Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA QUAN NIỆM NAM TÍNH VÀ NỮ TÍNH ĐẾN MỘT SỐ KHÍA CẠNH XÃ HỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (601.04 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BỘ MÔN XÃ HỘI HỌC

BÁO CÁO
HỌC PHẦN: XÃ HỘI HỌC GIỚI
KHÓA 46 (2020 – 2024)

NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA QUAN NIỆM
NAM TÍNH VÀ NỮ TÍNH ĐẾN MỘT SỐ
KHÍA CẠNH XÃ HỘI

Cần Thơ, tháng 10 năm 2022


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BỘ MÔN XÃ HỘI HỌC

BÁO CÁO
HỌC PHẦN: XÃ HỘI HỌC GIỚI
KHÓA 46 (2020 – 2024)

NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA QUAN NIỆM
NAM TÍNH VÀ NỮ TÍNH ĐẾN MỘT SỐ
KHÍA CẠNH XÃ HỘI

Giảng viên hướng dẫn

Sinh viên thực hiện


T.S Nguyễn Ánh Minh
Bộ môn: Xã hội học

1. Bùi Quốc Khánh
2. Lư Phạm Thiện Duy

B2007417
B2004929

3. Nguyễn Hà Phi Phụng
4. Phạm Trúc My
5. Nguyễn Thái Khánh Ngân

B2013697
B2013685
B2013686

Cần Thơ, tháng 10 năm 2022


LỜI CẢM ƠN
Trước khi vào nội dung của bài báo cáo, nhóm chúng em xin chân thành gửi lời cảm
ơn đến TS. Nguyễn Ánh Minh, giảng viên giảng dạy học phần Xã hội học Giới, bộ môn
Xã hội học, Khoa Khoa học Xã hội & Nhân văn, Trường Đại học Cần Thơ đã tận tình
giảng dạy chúng em, cung cấp cho chúng em những kiến thức bổ ích và cần thiết trong
suốt quá trình học tập.
Xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến các bạn đồng học đã cùng nhóm chúng em trải qua
quá trình học tập học phần, cũng nhờ các bạn mà chúng em có được nhiều góc nhìn mới,
nhiều trải nghiệm mới hơn trên con đường học vấn của mình.
Do kinh nghiệm và kiến thức cịn hạn chế, cho nên bài báo cáo của nhóm sẽ khơng

tránh khỏi những sai sót trong q trình thực hiện. Kính mong sự góp ý của cơ và các
bạn đồng học nhằm để bài báo cáo được hoàn thiện hơn và cho nhóm chúng em có được
những kinh nghiệm.
Lời cuối cùng, xin trân trọng kính chúc cơ Ánh Minh và các bạn có thật nhiều sức
khỏe và đạt được nhiều thành công trong cuộc sống.
Trân trọng cảm ơn!
Cần Thơ, ngày 23 tháng 10 năm 2022
Đại diện nhóm sinh viên

Lư Phạm Thiện Duy


MỤC LỤC
I. TỔNG QUAN .............................................................................................................1
II. NỘI DUNG ................................................................................................................1
1) Khái niệm cơ bản ...................................................................................................1
1.1. Giới và giới tính ...............................................................................................1
1.1.1. Giới tính (Sex) .............................................................................................2
1.1.2. Giới (Gender) ..............................................................................................3
1.2. Định kiến giới ...................................................................................................4
1.3. Khuôn mẫu giới (Nam tính và nữ tính) ...........................................................5
2) Lý thuyết tiếp cận ..................................................................................................6
2.1. Lý thuyết chức năng về giới của Mirriam Johnson ........................................6
2.2. Lý thuyết phân tích xung đột theo khía cạnh giới của Janet Chafetz ............6
3) Các quan niệm về “nam tính” và “nữ tính” trong xã hội ..................................7
4) Ảnh hưởng của quan niệm “nam tính” và “nữ tính” .........................................8
4.1. Trong lĩnh vực giáo dục ...................................................................................8
4.1.1. Giáo dục gia đình ........................................................................................8
4.1.2. Khả năng tiếp cận giáo nguồn lực giáo dục ................................................9
4.2. Trong lĩnh vực hôn nhân ...............................................................................11

4.3. Trong lĩnh vực nghề nghiệp và lao động .......................................................13
4.4. Trong lĩnh vực truyền thông đại chúng .........................................................14
III. KẾT LUẬN ............................................................................................................15
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................16


DANH MỤC HÌNH & BẢNG
Hình 1. Đặc trưng giới tính……………….……………………………………………..3
Hình 2. Đặc trưng giới………………………………………………………………….4
Hình 3. Tỷ lệ nhập học đúng tuổi của nam và nữ năm 2010 và 2016…………………….5
Hình 4. Tỷ lệ bẳng cấp cao nhất của nam và nữ năm 2010 và 2016…..……………...10
Hình 5. Tỷ lệ tiếp cận giáo dục các cấp ở thành thị và nơng thơn…………………….11
Hình 6. Phân công lao động giữa hai vợ chồng trong gia đình……………………….12
Hình 7. Tỷ lệ chia sẻ việc nhà theo độ tuổi và theo nơi sống..………………………..13


