Tải bản đầy đủ (.pdf) (163 trang)

Tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm theo luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (22.94 MB, 163 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ PHƯƠNG XUÂN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

Chun ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hướng nghiên cứu
Mã số: 60380104

Người hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ Lê Huỳnh Tấn Duy
Học viên: Nguyễn Thị Phương Xn
Lớp: Cao học Luật Hình sự, Khóa 28

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan cơng trình nghiên cứu này là do tôi thực hiện, dưới sự hướng
dẫn khoa học của Tiến sĩ Lê Huỳnh Tấn Duy. Những thông tin trong nội dung luận
văn là khách quan, trung thực. Luận văn có kế thừa kết quả nghiên cứu của một số
cơng trình trước đó và được chú thích đầy đủ theo đúng quy định của Trường.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.


Học viên

Nguyễn Thị Phương Xuân


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật Hình sự

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

CQĐT

: Cơ quan điều tra

ĐTV

: Điều tra viên

KSV

: Kiểm sát viên

NXB

: Nhà xuất bản


TAND

: Toà án nhân dân

THTT

: Tiến hành tố tụng

TS

: Tiến sĩ

VKS

: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Bảng 3.1. Số liệu tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố CQĐT các
cấp thụ lý và kết quả giải quyết (2018 - 2020). ....................................................... 54
Biểu đồ 3.1. Cơ cấu về tỷ lệ tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm
trên phạm vi toàn quốc năm 2018 ........................................................................... 56
Biểu đồ 3.2. Cơ cấu về tỷ lệ tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm
trên phạm vi toàn quốc năm 2019 ........................................................................... 56
Biểu đồ 3.3. Cơ cấu về tỷ lệ tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm

trên phạm vi toàn quốc năm 2020 ........................................................................... 57
Bảng 3.2. Số lượng nguồn tin về tội phạm của CQĐT các cấp bị VKSND
hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ từ năm 2018 đến 2020 ........................................... 57
Biểu đồ 3.4. Cơ cấu về số nguồn tin về tội phạm được tạm đình chỉ giải quyết
bị VKSND hủy bỏ năm 2019 .................................................................................. 58
Biểu đồ 3.5. Cơ cấu về số nguồn tin về tội phạm được tạm đình chỉ giải quyết
bị VKS hủy bỏ năm 2020 ........................................................................................ 58


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TẠM ĐÌNH CHỈ GIẢI
QUYẾT NGUỒN TIN VỀ TỘI PHẠM ................................................................. 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại nguồn tin về tội phạm ......................... 7
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của nguồn tin về tội phạm ..................................... 7
1.1.2. Phân loại nguồn tin về tội phạm ........................................................... 10
1.2. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về
tội phạm ............................................................................................................. 19
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm
........................................................................................................................ 19
1.2.2. Ý nghĩa của tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm................... 25
1.3. Cơ sở quy định tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm .............. 27
Kết luận Chương 1 ................................................................................................ 30
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ TẠM
ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT NGUỒN TIN VỀ TỘI PHẠM ................................. 31
2.1. Sơ lược lịch sử các quy định về tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về
tội phạm ............................................................................................................. 31
2.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về tạm đình chỉ giải
quyết nguồn tin về tội phạm ............................................................................. 34
2.2.1. Quy định về thẩm quyền, căn cứ tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về

tội phạm.......................................................................................................... 34
2.2.2. Quy định về trình tự, thủ tục tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm
........................................................................................................................ 43
2.2.3. Quy định về thời hạn tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm .... 49
2.2.4. Quy định về phục hồi giải quyết nguồn tin về tội phạm ........................ 50
Kết luận Chương 2 ................................................................................................ 53


CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN TẠM ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT NGUỒN TIN VỀ
TỘI PHẠM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC HIỆN ................................................................................................ 54
3.1. Thực tiễn tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm........................ 54
3.1.1. Khái quát thực tiễn tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm ....... 54
3.1.2. Những hạn chế trong tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm .... 58
3.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong tạm đình chỉ giải quyết nguồn
tin về tội phạm ................................................................................................... 68
3.2.1. Nguyên nhân chủ quan.......................................................................... 68
3.2.2. Nguyên nhân khách quan ...................................................................... 69
3.3. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về tạm đình chỉ giải quyết
nguồn tin về tội phạm và nâng cao hiệu quả thực hiện .................................. 70
3.3.1. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về tạm đình chỉ giải quyết
nguồn tin về tội phạm...................................................................................... 70
3.3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quy định của pháp luật về tạm
đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm ....................................................... 72
Kết luận Chương 3 ................................................................................................ 76
KẾT LUẬN CHUNG ............................................................................................ 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Giai đoạn tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm là một giai đoạn quan
trọng trong quá trình tố tụng hình sự. Đây là giai đoạn tiền đề cho toàn bộ quy trình tố
tụng sau này được thực hiện có hiệu quả, đảm bảo chất lượng đầu vào của nguồn tin
sẽ là bước đầu tiên đảm bảo chất lượng đầu ra của hoạt động tố tụng hình sự. Bởi vì
có tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm mới giúp cho các cơ quan có thẩm
quyền THTT có cơ sở để xác định được có tội phạm hay khơng có tội phạm xảy ra
trong thực tế, để từ đó đưa ra quyết định có khởi tố hay khơng khởi tố vụ án hình sự.
Đây được xem là giai đoạn hình thành nên những cơ sở để khởi tố vụ án hình sự. Có
thể nói, trong những năm qua, số lượng nguồn tin về tội phạm từ nhiều cá nhân, tổ
chức gửi đến các cơ quan chức năng ngày càng có xu hướng gia tăng nhanh; tỷ lệ của
việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm chính vì thế cũng tăng theo và góp
phần khơng nhỏ trong việc phát hiện, xử lý kịp thời các hành vi phạm tội.
Trước đây, theo quy định của BLTTHS 2003, giai đoạn giải quyết nguồn tin
về tội phạm chưa được coi trọng và những quy định cịn mang tính khái qt, chưa
cụ thể, dẫn đến khó thực hiện và cịn vướng phải nhiều bất cập trong quá trình giải
quyết nguồn tin về tội phạm. BLTTHS 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2018 đã khắc phục được phần nào những vướng mắc trước đây trong quá
trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. Theo đó BLTTHS mới đã quy định cụ
thể hơn về giai đoạn giải quyết nguồn thông tin tội phạm, trong đó xác định rõ thẩm
quyền và trách nhiệm của từng cơ quan, người có thẩm quyền THTT cũng như cơ
quan, tổ chức, cá nhân khi tham gia vào quá trình giải quyết nguồn tin về tội phạm.
Đáng lưu ý, BLTTHS 2015 còn quy định rõ về vấn đề tạm đình chỉ giải quyết
nguồn tin về tội phạm, đây là một điểm mới hoàn toàn so với BLTTHS 2003. Trước
khi BLTTHS 2015 có hiệu lực thi hành, BLTTHS 2003 khơng quy định chế định
tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Vì vậy,
khi kết thúc thời hạn giải quyết, CQĐT chỉ có một trong hai lựa chọn theo quy định
tại Điều 104 và Điều 108, đó là ban hành Quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc

Quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự. Điều này dẫn đến nhiều khó khăn trong
thực tiễn giải quyết vụ việc ở giai đoạn tin báo. Cụ thể, khi có những vụ việc mà cơ
quan có thẩm quyền THTT xác định chưa đủ yếu tố để quyết định việc có khởi tố


2
hay khơng khởi tố vụ án hình sự thì các cơ quan này cũng chưa có cách thức giải
quyết nào cho phù hợp với luật định, dẫn đến một thực trạng đó là các cơ quan có
thẩm quyền THTT phải giải quyết nguồn tin về tội phạm theo những quy định
“ngồi vịng tố tụng”, đó là tạm dừng xác minh tin báo thay vì buộc phải ban hành
các quyết định tố tụng như BLTTHS 2003 quy định. Tại thời điểm đó, theo quy
định tại khoản 1 Điều 13 của Thơng tư liên tịch số 06/2013/TTLT1: “Trường hợp đã
hết thời hạn giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố quy định tại
Điều 103 BLTTHS 2003 mà cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố chưa đủ căn cứ để quyết định việc khởi tố hoặc quyết
định khơng khởi tố vụ án hình sự thì thơng báo ngay bằng văn bản cho Viện kiểm
sát cùng cấp biết để thống nhất quan điểm giải quyết”. Thực tiễn cho thấy trong
trường hợp này các cơ quan thường thống nhất tạm dừng giải quyết tin báo, tố giác
về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Cùng với việc bổ sung quy định tạm đình chỉ, BLTTHS 2015 cịn bổ sung
quy định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
BLTTHS 2015 cũng bổ sung quy định mới hồn tồn về cơ quan có thẩm quyền ra
quyết định tạm đình chỉ, quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố với các căn cứ cụ thể quy định tại Điều 148 và Điều 149. Có thể
nói đây là bước chuyển căn bản trong tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, góp phần quan trọng vào việc chống oan, sai và bỏ lọt tội phạm.
Trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tư pháp theo
tinh thần Nghị quyết 48/NQ-TW ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược
xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng
đến năm 2010” và Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về

“Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” thì việc nghiên cứu các quy định pháp
luật hiện hành về hoạt động giải quyết nguồn tin về tội phạm để làm sáng tỏ về mặt
lý luận cũng như thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật là vô cùng cần thiết và
đáng quan tâm. Đây cũng là lý do mà tác giả đã chọn đề tài: “Tạm đình chỉ giải
quyết nguồn tin về tội phạm theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn
thạc sĩ của mình.
Thơng tư liên tịch số 06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 02/8/2013 của Bộ
Cơng an, Bộ Quốc phịng, Bộ Tài chính, Bộ Nơng nghiệp và Phát triển nơng thơn, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao hướng dẫn thi hành quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố.
1


3
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Về mặt lý luận, liên quan đến đề tài nêu trên, đã có một số cơng trình như
sách, giáo trình đề cập đến như: Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Giáo
trình luật tố tụng hình sự Việt Nam (2018), Nxb Hồng Đức - Hội luật gia Việt Nam;
TS. Trần Văn Biên - Đinh Thế Hưng (đồng chủ biên, 2017), Bình luận khoa học Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2015, Nxb Thế Giới; TS. Võ Thị Kim Oanh (2016), Bình
luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Nxb Hồng Đức.
Ngoài ra, các vấn đề liên quan đến đề tài giải quyết nguồn tin về tội phạm
cũng đã được nghiên cứu bởi tác giả Phan Thanh Tình (2018), Kiểm sát việc giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn
thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh và tác giả Nguyễn Minh
Tuấn (2019), Tiếp nhận, giải quyết tin báo về tội phạm của CQĐT theo Luật Tố
tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí
Minh. Tuy nhiên, nội dung nghiên cứu của luận văn chỉ nghiên cứu ở khía cạnh
cơng tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của VKS hoặc thẩm
quyền tiếp nhận, giải quyết của CQĐT dẫn đến việc đánh giá và phân tích các vấn

đề ở góc độ của một cơ quan có thẩm quyền THTT, chưa đánh giá toàn diện về giai
đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và chưa phân tích, đánh giá cụ thể các
quy định mới về tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm theo BLTTHS 2015.
Có thể nhận thấy, hoạt động giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố được nhiều chuyên gia pháp luật quan tâm, đặc biệt là những người
làm công tác chuyên môn tại các cơ quan như CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra và VKS. Một số bài viết được đăng tải trên
các tạp chí đã phản ánh điều này, bao gồm: Nguyễn Sơn, “Một số ý kiến về công
tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm”, Tạp chí Kiểm sát, số
15/2008; Nguyễn Duy Giảng, “Về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong
công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố
theo yêu cầu cải cách tư pháp”, Tạp chí Kiểm sát, số 18-20/2008; Lê Ra, “Cần
thống nhất nhận thức về các khái niệm tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi
tố và các nguồn thông tin về tội phạm”, Tạp chí Kiểm sát, số 20/2012; Nguyễn
Ánh Dương, “Kinh nghiệm và một số giải pháp nhằm quản lý và kiểm sát việc giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm có hiệu quả”, Tạp chí Kiểm sát, số 05/2014;
Phạm Văn Gịn, “Giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc


4
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm”, Tạp chí Kiểm sát, số 08/2014; Nguyễn
Đăng Khoa, “Kết quả một số kinh nghiệm trong kiểm sát việc giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm tại tỉnh Phú Thọ”, Tạp chí Kiểm sát, số 19/2017; Lê Huỳnh
Tấn Duy, Dương Quốc Nghĩa, “Hạn chế trong quy định của pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam về tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm”, Tạp chí Khoa
học pháp lý Việt Nam, số 02 (132)/2020.
Tuy nhiên, nội dung ở những bài báo khoa học được đăng tải trên các tạp chí
chuyên ngành chủ yếu được nghiên cứu ở khía cạnh liên quan đến cơng tác chun
mơn của các cơ quan có thẩm quyền THTT đối với giai đoạn tiếp nhận, giải quyết
nguồn tin về tội phạm. Mặc dù các bài viết có nêu ra những giải pháp nâng cao chất

lượng, hiệu quả trong giai đoạn tố giác, tin báo về tội phạm nhưng chưa thực sự đi
sâu vào các vấn đề lý luận về nguồn tin về tội phạm, cũng như chưa nêu thực trạng
trong hoạt động giải quyết nguồn tin về tội phạm mà cụ thể là quy định mới được
BLTTHS 2015 ghi nhận, đó là tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm.
Qua sự phân tích những kết quả nghiên cứu trên cho thấy chưa có cơng trình
khoa học nào nghiên cứu tồn diện và sâu sắc dưới góc độ làm sáng tỏ những vấn
đề lý luận về nguồn tin về tội phạm, tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm,
thực tiễn áp dụng pháp luật hiện hành trong hoạt động tạm đình chỉ nguồn tin về tội
phạm và giải pháp hoàn thiện pháp luật đối với quy định này. Chính vì vậy, tác giả
nhận thấy việc nghiên cứu đề tài “Tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm
theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý
luận, thực tiễn trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay, vừa đáp ứng tính mới
trong nghiên cứu khoa học.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu
Luận văn được thực hiện với mục đích tìm ra những hạn chế trong quy định
của pháp luật TTHS Việt Nam về tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm là
nguyên nhân dẫn đến khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn; từ đó đưa ra kiến nghị
hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ
nghiên cứu cụ thể sau:


