Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

(Tiểu luận) phân tích những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng theo anhchị, làm thế nào để thực hiện có hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.74 KB, 14 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

TIỂU LUẬN
Phương pháp nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng

Người thực hiện: Lê Thị Thùy
Ngày tháng năm sinh: 03/07/1999
Số báo danh : 41
Lớp: NVSP tiếng anh THCS/THPT K04.2022
TRƯỜNG ĐHSP HÀ NỘI 2

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM

VIỆN NGHIÊN CỨU SƯ PHẠM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

ĐỀ THU HOẠCH
Học phần: Nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng
Dành cho: NVSP Tiếng Anh
Hình thức thi: Viết tiểu luận ( đánh máy in ra)


Câu 1: Phân tích những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện nghiên cứu khoa
học sư phạm ứng dụng? Theo anh/chị, làm thế nào để thực hiện có hiệu quả
hoạt động nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng ở trường Trung học?

Câu 2: Anh/chị hãy lập đề cương nghiên cứu khoa học sư phạm ứng
dụng ở cho một đề tài cụ thể (tự chọn đề tài, đề tài thuộc chuyên
môn Tiếng Anh ở THCS/THPT).


--------Hết------------


1. Đặt vấn đề
Sự nghiệp giáo dục nước ta đang bước vào giai đoạn đổi mới mang tính
quyết định: Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng nâng cao
chất lượng, chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong bối cảnh đó, hoạt động nghiên cứu khoa học giáo dục ngày càng có vai trị
quan trọng trong thực hiện những mục tiêu giáo dục đào tạo theo yêu cầu đổi mới
giáo dục. Đặc biệt, việc nâng cao năng lực nghiên cứu, ứng dụng khoa học giáo dục
cho giáo viên THPT là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn mang tính bức thiết vì vai trị, vị
thế của bậc học này trong tiến hành đổi mới căn bản toàn diện giáo dục hiện nay.

Vậy nghiên cứu khoa học là gì?
Nghiên cứu khoa học (NCKH) là một họat động tìm tịi, khám phá, thử nghiệm. Dựa
trên những số liệu, tài liệu, kiến thức,... đạt được từ các thí nghiệm NCKH để phát
hiện ra những cái mới về bản chất sự vật, về thế giới tự nhiên và xã hội, và để sáng
tạo phương pháp và phương tiện kỹ thuật mới cao hơn, giá trị hơn.

Nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng (NCKHSPƯD) được hiểu là một
loại hình nghiên cứu trong giáo dục nhằm thực hiện một tác động hoặc can
thiệp sư phạm và đánh giá ảnh hưởng của nó. Tác động hoặc can thiệp đó
có thể là việc sử dụng phương pháp dạy học, sách giáo khoa, phương
pháp quản lí, chính sách mới… của giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục.
Người nghiên cứu (giáo viên, cán bộ quản lí) đánh giá ảnh hưởng của tác
động một cách có hệ thống bằng phương pháp nghiên cứu phù hợp.
2.

Những thuận lợi khi thực hiện nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng Hoạt


động nghiên cứu khoa học chịu ảnh hưởng, tác động của nhiều yếu tố khác nhau,
nhất là môi trường nghiên cứu, các cơ chế chính sách về nghiên cứu và chất lượng
nguồn nhân lực hoạt động trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học.


Trong gần 20 năm qua, hoạt động nghiên cứu khoa học giáo dục ở nước
ta có một số thuận lợi cơ bản.
- Nghị quyết Trung ương 2 (Khóa VIII) năm 1996 của Đảng xác định việc phát triển
khoa học công nghệ và giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu. Đó là thuận lợi lớn
mở đường cho các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ ở nước ta
nói chung và khoa học giáo dục nói riêng được quan tâm đầu tư và đẩy mạnh.

- Luật Khoa học và Công nghệ được Quốc hội thông qua và ban hành năm
2013 đã góp phần to lớn cho việc hình thành mơi trường pháp lý nhằm phát
triển các cơ chế chính sách thúc đẩy, khuyến khích nghiên cứu khoa học.
- Công tác nghiên cứu khoa học giáo dục được mở rộng trong ngành từ đại học
cho đến các trường phổ thông. Nghiên cứu khoa học đã trở thành nhiệm vụ bắt
buộc đối với giảng viên các trường đại học, cao đẳng, giáo viên các trường
trung cấp. Nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng là nhiệm vụ thường xuyên
của giáo viên các cấp học trong trường phổ thông và được đưa vào tổ chức
quản lý trong nhà trường tư thục. Ngồi ra học sinh phổ thơng (từ cấp Trung
học cơ sở trở lên) còn được hướng dẫn và khuyến khích thực hiện các chương
trình trải nghiệm khoa học kỹ thuật với các hội thi toàn quốc tổ chức hàng năm.