I. TỔNG QUAN
Từ xa xưa trong lịch sử loài người đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, trong
mỗi giai đoạn lịch sử đó có sự thay đổi về hồn cảnh chính trị, kinh tế dẫn đến vai trị
của giới nam và giới nữa trong gia đình hay xã hội cũng thay đổi. Do đó, quan niệm về
tính cách, quy tắc xử sự của mỗi người cũng biến đổi không ngừng. Xã hội ngày càng
văn minh, người ta công nhận quyền bình đẳng của 2 giới. Trong phân cơng lao động,
vai trị của hai giới xích lại gần nhau, hệ thống giáo dục cũng khơng có sự phân biệt lớn
về giới tính. Về nguyên tắc, ngày nay mỗi con người, dù nam hay nữ, đều có điều kiện
phát triển tồn diện hơn, khơng phải bó hẹp trong các khn mẫu cổ xưa về đàn ông và
đàn bà nữa. Tuy nhiên, các quy định, quan niệm về tính cách, quy tắc của xã gội vẫn
còn để lại những dư âm của nó, ảnh hưởng đến sự phát triển của mỗi con người. Nam
tính hay nữ tính là những từ được nhắc đến nhiều trong cuộc sống hàng ngày và cũng là
thuật ngữ trung tâm của các chuyên luận về giới. Chúng được sử dụng quen thuộc đến
mức tạo nên nhận thức có tính phổ qt, nữ tính đối với phụ nữ, nam tính đối với nam

giới là đặc tính tự nhiên, bất biến. Nói cách khác, chúng được nói đến như những đặc
tính đồng nhất với giới tính sinh học, bất chấp sự biến động của các không gian và thời
gian văn hóa. Nam tính, nữ tính được coi là đặc trưng tính cách của mỗi giới, từ đó nó
quy định những năng lực có thể và vai trị của họ (thiên chức) đối với xã hội. Niềm tin
vào đặc trưng tính cách mỗi giới như vậy đã và đang dẫn đến những hành vi phân biệt
đối xử mang tính chất kỳ thị giới. Thực ra nam tính và nữ tính khơng phải là những đặc
tính tự nhiên, mà là những khuôn mẫu về giới được tạo ra như những sản phẩm mang
tính kiến tạo xã hội, mà nội hàm của chúng phản ánh những bối cảnh văn hóa đặc thù.
Để hiểu được những ảnh hưởng của quan niệm nam tính và nữ tính đối với một số khía
cạnh trong xã hội ta sẽ cùng bàn bạc và phân tích “Nghiên cứu ảnh hưởng của quan
niệm nam tính và nữ tính đến một số khía cạnh xã hội”.
II. NỘI DUNG
1) Khái niệm cơ bản
1.1. Giới và giới tính
Khi nói đến các vấn đề liên quan đến giới, cần phải bắt đầu phân biệt giữa hai thuật
ngữ “Giới tính” (Sex) và “Giới” (Gender) và xem xét những đặc trưng cơ bản của chúng
để tránh những nhầm lẫn khơng đáng có về khái niệm
1


1.1.1. Giới tính (Sex)
Trong Khoản 2, Điều 5, Luật Bình đẳng giới, năm 2006 có nêu ra khái niệm về giới
tính như sau: “Giới tính chỉ các đặc điểm sinh học của nam, nữ”. [1]
Bên cạnh đó, trong “Phụ lục 2: Giải thích thuật ngữ trong Kế hoạch hành động về
bình đẳng giới của ngành Giáo dục giai đoạn 2016-2020” trong Quyết định số 4996/QĐBGDĐT ngày 28/10/2016 của Bộ Giáo dục và Đào tạo có nêu rõ khái niệm về giới tính
(Trích theo Hướng dẫn BĐG trong chính sách và thực tiễn đào tạo giáo viên của
UNESCO, 2015)
Là những khác biệt về mặt sinh học giữa nam và nữ, cũng như các đặc tính sinh học
phân biệt nam và nữ. Một người có thể là nam hoặc nữ bất kể chủng tộc, tầng lớp, tuổi
tác hoặc sắc tộc.

Tuy nhiên, ý nghĩa xã hội gắn liền với sinh học của một người có thể khác nhau tùy
thuộc vào dân tộc của họ. Một số người có thể có đặc tính sinh học của cả hai phái, nam
và nữ, bởi sự phức tạp về mặt thể chất của họ.

[2]
Cịn theo Dỗn Thị Ngọc, trong một bài viết cũng có đề cập đến khái niệm giới như
sau
Giới tính (sex) là sự khác biệt về sinh học giữa nam và nữ. Về tự nhiên, nam giới có
dương vật và tinh hồn, cịn nữ giới có âm vật và buồng trứng. Hay nói một cách khác,
giới tính đề cập đến một tập hợp các thuộc tính sinh học ở người và động vật. Nó chủ
yếu liên quan đến các đặc điểm thể chất và sinh lý bao gồm nhiễm sắc thể, biểu hiện
gen, mức độ và chức năng hormone cũng như giải phẫu sinh sản và tình dục. Giới tính
thường được phân loại là nữ hoặc nam nhưng có sự khác biệt về các thuộc tính sinh học
bao gồm giới tính và cách các thuộc tính đó được thể hiện.

[3]
Như vậy, Giới tính (Sex) là một khái niệm xuất phát từ khía cạnh sinh học, chỉ sự
khác biệt giữa nam và nữ về mặt sinh học. Sự khác biệt này chủ yếu liên quan đến q
trình tái sản xuất con người và di truyền nịi giống. Con người sinh ra đã có những đặc
điểm về giới tính (nam/nữ/lưỡng tính - người có 2 bộ phận sinh dục). Cụ thể là phụ nữ
mang thai, sinh con, cho con bú, nam giới tạo ra tinh trùng để thụ thai. Những đặc điểm
này là ổn định và hầu như không biến đổi ở cả nam và nữ. Những đặc trưng cơ bản của
giới tính: Bẩm sinh, Đồng nhất, Không biến đổi.
2


Nguồn: Lư Phạm Thiện Duy (thiết kế và biên soạn)