5
- Phân tích, làm rõ một số vấn đề lý luận về tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin
về tội phạm;
- Đánh giá quy định của pháp luật TTHS hiện hành về tạm đình chỉ giải quyết
nguồn tin về tội phạm;
- Tìm hiểu thực tiễn tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm; chỉ ra

những vấn đề còn tồn tại và nguyên nhân;
- Đưa ra một số kiến nghị góp phần hồn thiện quy định của pháp luật về tạm
đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm và nâng cao hiệu quả thực hiện.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là các quy định của pháp luật
TTHS Việt Nam, tập trung vào BLTTHS 2015, về tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin
về tội phạm và thực tiễn thực hiện. Bên cạnh đó, luận văn cũng phân tích quy định
của các văn bản hướng dẫn thi hành.
Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn chỉ nghiên cứu quy định của pháp luật TTHS Việt
Nam về tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm. Những vấn đề khác có liên
quan trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự như căn cứ khởi tố, căn cứ khơng khởi tố
vụ án hình sự,… khơng thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn. Luận văn cũng
không nghiên cứu pháp luật quốc tế và pháp luật nước ngồi.
- Về khơng gian và thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy
định của pháp luật TTHS về tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm trên
phạm vi cả nước trong giai đoạn từ năm 2018 đến năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp
so sánh và tổng hợp, phương pháp nghiên cứu án điển hình, cụ thể như sau:
- Phương pháp thống kê: Trên cơ sở số liệu, tài liệu thu thập được, tác giả đã
thống kê số liệu khái quát liên quan đến công tác tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về
tội phạm; số liệu phản ánh tình hình tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm
trên phạm vi cả nước.


6
- Phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp là hai phương pháp chủ
đạo, được sử dụng để phân tích các vấn đề lý luận cũng như quy định của pháp luật

liên quan đến vấn đề tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm; tổng hợp, phân
tích các vấn đề pháp lý có liên quan. Ngồi ra, tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp
để tóm tắt nội dung của mỗi chương và đưa ra kết luận chung cho toàn luận văn.
- Phương pháp so sánh: Tác giả sử dụng phương pháp này để nghiên cứu tình
hình tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm (từ năm 2018 đến năm 2020),
nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự qua các thời kỳ liên quan đến quy định tạm
đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm.
- Phương pháp nghiên cứu án điển hình: Tác giả đã sử dụng để phân tích, tổng
hợp, đánh giá thực trạng tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm; xác định
nguyên nhân của những hạn chế trong thực tiễn.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là một tài liệu có giá trị cho những ai
muốn nghiên cứu, tìm hiểu sâu hơn về hoạt động giải quyết nguồn tin về tội phạm,
đặc biệt là hoạt động tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm. Q trình
nghiên cứu, tác giả sẽ phân tích và làm rõ trong đề tài những vấn đề lý luận và vấn
đề pháp lý về tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm. Bên cạnh đó, tác giả sẽ
chỉ ra những bất cập, nguyên nhân cũng như đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện
quy định của pháp luật về hoạt động. Do đó, nội dung của đề tài cịn là một cơ sở dữ
liệu có giá trị tham khảo, góp phần phổ biến kiến thức pháp lý cho sinh viên, học
viên, nhà nghiên cứu cũng như những người làm cơng tác thực tiễn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn được kết cấu như sau:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về
tội phạm.
Chương 2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về tạm đình chỉ giải quyết
nguồn tin về tội phạm
Chương 3. Thực tiễn tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm, giải
pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện.