3. Những khó khăn khi thực hiện nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng
Trong quá trình NCKHSPƯD ở trường THCS/THPT, GV gặp một số khó
khăn sau đây:
- Điều kiện thực nghiệm
Đối với cách tổ chức và quản lí dạy học hiện nay, việc tạo ra các nhóm thực

nghiệm và đối chứng để thu thập dữ liệu trong quá trình thực nghiệm là điều
khó thực hiện. Để khắc phục, lời khuyên cho các GV là phải tận dụng và thuyết
phục sự hỗ trợ tạo điều kiện từ Ban Giám hiệu và tổ chun mơn để có thể trộn
HS các lớp và phân chia ngẫu nhiên. Sau đó tiến hành thực nghiệm trong một
khoảng thời gian không quá dài để không làm xáo trộn và ảnh hưởng quá lớn
đến quá trình quản lý và chỉ đạo của nhà trường.

- Khó khăn khi tiến hành thu thập dữ liệu


Thơng thường GV có thêm nhiều năng lực khi thu thập các dữ liệu về kiến thức. Đó
là việc thiết kế các bài kiểm tra hoặc sử dụng các bài thi, bài kiểm tra đã có. Đối với
các dữ liệu về kĩ năng và thái độ, cần phải có các chuyên gia, các nhà nghiên cứu
chuyên nghiệp thiết kế công cụ đo. Đồng thời, cơng cụ đo đó phải được kiểm chứng
kĩ lưỡng trước khi dùng để tiến hành thực nghiệm, GV gặp rất nhiều khó khăn khi
tiến hành thiết kế các thang đo hay bảng kiểm quan sát. Để khắc phục khó khăn này,
lời khuyên cho những người tiến hành NCKHSPUD là hãy tham khảo và điều chỉnh
các thang đo, bảng kiểm quan sát có sẵn từ các nghiên cứu khác hoặc trên mạng
internet) sao cho phù hợp với yêu cầu nghiên cứu của mình. Nếu làm việc này, GV
chú ý cần phải đảm bảo các yếu tố về bản quyền, Khi người thực hiện NCKHSPUD
tự xây dựng công cụ đo, phải đảm bảo số mẫu thử nghiệm trước khi sử dụng trong
các nghiên cứu chính thức.

- Khó khăn về việc sử dụng máy tính khi phân tích và so sánh dữ liệu thu
thập được.
Thực tế hiện nay, GV THCS/THPT gặp rất nhiều khó khăn trong khi sử dụng phần
mềm Excel của máy tính để xử lí các số liệu thu thập được. Do hạn chế về năng lực
ngoại ngữ, tin học nên GV ngại tiếp cận với công nghệ, phần mềm ứng dụng hỗ trợ
cho hoạt động NCKHSPƯ. Tuy nhiên, chúng ta cũng không nên quá lo lắng vì lí
thuyết NCKHSPUD đã giới thiệu rõ ràng các hàm tính tốn cho mọi u cầu thống kê

cần làm. Điều quan trọng là người thực hiện NCKHSPUD hiểu ý nghĩa của mỗi tham
số thống kê cần tìm và có thể nhờ đồng nghiệp hoặc người thân sử dụng máy tính
và áp dụng cơng thức tính tốn đó để đưa cho ta tham số cần tìm.

-

Ngồi ra, nhiều giáo viên THPT than phiền: Hội họp, sổ sách của giáo

viên THPT hiện nay q nhiều khơng có đủ thời gian để tự học, tự nghiên
cứu…Nhiều tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long có nhiều giáo viên xứng
đáng là nhà giáo ưu tú nhưng vì khơng có cơng trình nghiên cứu nên
khơng đạt. Một số tỉnh khơng có nhà giáo nhân dân trong hàng chục năm
liền. Có trường tư thục THPT có nhiều giáo viên có trình độ thạc sĩ nhưng
số thạc sĩ có cơng trình nghiên cứu chưa tới 10% bình qn hàng năm.