1.1.2. Giới (Gender)
Trong Khoản 2, Điều 5, Luật Bình đẳng giới, năm 2006 có nêu ra khái niệm giới tính:

“Đặc điểm, vị trí, vai trị của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội”. [1]
Cũng trong “Phụ lục 2: Giải thích thuật ngữ trong Kế hoạch hành động về bình đẳng
giới của ngành Giáo dục giai đoạn 2016-2020” trong Quyết định số 4996/QĐ-BGDĐT
ngày 28/10/2016 của Bộ Giáo dục và Đào tạo có nêu rõ khái niệm về giới tính (Trích
theo “Tài liệu Hướng dẫn về bình đẳng giới cho các ấn phẩm của UNESCO, 2012)
Giới đề cập đến vai trò và trách nhiệm của nam giới và phụ nữ được tạo ra trong gia
đình, xã hội và nền văn hóa của chúng ta. Khái niệm giới cũng liên quan tới những
mong đợi về đặc điểm, khả năng và những hành vi, ứng xử của cả phụ nữ và nam giới
(nữ tính và nam tính).

[2]
Theo Trần Thị Quế (1999) thì Giới (Gender) được đề cập như sau
Giới (gender) là thuật ngữ xã hội học bắt nguồn từ môn nhân học, nói đến vai trị, trách
nhiệm và quyền lợi mà xã hội quy định cho nam và nữ. Giới đề cập đến việc phân công
lao động, các kiểu phân chia nguồn lực và lợi ích giữa nam và nữ trong một bối cảnh
xã hội cụ thể. Nói cách khác, nói đén giới là nói đến sự khác biệt giữa phụ nữ và nam
giới về mặt xã hội. Những đậc trưng cơ bản của giới: Do dạy và học mà có, Đa dạng,
Ln biến đổi. [4]

3


Như vậy, Giới là sự khác biệt về mặt xã hội giữa nam giới và phụ nữ về mặt vai trò,
thái độ, hành vi ứng xử và các giá trị. Vai trị giới được biết đến thơng qua q trình học
tập và khác nhau theo từng nền văn hóa và thời gian, do vậy giới có thể thay đổi được.

Nguồn: Lư Phạm Thiện Duy (thiết kế và biên soạn)

Ví dụ. Phụ nữ cũng có thể mạnh mẽ và quyết đốn, trở thành lãnh đạo, phi công, thợ
máy… Ngược lại nam giới có thể dịu dàng và kiên nhẫn, có thể làm đầu bếp, nhân viên

đánh máy, thư ký v.v. Những đặc điểm có thể hốn đổi đó là những khái niệm, nếp nghĩ
và tiêu chuẩn mang tính chất xã hội. Chúng thay đổi từ nền văn hoá này sang nền văn
hoá khác trong một bối cảnh cụ thể của một xã hội, do các yếu tố xã hội, lịch sử, tơn
giáo, kinh tế quyết định. Vì vậy, địa vị của người phụ nữ phương Tây khác với địa vị
của người phụ nữ phương Đông, địa vị xã hội của phụ nữ Việt Nam khác với địa vị xã
hội của phụ nữ Hồi giáo, địa vị của phụ nữ nông thôn khác với địa vị của phụ nữ vùng
thành thị.
1.2. Định kiến giới
Theo Từ điển thuật ngữ giới của Chương trình lương thực Thế giới (World Food
Programme) (trích theo Nguyễn Thị Thu Hà, 2008) thì định kiến giới được định nghĩa
như sau

4


Định kiến giới được hiểu là những hành động chống lại phụ nữ (hay nam giới) dựa
trên cơ sở nhận thức rằng giới tính này khơng có quyền bình đẳng với giới tính kia
và khơng có được quyền lợi như nhau

[5]
Theo khái niệm vừa nêu thì định kiến về giới bộc lộ trên 02 phương diện: hành động
chống đối và những hành động chống đối này được thực hiện trên cơ sở của sự nhận
thức sai lầm về vấn đề giới.
Trong Điều 5, Luật bình đẳng giới được thơng qua năm 2006 và có hiệu lực thi hành
từ tháng 07 năm 2007 ở Việt Nam có đưa ra các hiểu về định kiến giới như sau
Định kiến giới là nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu cực về đặc điểm, vị
trí, vai trị và năng lực của nam hoặc nữ.

[1]
Nhìn chung, định kiến giới được hiểu là những suy nghĩ, những quan điểm, nhận

thức cố hữu của một người/một nhóm người, nhưng mang tính thiên kiến cá nhân về đặc
điểm bên ngoài và tâm lý bên trong của người nam hoặc người nữ.
1.3. Khuôn mẫu giới (Nam tính và nữ tính)
Trong “Phụ lục 2: Giải thích thuật ngữ trong Kế hoạch hành động về bình đẳng giới
của ngành Giáo dục giai đoạn 2016-2020” trong Quyết định số 4996/QĐ-BGDĐT ngày
28/10/2016 của Bộ Giáo dục và Đào tạo có nêu rõ khái niệm (Trích theo Hướng dẫn về
Bình Đẳng Giới đối với các ấn phẩm của UNESCO – 2012)
Sự khái qt hóa giản đơn về đặc điểm, tính cách, vai trị, của các cá nhân hoặc nhóm
người dựa trên giới tính của họ. Các khn mẫu có thể là tích cực hoặc tiêu cực nhưng
chúng hiếm khi đưa ra thơng tin chính xác về người khác.

[2]
Cịn theo Hồng Châu (2021), trong Báo tuổi trẻ với bài viết có tựa đề “Khn mẫu
giới – Chuẩn mực hay áp lực?” có định nghĩa như sau về khuôn mẫu giới
Khuôn mẫu giới được hiểu là sự khái quát hóa giản đơn về đặc điểm, tính cách, vai trị,
của các cá nhân hoặc nhóm người dựa trên giới tính của họ.