7
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TẠM ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT
NGUỒN TIN VỀ TỘI PHẠM
1.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại nguồn tin về tội phạm
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của nguồn tin về tội phạm
- Khái niệm nguồn tin về tội phạm
“Nguồn tin” theo cách hiểu thông thường là nơi xuất phát thông tin, cung cấp
thông tin, là phương tiện chứa đựng thông tin. Căn cứ vào nơi xuất phát, nơi cung
cấp thông tin, người ta có thể xác định đâu là nguồn tin đáng tin cậy (Reliable
source of information) và đâu là những nguồn tin khơng có căn cứ (unreliable
source of information).
Khái niệm “tội phạm” được cụ thể hóa tại Điều 8 BLHS 2015 như sau: “Tội
phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do
người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phịng, an
ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền
con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác
của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử
lý hình sự.”
Vậy, nguồn tin về tội phạm có thể được hiểu một cách đơn giản đó là những
nơi xuất phát, phương tiện chứa đựng những thông tin chứa dấu hiệu tội phạm,
chứa các thông tin về hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS.
Để bắt đầu một mối quan hệ tố tụng hình sự thơng thường đều phải bắt đầu từ
những thơng tin có chứa dấu hiệu tội phạm. Những thông tin này phải là những
thông tin chính thức, có cơ sở và nguồn gốc rõ ràng. Nguồn gốc rõ ràng có nghĩa
là những thơng tin này phải có nguồn gốc xuất phát từ những nguồn tin về tội
phạm mà pháp luật đã quy định sẵn, đây là điều kiện bắt buộc để phân biệt sự khác

nhau giữa những thông tin thông thường trong cuộc sống hàng ngày và những
thông tin mang dấu hiệu tội phạm.
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, nguồn tin về tội phạm
bao gồm: Tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của cơ quan, tổ chức, cá


8
nhân, lời khai của người phạm tội tự thú và thơng tin về tội phạm do cơ quan có
thẩm quyền THTT trực tiếp phát hiện2. Theo đó, BLTTHS hiện hành phân loại
nguồn tin thành năm loại khác nhau, dựa vào năm nguồn tin về tội phạm này, cơ
quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự tiến hành xác minh nhằm xác định có hay
khơng dấu hiệu của tội phạm để ban hành quyết định tố tụng hình sự và cũng chỉ
dựa trên năm loại nguồn tin này thì các cơ quan có thẩm quyền THTT mới tiếp
nhận, tiến hành xác minh giải quyết.
- Đặc điểm của nguồn tin về tội phạm
Đặc điểm của nguồn tin về tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng, nắm rõ được
đặc điểm của nguồn tin về tội phạm là cơ sở để xác định phạm vi, giới hạn của việc
tiếp nhận, phân loại và xử lý nguồn tin về tội phạm, là cơ sở xác định rõ chủ thể có
quyền cung cấp và chủ thể có thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội
phạm. Qua phân tích khái niệm của từng loại nguồn tin, có thể kết luận rằng nguồn
tin về tội phạm có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, nguồn tin về tội phạm mang đặc điểm về pháp lý. Như đã phân
tích, chỉ có những nguồn tin chứa dấu hiệu tội phạm được BLTTHS quy định là căn
cứ để khởi tố vụ án hình sự thì những nguồn tin này mới được xem là cơ sở để bắt
đầu một quá trình tố tụng. Điều 143 BLTTHS 2015 quy định về căn cứ khởi tố vụ
án hình sự, việc xác định một vụ việc có dấu hiệu tội phạm hay không phải dựa trên
việc kiểm tra, xác minh từ những nguồn tin nhất định, cụ thể: Tố giác của cá nhân;
Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân; Tin báo trên phương tiện thông tin đại
chúng; Kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước; cơ quan có thẩm quyền THTT trực
tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm; Người phạm tội tự thú.

Ngoài việc được BLTTHS ghi nhận là căn cứ để khởi tố vụ án hình sự thì
một đặc điểm khác cũng góp phần thể hiện nguồn tin về tội phạm mang đặc điểm
pháp lý, đó chính là chỉ những nguồn tin chứa đựng những thông tin liên quan đến
một hay nhiều hành vi mà theo đó, nếu những hành vi này thỏa mãn các yếu tố cấu
thành tội phạm do BLHS quy định thì được xem là vi phạm pháp luật hình sự, khi
đó nguồn tin mới được xem là có chứa đựng những thơng tin liên quan đến dấu hiệu
tội phạm. Bên cạnh đó, đặc điểm pháp lý của nguồn tin về tội phạm còn thể hiện
qua quá trình tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm phải tuân theo một quy
2

Điểm d khoản 1 Điều 4 BLTTHS 2015.