3. Làm thế nào để thực hiện có hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học
sư phạm ứng dụng ở trường trung học
Để thực hiện có hiệu quả hoạt động NCKHSPUD ở trường trung học, cần
phải có sự quan tâm và hỗ trợ của rất nhiều phía, cũng như sự cố gắng
của bản thân GV tham gia hoạt động NCKHSPUD.
a) Về phía Ban giám hiệu nhà trường
Ra cơng văn thơng báo về kế hoạch nghiên cứu khoa học tới toàn thể cán bộ, GV
trong nhà trường. Trong công văn thông báo phải nêu rõ lí do và mục đích của việc
triển khai hoạt động NCKHSPƯD, định hướng các nội dung, vấn đề cần được
nghiên cứu, thời hạn bắt đầu và thời hạn kết thúc, những yêu cầu cần đạt, những
vấn đề về kinh phí, cơ sở vật chất, phân cơng nhiệm vụ cho các cá nhân liên quan...

b) Về phía cá nhân/nhóm thực hiện đề tài nghiên
cứu - Đăng kí đề tài nghiên cứu với nhà trường.


- Thực hiện các hoạt động nghiên cứu: tìm đọc tài liệu, thu thập dữ liệu,
phân tích dữ liệu, seminar, viết báo cáo, trình bày và trao đổi kết quả...
Trong quá trình thực hiện đề tài NCKHSPƯD, GV/người thực hiện cần lưu
ý những vấn đề sau:
+ Xác định cách tiếp cận nghiên cứu: Người thực hiện đề tài nghiên cứu cần cho
thấy thế giới quan hay những quan điểm chính, tư tưởng chính của bản thân về vấn
đề nghiên cứu, từ đó xác định được cách tiếp cận nghiên cứu phù hợp.

+ Tổng quan về vấn đề nghiên cứu: Người thực hiện đề tài nghiên cứu cần cho
thấy đề tài mình theo đuổi là có ý nghĩa, có nhiều đóng góp cho hoạt động giáo
dục, dạy học đối với nhà trường nói riêng và đối với giáo dục THCS/THPT nói
chung. Trong khi tìm hiểu về vấn đề nghiên cứu, người thực hiện cần làm rõ
các khái niệm then chốt, những gì đã biết, đã được tìm hiểu liên quan đến vấn
đề nghiên cứu và những gì cịn đang bị bỏ ngỏ, cần tiếp tục được nghiên cứu,
tìm hiểu, qua đó làm nổi bật lên ý nghĩa của việc thực hiện đề tài nghiên cứu.

+ Xác định phương pháp nghiên cứu
Trong giáo dục học, phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng thường xuyên
được sử dụng trong quá trình thực hiện các đề tài nghiên cứu, Phương pháp nghiên


cứu định lượng thường được thực hiện gắn liền với hoạt động điều tra bằng bảng
hỏi với việc sử dụng các câu hỏi đóng dựa trên thang đo nào đó. Phương pháp này
có ưu điểm là có thể tiếp cận được một số lượng lớn đối tượng nghiên cứu cần
hướng đến. Việc xử lý số liệu đòi hỏi cần đến những hoạt động thống kê hoặc dùng
những hình vẽ, sơ đồ. Phương pháp nghiên cứu định tính khá đa dạng, có thể cũng
là điều tra bằng bảng hỏi nhưng với những câu hỏi dạng mở, có thể là hoạt động dự
giờ, quan sát, hoạt động phỏng vấn, hoạt động trao đổi với chuyên gia, hoặc cũng có
thể là hoạt động phân tích tài liệu dựa trên những nguồn tài liệu đáng tin cậy.


Phương pháp nghiên cứu định lượng và định tính có thể được sử dụng
độc lập và cũng có thể được sử dụng phối hợp nhằm làm tăng cường tính
tin cậy của các dữ liệu thu thập được.

Câu 2: Anh/chị hãy lập đề cương nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng ở
cho một đề tài cụ thể (tự chọn đề tài, đề tài thuộc chuyên môn Tiếng Anh ở

THCS/THPT).
Nghiên cứu phương pháp phát triển kĩ năng nói cho học sinh THCS/THPT
I.