[6]
Nói tóm lại, khn mẫu giới được hiểu là những mẫu hình, giá trị niềm tin được định
sẵn, quy định những đặc điểm điển hình của nữ và nam. Những đặc điểm nam tính và
5


nữ tính theo khn mẫu giới là sự cụ thể hóa bản sắc theo những kì vọng, mong chờ của
xã hội. Nghiên cứu cho thấy, nền văn hóa khác nhau, có một sự nhất trí chung về những
đặc điểm nam tính và nữ tính.
2) Lý thuyết tiếp cận
2.1. Lý thuyết chức năng về giới của Mirriam Johnson
Người đề xướng chủ yếu của một lý thuyết chức năng về phái tính là Miriam Johnson.
Phát biểu với tư cách một nhà chức năng và theo thuyết nữ quyền, trước hết Johnson

thừa nhận rằng có một xu hướng phân biệt giới tính khơng chủ định trong lý thuyết của
Talcott Parsons về gia đình và rằng thuyết chức năng đã đặt ra ngoài lề các vấn đề về sự
bất bình đẳng xã hội, sự thống trị và sự áp bức. Lý thuyết này phân biệt vai trò giới, đặc
biệt là chức năng của phụ nữ và đàn ơng trong gia đình; qua đó, định vị nguồn gốc của
bất bình đẳng giới trong xã hội theo chế độ gia trưởng.
Johnson cho rằng vai trò của gia đình là xã hội hố trẻ em và tái tạo về mặt
tình cảm các thành viên trưởng thành. Vai trị đó được người phụ nữ đảm nhận bởi họ
có chức năng biểu đạt cịn người đàn ơng có chức năng duy lý cơng cụ; tức là, người
đàn ơng có chức năng về mặt kinh tế, đời sống vật chất và đối ngoại với cộng đồng xã
hội, còn người phụ nữ có chức năng duy trì tình cảm của các thành viên trong gia đình.
Các chức năng của phụ nữ trong gia đình đã chi phối tới chức năng kinh tế của họ. Phụ
nữ được hướng nghiệp tới các nghề nghiệp mang tính biểu cảm như giáo viên, y tá, bác
sĩ, đầu bếp, thợ may... Trong những lĩnh vực mà đàn ơng thống trị, họ có thể tham gia
nhưng khó có thế chiếm được vị trí cấp cao và ln bị ảnh hưởng bởi những trách nhiệm
gia đình nặng nề. Chức năng giới được truyền tải từ thế hệ này sang thế hệ khác. Các bé
trai và các bé gái học hỏi vai giới từ cha và mẹ của chúng và tái tạo trong tương lai.
Ứng dụng lý thuyết chức năng giới này nhằm mục đích giải thích những khn mẫu
giới ảnh hưởng lên các bé trai và bé gái trong suốt quá trình sống của chúng cũng như
những vấn đề định kiến giới trong một số khía cạnh xã hội.
2.2. Lý thuyết phân tích xung đột theo khía cạnh giới của Janet Chafetz
Lý thuyết gia có ảnh hưởng nhiều nhất về vấn đề phái tính từ viễn cảnh của thuyết
phân tích xung đột là Janet Chafetz. Bà tập trung vào sự bất bình đẳng phái tính, hay
như cách bà gọi, sự phân tầng giới tính (sex stratification). Trong việc bắt đầu từ sự
phân tầng giới tính, Chafetz bám sát thuyết phân tích xung đột: bà tìm một hình thái có
6


tính chất tái diễn của xung đột xã hội và đưa vào phân tích, các điều kiện cấu trúc sản
sinh ra sự xung đột ở cường độ nhiều hơn hay ít hơn.
Chafetz thăm dò các cấu trúc và điều kiện xã hội có ảnh hưởng tới cường độ của sự

phân tầng giới tính – hay các bất lợi của phụ nữ trong mọi xã hội và mọi nền văn hoá.
Các cấu trúc và điều kiện này bao gồm sự phân biệt giới tính về vai trị, ý thức hệ gia
trưởng, gia đình và tổ chức lao động, các điều kiện định khuôn như các khuôn mẫu sinh
sản, sự phân cách của các vị trí lao động và nội trợ, thặng dư kinh tế, tính phức tạp về
kỹ thuật, mật độ dân số, và sự khắc nghiệt của môi trường. Sự tương tác giữa các yếu tố
này quyết định mức độ của sự phân tầng giới tính. Quan điểm của Chafetz là phụ nữ
chịu đựng sự bất lợi ở mức thấp nhất khi họ có thể cân bằng giữa các trách nhiệm nội
trợ với vai trò quan trọng kinh tế gia đình.
3) Các quan niệm về “nam tính” và “nữ tính” trong xã hội
Nam tính là một mơ hình cụ thể của các hành vi hoặc thực hành xã hội có liên quan
đến những ý tưởng về cách nam giới nên ứng xử và vị trí của họ trong quan hệ giới.
Cũng như nữ tính, có nhiều loại nam tính khác nhau, chúng thay đổi theo thời gian và
theo các bối cảnh khác nhau [10]. Trong xã hội truyền thống việc đề ra những quan niệm
về “nam tính” và “nữ tính” được diễn ra mạnh mẽ. Có rất nhiều khn mẫu đặt ra khiến
con người, đặc biệt là phụ nữ phải đối mặt với những áp lực to lớn. Điều này thời kì nào
cũng có. Thậm chí, những khn mẫu như “việc nhà là của phụ nữ”, “phụ nữ thì khơng
cần học quá cao”… đang là rào cản lớn, tước đi cơ hội của phụ nữ trong khi xét về năng
lực, phụ nữ không thua kém đàn ông (Khuất Thu Hồng, 2021, trích trong [6]).
Việc thiết lập khn mẫu giới trong xã hội cũng mang một ý nghĩa tích cực đó là giúp
con người tư duy nhanh hơn, có đích đến và có những động lực tốt đẹp để hướng tới.
Tuy nhiên lợi ích đó là chưa đủ so với những điểm tiêu cực kéo theo như: tư duy hạn
hẹp, lối mòn, sai bản chất, bỏ lỡ những ý tưởng mới, tự làm khó cho chính bản thân
mình cũng như ảnh hưởng đến những người xung quanh. Định kiến giới cho rằng nam
giới phải quyết đốn, mạnh mẽ nên hình thành tính gia trưởng trong nam giới - là một
nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình. Định kiến giới tạo áp lực buộc nam giới phải
uống rượu, hút thuốc lá để thể hiện nam tính. Điều này ảnh hưởng đến sức khỏe của nam
giới. Định kiến giới tạo nên tư tưởng “trọng nam, khinh nữ”, làm cho phụ nữ tự ti, an