9
trình tố tụng nhất định mà BLTTHS đã quy định, những hoạt động của các cơ quan
có thẩm quyền THTT khi giải quyết nguồn tin về tội phạm phải thực hiện theo
khuôn khổ của pháp luật về phạm vi, thời hạn và trình tự, thủ tục giải quyết.
Thứ hai, nguồn tin về tội phạm thường là những thông tin cơ bản và chưa
hoàn thiện về nội dung. Như chúng ta đã biết, nguồn tin về tội phạm chủ yếu do
người dân, các cơ quan, tổ chức khơng có chun mơn về pháp luật cung cấp (thơng
qua hình thức đơn tố giác, điện thoại,…) cho cơ quan có thẩm quyền để tiếp nhận
giải quyết, do đó khi mới tiếp nhận thì những thơng tin này thường mang tính bao
qt, khơng rõ ràng, thiếu chính xác và khơng đầy đủ các thơng tin cần thiết để xác
định vụ việc có dấu hiệu tội phạm hay khơng. Rất ít trường hợp các CQĐT, VKS ra
quyết định khởi tố vụ án hình sự ngay từ khi mới tiếp nhận thông tin ban đầu về
nguồn tin tội phạm do những thông tin ban đầu chưa qua quá trình xác minh, làm rõ
sự việc nên chưa đủ căn cứ để ban hành quyết định tố tụng. Ngồi ra, tin báo trên
phương tiện thơng tin đại chúng xuất hiện rất nhiều và việc xác minh tính chính xác
của những nguồn tin này cịn rất hạn chế, ví dụ việc xác minh danh tính của người
cung cấp tin, lý do vì sao họ biết được và biết được trong hoàn cảnh nào, điều kiện

nào,…hầu hết thực tế nhiều người dân có tâm lý lo sợ bị các đối tượng phạm tội đe
dọa hoặc trả thù nên họ thường che giấu danh tính, tên tuổi khi cung cấp thơng tin
về tội phạm, dẫn đến việc xác minh nguồn tin về tội phạm trong giai đoạn này cịn
gặp nhiều khó khăn. Chính vì vậy, nguồn tin về tội phạm cịn mang đặc điểm là
những thơng tin ban đầu mang tính sơ khai, chưa cụ thể, rõ ràng và chưa đủ cơ sở
để ban hành một quyết định tố tụng hình sự, cần phải có thời gian để tiến hành các
hoạt động xác minh cần thiết để làm rõ dấu hiệu tội phạm trong nguồn tin.
Thứ ba, nguồn tin về tội phạm mang tính phong phú, đa dạng. BLTTHS trao
trách nhiệm thực hiện hoạt động tố giác, tin báo về tội phạm cho mọi cá nhân (cơng
dân, người nước ngồi,…) và các cơ quan, tổ chức trong xã hội. Do vậy thực tế tiếp
nhận nguồn tin về tội phạm rất đa dạng về chủ thể cung cấp thông tin. Bên cạnh đó,
nguồn tin về tội phạm cũng đa dạng về nội dung, đối với những nguồn tin về tội
phạm ở những lĩnh vực khác nhau thì sẽ chứa đựng những nội dung khác nhau; đa
dạng về đối tượng thực hiện hành vi, thời gian, địa điểm xảy ra hành vi,… Ngoài ra,
chủ thể có thẩm quyền tiếp nhận nguồn tin về tội phạm tương đối rộng, bao gồm
CQĐT, VKS là những cơ quan vừa có thẩm quyền tiếp nhận, vừa có thẩm quyền
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì các cơ quan khác như


10
Công an xã, phường, thị trấn, đồn, trạm Công an, cơ quan báo chí, các cơ quan, tổ
chức khác chỉ có thẩm quyền tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố. Pháp luật quy định đa dạng các cơ quan, tổ chức như trên tạo thành một
mạng lưới tiếp nhận nguồn tin về tội phạm chặt chẽ, nhằm tạo điều kiện thuận lợi
cho người dân tố giác và báo tin kịp thời, phát hiện, ngăn chặn tội phạm và hạn chế
tình trạng bỏ lọt tội phạm.
Thứ tư, nguồn tin về tội phạm mang tính thời sự. Tính thời sự là những
thơng tin cịn mới mẻ, được nhiều người chú ý quan tâm. Trong xã hội hiện nay,
khoa học công nghệ và phương tiện truyền thông rất phát triển, do vậy khi xảy ra
vụ việc có dấu hiệu phạm tội gây bức xúc trong dư luận thì những thơng tin ban