Đặt vấn đề
Có thể nói, vấn đề học tiếng Anh đang là vấn đề nóng đang được xã hội

quan tâm. Mọi người hầu hết ai cũng biết tiếng Anh rất quan trọng trong đời
sống của chúng ta, nhất là trong giai đoạn hiện nay bởi tiếng Anh là một ngôn
ngữ quốc tế được dùng để giao tiếp. Tuy nhiên, khơng phải ai cũng đều có
nhận thức như thế, đặc biệt là học sinh phổ thông ở các vùng xa, vùng quê như
học sinh của chúng ta, có mấy em nhận thức được rằng mình học ngoại ngữ
dùng để giao tiếp trước tình hình đó, giáo viên dạy mơn Tiếng Anh cần phải chú
trọng việc đổi mới phương pháp, đặc biệt là chú trọng đến việc làm thế nào để
cho học sinh cấp THCS và THPT có được một khái niệm cơ bản cho mơn nói,
hay nói cách khác là các em phải biết được những câu nói giao tiếp đơn giản.


- Mặt khác, ngày nay người ta không dạy tiếng Anh một cách đơn thuần, mà còn sử
dụng tiếng Anh như một công cụ chuyển tải kiến thức cho các mơn học khác như
tốn, khoa học. Nhiều nước đã đưa tiếng Anh vào chương trình giáo dục như vậy
cần coi trọng tiếng Anh bậc tiểu học bởi được tiếp cận với tiếng Anh ở độ tuổi càng

nhỏ thì hiệu quả càng cao. Ngoài ra, một lý do cá nhân khiến tôi chọn bậc THCS và
THPT để nghiên cứu về phương pháp giảng dạy là tôi thấy lứa tuổi này các em cần
phát triển kỹ năng nói để cân bằng với các kỹ năng khác.

II.

Mục tiêu

Tôi nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích rút ra kinh nghiệm để có thể áp dụng
ở trường chúng tôi và một số trường trong thành phố với mục đích cuối cùng là
giúp học sinh tự tin nói Tiếng Anh. Từ đó nhằm góp phần hoàn thiện, bổ sung
và nâng cao kiến thức cho học sinh theo phương pháp học tập tích cực, cải tiến
phương pháp mới trong quá trình dạy Tiếng Anh cấp Trung học. Bên cạnh đó
với một mong muốn giúp giáo viên có một số phương pháp trong việc huy động
học sinh tham gia các hoạt động giao tiếp trên lớp nhằm đáp được yêu cầu về
đổi mới phương pháp, hướng học sinh vào đúng trọng tâm yêu cầu của từng
tiết học và thu hút học sinh trong quá học tập, đem lại hiệu quả cao.

III.

Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của dự án khoa học là học sinh lớp 10 và lớp 11 đang
học chương trình tiếng Anh hệ 7 và 10 năm của trường THPT Yên Hòa.
- Khách thể nghiên cứu của đề tài là tính hiệu quả của việc dạy và học kỹ năng nói
tiếng Anh qua các tình huống cụ thể và các dự án thực tế của học sinh khối lớp 10 và
lớp 11 đang học chương trình tiếng Anh hệ 7 và 10 năm của trường THPT

Ba phương pháp chính mà người thực hiện đề tài nghiên cứu sử dụng để
tiến hành nghiên cứu là phương pháp thu thập dữ liệu, phương pháp quan

sát khoa học và phương pháp phân tích tổng hợp.
1. Phương pháp thu thập dữ liệu:


Tôi thu thập dữ liệu thông qua các bài nghiên cứu được đăng trên báo, tạp
chí hoặc trên một số trang Internet uy tín cũng như những cơng trình
nghiên cứu khác được công bố về việc học tiếng Anh, một số báo cáo của
các ban ngành, cơ quan chức năng và các nguồn tài liệu từ sách về tình
hình học tập tiếng Anh của học sinh và sinh viên.
2. Phương pháp quan sát khoa học:
Tơi tiến hành quan sát tình hình học tập bộ mơn tiếng Anh tại trường THPT
n Hòa bắt đầu từ tháng 2 năm 2022 (đầu học kỳ 2 năm học 2021-2022).
Quá trình quan sát khoa học diễn ra theo 2 hình thức sau:
- Quan sát trực tiếp thái độ học tập bộ môn tiếng Anh của học sinh: việc quan
sát dựa trên mức độ tham gia đóng góp bài của học sinh vào bài giảng của giáo
viên. Tôi thực hiện phỏng vấn những giáo viên giảng dạy tiếng Anh trong tổ tại
trường trong năm học 2021-2022. Kết quả cho thấy, trung bình 56% tổng số
học sinh lớp cảm thấy thích học tiếng Anh vì học sinh hiểu bài, có thể giao tiếp
một vài câu thơng dụng, giáo viên đứng lớp dạy dễ hiểu và tiết học vui nhộn.
44% cịn lại ít phát biểu hoặc khơng phát biểu vì khơng hiểu hoặc hiểu nhưng
khơng muốn phát biểu vì khơng có đủ vốn từ để trình bày ý kiến.