7



phận, thiếu mạnh dạn, thiếu tự tin trong cuộc sống gia đình và xã hội (Hội Nơng dân
Việt Nam, 2016).
Những khái niệm, u cầu, khn mẫu về giới mà có lẽ bất cứ ai trong chúng ta cũng
được nghe, được dạy, thậm chí đã ăn sâu vào ý thức của rất nhiều thế hệ. Tuy nhiên,
trong xã hội hiện đại ngày nay, một số tiêu chuẩn, khuôn mẫu giới này khơng cịn phù
hợp, đơi khi cịn là những áp lực với nhiều người (Hoàng Châu, 2021). Việc này ảnh
hưởng đến nhiều lĩnh vực trong xã hội, trong đó tiêu biểu kể đến là giáo dục, hôn nhân,
nghề nghiệp và lao động, truyền thông đại chúng.
4) Ảnh hưởng của quan niệm “nam tính” và “nữ tính”
4.1. Trong lĩnh vực giáo dục
4.1.1. Giáo dục gia đình
Từ lứa tuổi mầm non, trẻ em đã phát triển sự tự nhận thức và bắt đầu học hỏi những
thái độ, giá trị và hành vi từ gia đình, nhà trường và xã hội cũng như bắt đầu hình thành
và thể hiện tính cách, hành vi của bản thân theo những khuôn mẫu giới của xã hội. Do
vậy, các khuôn mẫu giới này ảnh hưởng đến cách trẻ hành xử trong các mối quan hệ với
bạn bè, gia đình và giáo viên, cũng như đến sự phát triển của trẻ. Hầu hết cha mẹ và giáo
viên đều tin và mong muốn đối xử bình đẳng với trẻ trai và trẻ gái. Tuy nhiên, do quá
trình xã hội hóa về giới diễn ra từ sớm, các khn mẫu giới tồn tại trong cuộc sống từ
trước khi chúng ta được sinh ra nên mọi người trở nên quen thuộc và dễ dàng chấp nhận
các khuôn mẫu giới. Nhiều cha mẹ, người giám hộ và chăm sóc trẻ, do vơ tình hay hữu
ý, đang củng cố các khn mẫu giới mà khơng nhận thức được những ảnh hưởng của
nó đối với trẻ.
Ở phạm vi của giáo dục gia đình trong xã hội Việt Nam, những khuôn mẫu giới được
quy định cho từng giới tính. Chẳng hạn với bé trai, bố mẹ sẽ thường có xu hướng dạy
con có cách sống bản lĩnh, dám làm, dám nhận, dám chịu trách nhiệm. Dạy cho bé trai
đó phải có sự can đảm, độc lập và có chính kiến riêng trong mỗi việc. Cịn đối với bé
gái, cha mẹ thường lại có xu hướng dạy chúng phải kín đáo, nhẹ nhàng, ăn nói phải biết
trước biết sau,… và đó là những ảnh hưởng phần nào từ truyền thống lâu đời của văn
hóa Á Đơng. Theo ơng Lê Quang Bình (Viện trưởng Viện Nghiên cứu xã hội, kinh tế

và môi trường - iSEE) trong một nghiên cứu trực tuyến trên 2,200 người trẻ tuổi từ 14
đến 30 của Viện nghiên cứu xã hội kinh tế và môi trường (iSEE), Quỹ châu Á và trung
8


tâm CGFED tiến hành năm 2013 cho thấy 60% người trẻ cho rằng phụ nữ phải có nữ
tính như dịu dàng, khéo léo, chăm chỉ và an phận, còn nam giới phải có nam tính như
mạnh mẽ, quyết đốn, nóng tính và hào phóng. Đây là những tố chất mong đợi, làm kim
chỉ nam để thanh niên thể hiện con người mình. Chính vì vậy, những bạn nam có nhiều
nữ tính hoặc các bạn gái có nhiều nam tính bị coi là “lệch chuẩn”, “bất thường” và cha
mẹ cần uốn nắn. Trong trường học và công sở, nhiều khi họ cịn bị trêu chọc, thậm chí
bị tẩy chay.
Bên cạnh đó, khn mẫu giới cịn được thể hiện trong việc cho trẻ em chơi đồ chơi.
Đồ chơi có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong sự phát triển về tâm lý và nhân cách của trẻ.
Những hoạt động chơi đồ chơi hoặc chơi trị chơi khơng chỉ giúp trẻ kích thích sự sáng
tạo mà còn giúp trẻ phát huy được những năng lực và tính cách chun biệt của mình.
Thơng thường, khuôn mẫu giới được thể hiện bằng việc các bé trai phải chơi những đồ
chơi, trị chơi có tính mạnh mẽ ví dụ như: xe hơi, máy bay, lắp ráp,… Trong khi với các
bé gái thì sẽ chơi các đồ chơi như búp bê, đồ hàng,… để nhằm hình thành cho các bé
gái tính nhẹ nhàng, dịu dàng và thẫm mĩ. Bằng việc quy định khn mẫu giới này, vơ
hình chung đã dẫn đến những khuôn mẫu giới về nghề nghiệp trong tương lai của trẻ.
Thực tiễn cho thấy, trẻ em phải chịu áp lực rất lớn từ những quan niệm trên. Các em
phải tự điều chỉnh những hành vi, suy nghĩ của mình sao cho phù hợp với quan niệm về
khuôn mẫu của mỗi giới.
4.1.2. Khả năng tiếp cận giáo nguồn lực giáo dục
Xem xét về cơ hội tiếp cận với nguồn lực giáo dục, có thể dễ dàng nhận thấy sự khác
biệt giữa bé trai và bé gái. Cho đến hiện nay, ở một số gia đình vẫn còn thiên vị trong
việc đầu tư giáo dục đối với con cái. Điều này xuất phát từ định kiến giới là con trai có
khả năng lao động, có tư duy tốt hơn nữ giới, tính cách (nam tính) của nam giới phù hợp
hơn với việc học lên cao và tiếp cận nhiều hơn với tri thức. Trong khi đó, nữ giới thì