đầu ln trở thành những thơng tin “nóng” và mang tính thời sự cao, được dư luận
quan tâm. Đặc biệt là những hành vi phạm tội với những thủ đoạn mới, tinh vi
hoặc những hành vi phạm tội có tính chất dã man, man rợ gây xơn xao, bức xúc
trong dư luận. Đồng thời, tính thời sự của nguồn tin còn thể hiện qua khoảng thời
gian chuyển tiếp những thơng tin ban đầu có dấu hiệu tội phạm đến cơ quan chức
năng phải đảm báo nhanh chóng, kịp thời thực hiện các hoạt động xác minh ban
đầu để đáp ứng yêu cầu về tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm được chính
xác và có căn cứ.
1.1.2. Phân loại nguồn tin về tội phạm
Dựa vào các quan điểm và mục đích khác nhau, nguồn tin về tội phạm có thể
được phân loại bằng nhiều hình thức sau đây:
Căn cứ vào việc tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội theo Điều
9 BLHS 2015, người ta có thể chia nguồn tin về tội phạm theo hành vi ít nghiêm
trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiệm trọng. Tuy nhiên, ở giai
đoạn tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì những thơng tin vụ việc cịn
rất sơ sài và mờ nhạt, rất khó để xác định hành vi có dấu hiệu tội phạm hay khơng
và nếu đã cấu thành thì thuộc loại tội phạm nào theo Điều 9 của BLHS. Do vậy, cơ
quan có thẩm quyền THTT khơng nên dựa vào cách phân loại trên trong thực tiễn.
Căn cứ vào tính chất phức tạp của sự việc phạm tội, nguồn tin về tội phạm có
thể được phân loại thành nguồn tin về tội phạm đơn giản và nguồn tin về tội phạm
phức tạp. Nguồn tin về tội phạm đơn giản là những nguồn tin có nội dung cần xác
minh đơn giản, rõ ràng và thời gian xác minh ngắn. Ngược lại, với những nguồn tin


11
có nhiều hơn một hành vi vi phạm pháp luật hình sự, xảy ra tại nhiều địa điểm, thời
gian khác nhau hoặc do nhiều đối tượng cùng tham gia thực hiện tội phạm thì cần
thời gian xác minh lâu hơn, đây là những nguồn tin về tội phạm có nhiều tình tiết
xác minh, phức tạp hơn.
Căn cứ vào khách thể mà BLHS bảo vệ, nguồn tin về tội phạm có thể được phân

chia thành nguồn tin về tội phạm xâm phạm lĩnh vực an ninh quốc gia; nguồn tin về tội
phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; nguồn tin về tội phạm
xâm phạm sở hữu; nguồn tin về tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế,…
Căn cứ vào chủ thể thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, nguồn tin về tội
phạm được chia thành hai loại, đó là nguồn tin về tội phạm do cá nhân thực hiện hành
vi phạm tội và nguồn tin về tội phạm do pháp nhân thực hiện hành vi phạm tội.
Căn cứ theo quy định Điều 143 BLTTHS hiện hành, nguồn tin về tội phạm
có thể được phân chia thành các loại sau:
 Tố giác của cá nhân;
 Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
 Tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng;
 Kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước;
 Cơ quan có thẩm quyền THTT trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm;
 Người phạm tội tự thú.
Cách phân loại nguồn tin về tội phạm theo BLTTHS hiện hành là hoàn toàn
hợp lý trong tất cả các cách thức phân loại đã phân tích ở trên, đã bao quát tương
đối đầy đủ các chủ thể có quyền cung cấp thơng tin có dấu hiệu tội phạm, từ cá
nhân đến cơ quan, tổ chức đều có quyền cung cấp nguồn tin về tội phạm nhằm tăng
cường cơng tác đấu tranh phịng chống tội phạm, tránh bỏ lọt tội phạm và xử lý kịp
thời các hành vi vi phạm pháp luật hình sự, tạo điều kiện cho mọi cá nhân, tổ chức
có quyền, nghĩa vụ phản ánh thông tin về tội phạm. Việc nhận thức đúng đắn những
khái niệm, đặc điểm và phân loại nguồn tin về tội phạm có ý nghĩa cả trên phương
diện lý luận và trên phương diện thực tiễn, điều này khơng chỉ góp phần làm hồn
thiện hơn về lý luận nguồn tin về tội phạm mà còn góp phần giải quyết nguồn tin về
tội phạm có hiệu quả, chất lượng hơn so với trước đây.


12
- Tố giác về tội phạm
Theo từ điển Tiếng Việt, “tố giác” là một động từ ám chỉ hành động “báo