- Quan sát gián tiếp phương pháp học tiếng Anh của học sinh: cách quan
sát này được thực hiện dựa trên việc phỏng vấn 30 học sinh của khối 10
năm học 2021-2022. Kết quả cho thấy 90% học sinh đều hiểu bài, biết
cách viết các cách diễn đạt ý bằng tiếng anh. Tuy nhiên, chỉ có 30% học
sinh có thể nói ra trơi chảy và diễn đạt ý tự nhiên khi giao tiếp
3. Phương pháp phân tích tổng hợp:
- Tơi tiến hành phát phiểu khảo sát lần 1 vào ngày 3 tháng 9 năm 2021 cho 120 học
sinh, 90 học sinh khối 10 và 30 học sinh khối 11 năm học 2021-2022 để xác định

phạm vi ứng dụng kỹ năng nói của các em. Phiếu khảo sát được thu về được tổng
hợp, phân loại, và thống kế để đánh giá sơ bộ về độ phản xạ của học sinh.

4. Thiết kế nghiên cứu:
- Tôi chọn 3 lớp 10A1, 10A2 và 11A1 có số lượng học sinh lần lượt là 48,
42 và 30 để nghiên cứu và phân tích. Trong đó:


+ Đối tượng học sinh đang học chương trình tiếng Anh hệ 10 năm: lớp 10A1
+ Đối tượng học sinh đang học chương trình tiếng Anh hệ 7 năm: lớp 10A2 và 11A1.

+ Đối tượng học sinh được tác động: 10A1 và 10A2
+ Đối tượng học sinh không được tác động: 11A1
- Tôi dùng kết quả bài kiểm tra 1 tiết lần 1, lần 2, kết quả học kỳ 1 năm học
2021-2022 môn tiếng Anh và phiếu khảo sát để đánh giá hiệu quả của nghiên
cứu và chứng tỏ nghiên cứu có ý nghĩa qua sự cải thiện điểm số, tỉ lệ học sinh
từ trung bình trở lên và dưới trung bình cũng như thay đổi thái độ, nhận thức
của học sinh đối với bộ môn tiếng Anh và phương pháp học nói tiếng Anh này.

V.

Một số phương pháp phát triển kỹ năng nói Tiếng Anh cho học sinh
trung học:

a. Các hoạt động dạy học phải phù hợp với trình độ nhận thức của từng
đối tượng học sinh và cụ thể là phải phù hợp với từng học sinh
Trong lớp học đều có đầy đủ trình độ học sinh. Những học sinh khá, giỏi đương
nhiên sẽ tiếp thu bài nhanh hơn những học sinh yếu kém. Vì vậy, nếu các trò
chơi vận động dạy học chỉ hướng đến học sinh khá, giỏi thì các em cịn lại sẽ
ngơ ngác, khơng theo kịp; ngược lại nếu chỉ hướng đến học sinh yếu kém thì

các học sinh khá, giỏi sẽ cảm thấy nhàm chán. Do đó, khi đưa ra các hoạt động
trên lớp, giáo viên cần nói rõ nội dung, đưa ra các u cầu khơng q khó đến
mức làm nản lịng học sinh nhưng vẫn có thách thức ở mức độ nào đó để học
sinh cố gắng giải quyết và cảm thấy hứng thú hơn khi hoàn thành tốt các yêu
cầu đặt ra. Qua từng tiết học như thế sẽ giúp học sinh có lịng tự tin học tập rồi
dần dần sẽ phát huy được tính tích cực học tập đồng đều ở tất cả học sinh.

b. Sử dụng có hiệu quả dụng cụ trực quan
Để kích thích tinh thần chú ý của học sinh không thể thiếu các dụng cụ trực
quan vì các phương tiện trực quan giúp học sinh hiểu sâu hơn về từ vựng,
mẫu câu, cách sử dụng từ, ... . thông qua các vật thật, tranh ảnh, biểu đồ
sẽ giúp các em nhận thức tốt và ghi nhớ nhanh hơn, lâu bền hơn.