phải ở nhà chăm lo cơng việc nhà, phải phụ giúp các bậc cha mẹ trông coi nhà cửa. Quan
niệm con gái đến tuổi là phải đi lấy chồng, về để chăm lo cho chồng cũng phần nào ảnh
hưởng đến khả năng tiếp cận giáo dục của nữ giới. Tuy nhiên, những bất bình đẳng này
trong các gia đình thành thị ngày nay khơng cịn nhiều và hầu như khơng cịn, trẻ em
được tiếp cận nhiều hơn với giáo dục và có sự bình đẳng giữa nam giới và nữ giới.

9


Hình 3. Tỷ lệ nhập học đúng tuổi của nam và nữ năm 2010 và 2016
(Nguồn: Bộ Kế hoạch & Đầu Tư, năm 2018)
Tỷ lệ nhập học đúng tuổi gần đây đã có sự gia tăng. Qua Hình 3 cho thấy trong giai
đoạn 2010-2016, tỷ lệ nhập học đúng tuổi của cả nam và nữ tăng và nhìn chung đạt được
bình đẳng giới về giáo dục tiểu học. Năm 2016 có khoảng 93,1% trẻ em nam và 93,2%
trẻ em nữ trong độ tuổi 6-10 tuổi tham gia học tiểu học. Với hai bậc học cao hơn (THCS
và THPT), khoảng cách giới đã được thu hẹp, nhưng vẫn còn do tỷ lệ gia tăng nữ nhập
học đúng tuổi thấp hơn nam.

Hình 4. Tỷ lệ bẳng cấp cao nhất của nam và nữ năm 2010 và 2016
(Nguồn: Bộ Kế hoạch & Đầu Tư, năm 2018)
10


Về bằng cấp cao nhất đạt được, có sự dịch chuyển đáng khích lệ ở cả hai giới theo
hướng tỷ lệ người khơng có bằng cấp hoặc có bằng tiểu học giảm, tỷ lệ đạt bằng cấp từ
THCS trở lên tăng trong giai đoạn 2010-2016. Tỷ lệ nữ không bằng cấp vẫn còn cao,
năm 2016 vẫn còn 22,4% nữ giới khơng có bằng cấp, cao hơn con số 19,8% của nam
giới. Tỷ lệ người có bằng cấp từ THCS trở lên tăng, đặc biệt với giáo dục chuyên nghiệp
từ cấp cao đẳng (Hình 4). Điều này một mặt thể hiện cơ hội giáo dục mở rộng hơn cho
mọi đối tượng, mặt khác cho thấy xu thế giáo dục trong những năm gần đây khi phần

lớn học sinh tốt nghiệp THPT thi tuyển vào bậc cao đẳng, đại học thay vì tham gia học
nghề. Tuy nhiên, tỷ lệ nữ đạt được bằng cấp này đều thấp hơn nam. Qua đó cho thấy,
ảnh hưởng của những khn mẫu giới vẫn cịn trong giáo dục, nhất là đối với khả năng
tiếp cận giáo dục của nữ giới. Hình 5 cho thấy, Tỷ lệ đi học của nam và nữ ở Bậc Tiểu
học gần như bằng nhau ở nông thôn, tuy nhiên lên đến cấp THPT lại có sự chênh lệch
lớn. Nhìn chung thì nam và nữ tiếp cận giáo dục ở nông thôn vẫn có sự bình đẳng.

Hình 5. Tỷ lệ tiếp cận giáo dục các cấp ở thành thị và nông thôn
(Nguồn: Kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019)
4.2. Trong lĩnh vực hơn nhân
Bạo lực gia đình là một trong những ngun nhân chính gây nên tình trạng ly hôn từ
trước đến nay. Đối với nam giới, tư tưởng gia trưởng đã ăn sâu vào nếp nghĩ của đàn
ơng Việt Nam là ngun nhân chính dẫn đến bạo lực gia đình. Theo đó, một người đàn
ơng tự cho mình là chủ gia đình có quyền được giáo dục, đưa vợ con vào khn phép.
Những chuẩn nam tính cứng nhắc có thể khiến đàn ơng cảm thấy thất bại nặng nề nếu
họ khơng thể hiện được vai trị trụ cột của gia đình. Điều đó cùng với việc uống rượu
như một biểu tượng nam tính, có thể dẫn đến bạo lực gia đình [10]
Đối với nữ giới, tồn tại những quan niệm như công việc nhà là dành cho phụ nữ hay
quan niệm “con hư tại mẹ cháu hư tại bà”. Chính vì những khn khổ như vậy mà kìm
11


