây áp
lực với NHTW trong việc thay đổi chính sách lÃi suất để có những khoản
vay với lÃi suất thấp hơn cho những hoạt động của Chính phủ. Điều 34 nói
BOJ có thể cho vay không cần thế chấp đối với Chính phủ, hoặc mua trái
phiếu hoặc ghi nợ trong giới hạn của Luật Ngân sách mà Quốc hội dặt ra.
Như vậy, việc áp dụng luật NHTW sửa đổi cho phép tạo lập môi
trường pháp lý phù hợp với tiêu chwnr quốc tế về quyền tự chủ, tính minh
bạch và các nhân tố quan trọng khác của NHTW. Đây là những điều kiện
cần thiết để chiếm được lòng tin của thi trường. Với Luật sửa đổi này phạm
vi can thiệp của Chính phủ với BOJ đà bị thu hẹp, tuy nhiên BOJ cũng phải

23


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

luôn duy trì mối quan hệ gần gũi và trao đổi quan diểm với Chính phủ một
cách đầy đủ để đảm bảo chính sách của BOJ hài hoà với chính sách kinh tế
của Chính phủ. Luật ngân hàng mới nhấn mạnh khái niệm minh bạch với
quy định rằng BOJ sẽ thông báo ra công chúng nội dung các quyết định
cũng như quá trình ra quyết địnhcó liên quan tới vấn đề quản lý tiền và
ngoại hối. Có thể thấy cuộc cải cách đối với BOJ tương đối toàn diện vì
không chỉ về cơ cấu luật pháp bên ngoài mà còn về cấu trúc và động lưc

bên trong của nó, tạo điều kiện để BOJ trở thành một ngân hàng hiện đại
theo tiêu chuẩn quốc tế. Điều này đà được chứng minh trong thời gian 4
năm qua khi BOJ luôn kiên định duy trì chính sách nới lỏng tiền tệ của
mình với việc điều chỉnh lÃi suất linh hoạt, can thiệp kịp thời vào thị trường
ngoại hối. Chẳng hạn, trong thời gian qua khi đồng Yên lên giá quá mức,
tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu của Nhật Bản. Chỉ tính từ cuối tháng
5/ 2002 đến đầu tháng 7/2002, BOJ đà 7 lần tung đồng Yên ra để mua Đôla
Mỹ và trong lần can thiệp thứ 6, BOJ đà yêu cầu Cục dự trữ Liên bang Mỹ
và NHTW châu âu giúp cho việc bán đồng Yên. Đây là lần đầu tiên BOJ
có sự phối hợp với NHTW của các nước khác.
b. Đối với các NHTM
NHTM là doanh nghiệp kinh doanh trong lÜnh vùc tiỊn tƯ – tÝn dơng
vµ cã thĨ hiểu đó là một trung gian tài chính đi vay để cho vay. Có nhiều
loại hình NHTM như NHTM công, NHTM t­, NHTM trong n­íc, NHTM
n­íc ngoµi, NHTM toµn qc, NHTM địa phương, NHTM duy nhất hoặc
NHTM mạng lưới, dựa trên tiêu thức doanh số người ta phân biệt NHTM
nhỏ, NHTM lớn hoặc siêu lớn.
NHTM có 3 chức năng: trước hết, NHTM hoạt động với tư cách là
một trung gian tín dụng. Một mặt, thu hút các khoản tiền nhàn rỗi trong xÃ
hội bao gồm tiền của các doanh nghiệp, các hộ gia đình, cá nhân và các cơ
quan nhà nước. Mặt khác, nó ding chính số tiền đà huy động được để cho
vay đối với các tổ chức, cá nhân trong xà hội khi có nhu cầu bổ sung vốn.
Thứ hai, NHTM là một trung gian thanh toán vì phần lớn các khoản chi trả
về hàng hoá, dịch vụ của xà hội đều được thực hiện qua ngân hàng. Chức
năng thứ 3 của NHTM là nguồn bổ sung tiền. NHTM có thể bổ sung tiền
bằng cách chuyển khoản hay các giấy tờ có giá trị để thay thế cho tiền mặt.
Cùng với vai trò độc quyền phát hành giấy bạc NHTW, NHTM góp phần

24



×