c. Sử dụng trị chơi ngơn ngữ
Nhiều tài liệu nghiên cứu về phương pháp giảng dạy Tiếng Anh trung học đã cho
rằng trị chơi khơng chỉ là hoạt động để lấp khoảng trống về thời gian trong các tiết
học mà nó cịn có một giá trị giáo dục rất lớn. Trong thực tế, trẻ em thường hiếu
động nên các em thường có khuynh hướng dễ nhàm chán nếu nội dung bài học
được trình bày đơn điệu, tẻ nhạt. Được vui chơi khi học là nguyện vọng rất chính
đáng và tha thiết của đa số học sinh. Vì vậy kích thích khả năng nói trong các tiết
học Tiếng Anh có thể giúp ích cho việc học ngơn ngữ của học sinh.

* Trò chơi giúp luyện tập kĩ năng giao tiếp
Trò chơi học tập là trị chơi mà luật của nó bao gồm các quy tắc gắn với
kiến thức kĩ năng có được trong quá trình học tập, gần với nội dung bài
học và giúp học sinh thực hành luyện tập ngôn ngữ trong các tình huống
của trị chơi. Tham gia các trị chơi sẽ khuyến khích hoạt động nhóm tạo
cơ hội cho học sinh hợp tác và giao tiếp với nhau bằng những mẫu câu
được lặp lại giúp phát triển kĩ năng giao tiếp một cách lưu lốt.

* Trị chơi giúp mở rộng và củng cố từ vựng, ngữ pháp
Nhằm tránh việc cung cấp từ mới cho học sinh một cách dập khn máy móc, khơng
sinh động, thơng qua các trị chơi chúng ta có thể lồng ghép từ mới vào các trị chơi.
Từ đó giúp học sinh dễ hiểu, dễ nhớ và nhớ lâu hơn các từ mà học sinh đã học.

d. Sử dụng những phản ứng nhỏ - Using minimal responses
- Những người học về ngôn ngữ thiếu tự tin vào khả năng của mình trong
hoạt động giao tiếp thường chỉ lắng nghe trong khi những người khác nói.
Một cách để khuyến khích những người như vậy là giúp họ xây dựng một
phần của câu trả lời một cách đơn giản nhất mà họ có thể sử dụng trong
các tình huốg giao tiếp, đặc biệt đối với người mới bắt đầu.
Yêu cầu tối thiểu trong giao tiếp là người tham gia giao tiếp phải đoán được, thường
là các cụm từ thành ngữ mà người tham gia cuộc hội thoại sử dụng để chỉsự hiểu
biết, thỏa thuận, nghi ngờ, và biết cách phản ứng với những gì một người nói đang

nói.


e. Sử dụng ngôn ngữ để minh hoạ cho ngôn ngữ - Using language to talk
about language
Người học ngôn ngữ thường xấu hổ hay nhút nhát để nói bất cứ điều gì khi họ
khơng hiểu một người nói hoặc khi họ nhận ra rằng người đang giao tiếp với mình
khơng hiểu mình nói gì, đặc biệt khi người học đang ở lứa tuổi dậy thì. Giáo viên
hướng dẫn có thể giúp học sinh vượt qua mặc cảm này bằng cách giúp họ hiểu rằng
sự hiểu lầm có thể xảy ra ở bất kỳ hình thức giao tiếp nào, đối với bất cứ người
thuộc trình độ giao tiếp nào. Giáo viên hướng dẫn cũng có thể cung cấp cho học
sinh các chiến lược và cụm từ để sử dụng trong từng tình huống cụ thể.

Bằng cách khuyến khích học sinh sử dụng các cụm từ trong lớp học khi làm rõ
sự hiểu lầm xảy ra, và bằng cách phản ứng tích cực khi họ thực hành, giáo viên

có thể tạo ra một môi trường thực hành đáng tin cậy bên trong lớp học riêng
của mình. Khi họ kiểm sốt các chiến lược phát triển rõ ràng khác nhau, học
sinh sẽ đạt được sự tự tin vào khả năng của mình để quản lý các tình huống
giao tiếp khác nhau mà họ có thể gặp phải bên ngồi lớp học.