hãm sự phát triển của nữ giới ở bên ngoài xã hội. Những khuôn mẫu định kiến giới vẫn
hiện hữu ngay từ những cuốn sách, những cuốn truyện mà trẻ được học những năm đầu
đời. Trẻ em gái, phụ nữ thường được gắn với các vai trò như nấu ăn, chăm bé, làm việc
nhà,... Trong khi đó, trẻ em trai, nam giới được gắn với các hình ảnh kỹ sư, cảnh sát,
bác sĩ hoặc người lãnh đạo, chỉ huy...[11]
Trong vấn đề phân cơng lao động trong gia đình, những quan niệm về nam tính và nữ
tính đã ảnh hưởng phần nào đến những công việc mà người nam hoặc người nữ phải
làm. Trong báo cáo nghiên cứu vào năm 2019 của Úc tại Việt Nam, công việc nội trợ

hàng ngày như nấu ăn, giặt giũ, dọn dẹp nhà cửa chủ yếu là do phụ nữ đảm nhiệm (tỷ lệ
lần lượt là 61,5%, 62,3% và 57,6%). Ngược lại, người chồng chịu trách nhiệm chính về
đối ngoại như đại diện gia đình giao tiếp với chính quyền và cộng đồng (69,5%) và tham
gia hoạt động của dịng họ (65%).

Hình 6. Phân cơng lao động giữa hai vợ chồng trong gia đình
Nguồn: [10], tr.20
Tuy nhiên, đã có sự thay đổi tích cực trong phân cơng lao động gia đình ở nhóm nam
trẻ tuổi đô thị. Kết quả trong Biểu đồ 7 dưới đây cho thấy nam giới càng trẻ tuổi càng
có xu hướng chia sẻ việc nhà với phụ nữ, và thanh niên ở đơ thị chia sẻ việc nhà với vợ
mình nhiều hơn thanh niên ở nơng thơn. Ví dụ, ở khu vực đơ thị, có 38,8% nam giới ở
độ tuổi 18-29 đã chia sẻ việc nấu ăn với vợ mình so với tỷ lệ 24,2% ở những nam giới
12


từ 60 tuổi trở lên. Ở khu vực nông thôn, tỷ lệ tương ứng là 29,4% và 18,1%. Đây là
những dấu hiệu cho thấy đã có sự chuyển đổi tích cực so với phân cơng lao động truyền
thống.

Hình 7. Tỷ lệ chia sẻ việc nhà theo độ tuổi và theo nơi sống
Nguồn: [10], tr.21
4.3. Trong lĩnh vực nghề nghiệp và lao động
Theo Tổng cục thống kê trong đợt Điều tra Lao động Việc làm năm 2017, 2018, 2019
cho thấy rằng chỉ 43% phụ nữ có việc làm là lao động làm cơng ăn lương, so với 51,4%
nam giới có việc làm. Trong khi lao động gia đình khơng được trả công ở nam giới là
9,2%, con số này ở nữ giới cao gấp hơn 2 lần, 19,4% trong năm 2019. Cũng theo Tổng
cục thống kê năm 2015, trong ngành dệt may tồn tại 2 triệu lao động làm công ăn lương
của ngành này, thì có tới 76,4% là lao động nữ. Ngược lại, ở ngành xây dựng và ngành
nông lâm ngư nghiệp thì nam giới lại chiếm ưu thế với tỷ lệ lần lượt là 90,1% và 64,9%.
Hay ở ngành mỏ và khai thác đá, giao thông vận tải… nam giới lại chiếm ưu thế nhiều

hơn. Đặc biệt, nam giới chiếm tỷ lệ tới 63% số lao động trong các tổ chức đảng và các
tổ chức chính trị xã hội khác, các hoạt động quản lý, bất động sản, bán buôn bán lẻ cho
tới các ngành khoa học kĩ thuật và thơng tin truyền thơng. Điều đó cho thấy, sự mất cân
bằng giới tính đang xảy ra ở khá nhiều ngành nghề khác nhau.
Tuy nhiên, những năm trở lại đây đã xuất hiện những dấu hiệu của lệch chuẩn tích
cực so với phân công lao động giới truyền thống. Đối với nhóm nam giới trẻ tuổi, nam
giới sống ở đơ thị, những người có học vấn cao và những người tiếp cận nhiều hơn tới
tồn cầu hóa có xu hướng ít chịu ảnh hưởng của những khuôn mẫu truyền thống, khuôn
13


mẫu nam tính cứng nhắc và những chuẩn mực mang tính định kiến đối với phụ nữ. Thái
độ của nhóm nam thanh niên thế hệ thiên niên kỷ ở đô thị về nam tính, về hơn nhân, gia
đình, về phụ nữ và bình đẳng giới đang chuyển dịch theo hướng tích cực hơn.
Khi xác định lựa chọn nghề nghiệp khơng phải là câu hỏi: giới tính của mình có phù
hợp hay khơng? Mà là mình đã tìm hiểu và thực sự u thích, có khả năng làm ngành
nghề đó hay không? Bằng đam mê và mong muốn của bản thân, các bạn sẽ chứng minh:
khơng có bất cứ ngành nghề nào được quyết định bởi giới tính (Dương Kim Anh, 2022).
Năng lực, khả năng của mỗi người không phụ thuộc vào giới tính, cho nên việc định
hướng phân cơng lao động theo khn mẫu giới là hồn tồn sai lầm. Cả nam giới và
nữ giới đều có quyền được làm những cơng việc mà bản thân u thích, phù hợp với
khả năng của từng người. Có như vậy thì mới khơng kìm hãm sự phát triển của xã hội.
4.4. Trong lĩnh vực truyền thông đại chúng
Truyền thông đại chúng ngày càng đóng vai trị quan trọng, các sản phẩm ngày càng
được tiêu thụ một cách rộng rãi và tràn lan, đặc biệt là khi các sản phẩm đó có sự tham
của những người nổi tiếng hoặc có địa vị xã hội, thì việc đề cập đến những vấn đề nhạy
cảm như giới là rất quan trọng. Tuy nhiên thay vì tuyên truyền để phá vỡ định kiến giới,
truyền thông địa chúng trong nhiều năm qua lại đang đi ngược lại và thực hành định
kiến giới. Trong nhiều sản phẩm truyền thơng đã lồng ghép vấn đề bình đẳng giới góp
phần quan trọng trong việc định hướng, thay đổi hành vi ứng xử, suy nghĩ, thái độ và