cho cơ quan chính quyền biết người hoặc hành động phạm pháp nào đó”3. Hiểu
đơn giản, “tố giác về tội phạm” là một hành động của cá nhân khi phát hiện các
hành vi có dấu hiệu tội phạm và tố cáo hành vi đó trước cơ quan pháp luật.
Theo Điều 144 BLTTHS 2015 có quy định khái niệm về “tố giác về tội
phạm” như sau: “Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có
dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền”. Như vậy, tố giác về tội phạm là
việc cá nhân trình báo và mang thơng tin cho cơ quan có thẩm quyền biết một hành
động vi phạm pháp luật hình sự mà họ biết với cơ quan, tổ chức. So với “tố cáo”,
“tố giác về tội phạm” có nhiều điểm khác biệt, tuy nhiên chúng ta lại thường nhầm
lẫn giữa hai khái niệm này.
“Tố cáo” là vạch trần hành động xấu xa, phạm pháp hay tội ác trước cơ
quan có thẩm quyền hoặc trước dư luận4. Khoản 1 Điều 2 Luật tố cáo năm 2018
quy định: “1. Tố cáo là việc cá nhân theo thủ tục quy định của Luật này báo cho
cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của
bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.”
Qua phân tích các khái niệm của “tố cáo”, có thể nhận thấy rằng “tố cáo” có
nội hàm rộng hơn và bao hàm ln cả “tố giác về tội phạm”. “Tố giác về tội phạm”
chỉ bao gồm những hành vi vi phạm pháp luật có thể cấu thành tội phạm đã được
quy định trong BLHS, cịn tố cáo có thể là tất cả những hành vi vi phạm pháp luật
trong nhiều ngành luật khác nhau, ví dụ Luật hành chính, Luật dân sự, Luật hình
sự,… Bên cạnh đó, tố giác về tội phạm vừa là quyền, vừa nghĩa vụ của cá nhân nếu
phát hiện một hành vi vi phạm pháp luật hình sự hoặc đối tượng thực hiện hành vi
có dấu hiệu phạm tội. Tố cáo thì khơng hồn tồn bắt buộc người phát hiện hành vi
vi phạm pháp luật phải tố cáo hành vi đó với cơ quan có thẩm quyền. Cơng dân có
quyền tố cáo hay không tố cáo một hành vi vi phạm pháp luật nhưng nếu đó là hành
vi vi phạm pháp luật hình sự thì phải có nghĩa vụ tố giác hành vi có dấu hiệu tội
phạm đó với cơ quan có thẩm quyền. Nếu cơng dân phát hiện hành vi vi phạm pháp

3

4

Từ điển Tiếng Việt thông dụng (2015), Nxb Hồng Đức, tr. 965.
Từ điển Tiếng Việt thông dụng (2015), tlđd (3), tr 965.


13
luật hình sự nhưng khơng tố giác thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
“Khơng tố giác tội phạm” theo Điều 390 BLHS 2015.
Về hình thức tiếp nhận, tố giác có thể bằng lời nói (qua điện thoại, gặp trực
tiếp,…) hoặc qua thư, văn bản5. Đối với trường hợp công dân tố giác tội phạm
bằng lời nói thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản tiếp nhận. Biên bản
tiếp nhận tố giác tội phạm của công dân được lập theo quy định tại Điều 133
BLTTHS 2015. Cá nhân tố giác tội phạm được giải thích về trách nhiệm của mình
đối với những thơng tin đã tố giác, biên bản phải ghi rõ nội dung tố giác và phản
ánh rõ nguồn gốc thông tin về tội phạm mà người tố giác biết được, đồng thời biên
bản phải được cá nhân tố giác ký tên xác nhận. Đối với trường hợp khi cơ quan, tổ
chức nhận được thơng tin tố giác qua điện thoại thì Luật chưa có quy định cụ thể
về cách thức tiếp nhận, tuy nhiên khi tiếp nhận những nguồn tin về tội phạm như
vậy thì các cơ quan chức năng phải kiểm tra, ghi nhận số điện thoại, tên tuổi và
địa chỉ người tố giác, hạn chế tình trạng tố giác nặc danh khơng có cơ sở giải
quyết. Nếu cá nhân cố ý tố giác sai sự thật thì tùy tính chất mức độ vi phạm mà sẽ
bị xử lý theo từng mức độ6.
- Tin báo về tội phạm
Theo từ điển Tiếng Việt, “tin” là điều được truyền đi, báo cho biết về sự việc,
tình hình xảy ra7. “Tin” có nghĩa là thông tin.
“Báo” là động từ cho biết một điều gì đó đã xảy ra, cho người có trách nhiệm
biết về việc xảy ra có thể hại đến trật tự an ninh chung8.
Từ những phân tích các khái niệm trên, “tin báo về tội phạm” là việc các
cơ quan, tổ chức báo tin hoặc đăng tin có nội dung phản ánh về tội phạm xảy ra

cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo quy định của BLTTHS. Theo quy
định pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, Khoản 2 Điều 144 BLTTHS 2015 đã
quy định khái niệm về “tin báo về tội phạm” như sau: “Tin báo về tội phạm là
thơng tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thông
báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thơng tin về tội phạm trên phương tiện
thông tin đại chúng”.
Khoản 4 Điều 144 BLTTHS 2015.
Khoản 5 Điều 144 BLTTHS 2015.
7
Từ điển Tiếng Việt thông dụng (2015), tlđd (3), tr. 958.
8
Từ điển Tiếng Việt thông dụng (2015), tlđd (3), tr. 54.
5
6



×