tình cảm của phụ nữ và nam giới, xoá bỏ dần những định kiến giới. Tuy nhiên, vẫn cịn
nhiều sản phẩm truyền thơng củng cố các định kiến giới một các không ý thức. Các bài
viết, các câu chuyện trên báo chí thường nhấn mạnh vai trò của phụ nữ và nam giới dựa
trên những khuôn mẫu giới như: phụ nữ thường làm công việc đơn giản, liên quan đến
dịch vụ và luôn gắn với cơng việc gia đình, chăm sóc con cái, nội trợ; trong cuộc sống
vợ chồng luôn là những người vợ biết nhẫn nhịn. Cịn nam giới thường làm cơng việc
quan trọng, tham gia vào các lĩnh vực nổi bật, thu nhập cao; là người trụ cột, có tiếng
nói quyết định trong gia đình và nắm giữ quyền lực; năng động, tự chủ, thành đạt...
Ngồi những khn mẫu giới vơ tình được phản ảnh trong các tác phẩm báo chí, định
kiến giới còn thể hiện ngay trong các câu hỏi, lời bình, dẫn dắt của một số nhà báo cho
rằng phụ nữ phải biết nấu ăn ngon, là người nội trợ chăm chỉ và chiều mọi thành viên
trong gia đình. Bất chấp những thành tựu to lớn của phụ nữ, tỷ lệ đại diện của phụ nữ
14


trên các phương tiện truyền thông vẫn ở mức thấp so với các đồng nghiệp nam của
họ. Phụ nữ chỉ là tâm điểm của 10% tin bài, chỉ 20% chuyên gia hoặc người phát ngôn
được phỏng vấn (UNESCO, 2018)
Bên cạnh đó, theo báo cáo điều tra về các nhân vật nữ trong các bộ phim nổi tiếng
trên 11 quốc gia, tỷ lệ là 1 phụ nữ cho 2,24 nam giới xuất hiện trên màn ảnh trong khoảng
thời gian từ ngày 1 tháng 1 năm 2010 đến ngày 1 tháng 5 năm 2013. Năm 2009, Hiệp
hội Diễn viên Màn ảnh (Mỹ) cũng phát hiện ra rằng nam giới tiếp tục làm chiếm phần
lớn các vai trò, đặc biệt là Vai phụ , nơi họ đóng góp khoảng hai vai cho mỗi vai
nữ. Ngược lại, nữ chiếm tỷ lệ vai chính lớn hơn một chút so với tỷ lệ vai phụ, nhưng vẫn
chiếm ít vai chính hơn so với nam. [14]
Trong lĩnh vực truyền thơng báo chí, một nghiên cứu tại Hoa Kỳ cho biết Số lượng
phụ nữ trong các ngành nghề truyền thơng như báo chí đang tăng lên: tính đến năm 2018
ở Hoa Kỳ, 41,7% nhân viên tòa soạn là phụ nữ; tỷ lệ nữ nhà báo trong các tổ chức tin
tức trực tuyến thậm chí đạt 47,8%. Tuy nhiên, theo thống kê, giới truyền thông đang và
đã bị thống trị bởi nam giới, những người nắm giữ phần lớn các vị trí quyền lực. Rất ít

phụ nữ từng giữ các vị trí lãnh đạo; họ chỉ chiếm 28,3% giám đốc tin tức truyền hình và
30,5% tổng biên tập quản lý. [14]
Vì vậy, ngồi việc truyền thơng tăng cường nhận thức về giới và thực tiễn những quy
định pháp luật về giới, thiết nghĩ, các cơ quan truyền thông đại chúng cũng nên thiết lập
một bộ quy tắc ứng xử riêng. Điều đó là cần thiết trong bối cảnh xã hội hiện nay, khi mà
quan điểm của xã hội về tình dục đã có nhiều thay đổi; đặc biệt sự cạnh tranh khốc liệt
giữa các loại hình truyền thơng đa phương tiện khiến cho vấn đề xuất bản, công bố ngày
càng trở nên dễ dãi hơn, phức tạp hơn. Để cơng tác thơng tin, giáo dục, truyền thơng về
giới, bình đẳng giới đạt hiệu quả, thiết nghĩ, trước tiên cần nâng cao nhận thức về giới
và bình đẳng giới cho những người làm công tác truyền thông. Một khi họ nhận thức
đúng và đủ tầm quan trọng của bình đẳng giới đối với sự phát triển của xã hội, họ sẽ có
kế hoạch tuyên truyền về vấn đề này tốt hơn.
III. KẾT LUẬN
Tóm lại, vấn đề khn mẫu giới đã quy định những nam tính và nữ tính cho các giới
và nó có tác động đến đời sống hằng ngày của con người. Phạm vi hạn chế của bài báo
cáo chỉ nêu ra những tác động của khuôn mẫu giới đối với 04 lĩnh vực: giáo dục, hôn
15



×