VI. Các bước luyện nói cho học sinh
Tùy theo các bài học mà chúng ta áp dụng phương pháp dạy học khác nhau.
Về cơ bản trong q trình luyện nói phải tn thủ theo các quy trình sau:

1. Prentation (pre-speaking)
Giáo viên giới thiệu ngữ liệu mới, cấu trúc mới qua thủ thuật Dialogue
build, Concept checking. Kỹ năng nói thường được thực hiện trong phần
giới thiệu ngữ cảnh (set the scene) và phần giới thiệu câu. Hoạt động nói
của học sinh chủ yếu là trả lời câu hỏi.
2. Practice (Controled Practice)
Cần tuân thủ phương châm từ dễ đến khó. Giáo viên đưa ra các loại hình bài
tập như : Bài tập thay thế ( Substitution drills ), dùng Prompts hay picture cues
hay các trò chơi ngơn ngữ để học sinh hình thành cấu trúc vừa học.
Hoạt động này học sinh được luyện nói nhiều hơn giáo viên. Phần này học sinh
luyện tập theo nhóm, cá nhân dưới sự điều khiển của giáo viên và học sinh
thấy tự tin hào hứng khi nói tạo cơ hội cho các em phát triển kỹ năng nói.


3. Production (Free Practice)
Giáo viên yêu cầu học sinh luyện nói mẫu câu mới mà các em vừa được học với
những ngơn ngữ riêng của mình khơng cần sự hỗ trợ của giáo viên. Giáo viên tạo
tình huống, ngữ cảnh, chủ đề để học sinh thực hành nói theo cặp hay nhóm. Ở phần
này giáo viên có thể dùng tranh, ảnh trong và ngoài sách giáo khoa hoặc các chủ đề
gần gũi với các em như nói về khả năng mình có thể làm gì, miêu tả mùa và thời tiết
ở Việt Nam, kể lại những hoạt động vào cuối tuần trước của gia đình em, hay nói về

những kế hoạch của bản thân trong thời gian tới, .... sao cho vừa đảm bảo yêu cầu
của bài, vừa đem lại hiệu quả, kích thích được học sinh nhiệt tình luyện nói.

* Những điểm cần lưu ý khi thực hành kỹ năng nói
Luyện nói là việc tạo cho học sinh những cơ hội giao tiếp gần giống với đời
thực. Giáo viên cần khuyến khích cho các em học sinh làm theo phương
châm thử nghiệm, chấp nhận mắc lỗi. Không nên tạo cho các em áp lực,
các em sẽ mang nặng tâm lý sợ mắc lỗi.
Thực hành nói phải có tính hệ thống, liên tục, theo phương châm từ dễ
đến khó. Tuỳ theo tình huống và yêu cầu rèn luyện mà giáo viên cần chuẩn
bị những hình thức rèn luyện phù hợp với nhiều đối tượng học sinh
Trong luyện tập các giáo viên có hai chức năng chính: một là cung cấp tư liệu,
giúp giải đáp những vấn đề khó về ngữ liệu và kiến thức mà học sinh gặp phải;
hai là theo dõi, lắng nghe, ghi nhận các lỗi học sinh mắc phải trong quá trình
thực hành để sửa trước lớp sau tiến trình thực hành nói của học sinh.

Giáo viên cần sử dụng tối đa thời gian trên lớp, tạo mọi cơ hội để học sinh
có thể sử dụng ngữ liệu đã học một cách có nghĩa, có hiệu quả.
Chọn chủ đề dễ phát triển, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi và mang tính thời sự như về
sinh hoạt hàng ngày, về bộ phim hay đang được mọi người theo dõi trên truyền hình,
về các mơn thể thao u thích của các em hoặc về người thực, việc thực.

Giáo viên có thể đặt vấn đề có tính chất phản diện để học sinh tranh luận
cho thêm phần sôi nổi.
Trên cơ sở rèn luyện trên lớp, giáo viên cần khuyến khích học sinh tự luyện tập ở
nhà, và thực hành thường xun khi có điều kiện ví dụ như gặp khách nước ngoài


mà các em gặp trong thực tế (nhất là các em bé hoặc bạn bằng tuổi).
VI.Kết luận:

-

Quan tâm nhiều hơn nữa đến động cơ, thái độ học tập của học sinh; giúp học

sinh đánh giá đúng đắn sự cần thiết của tiếng Anh cho tương lai của các em để từ đó
học sinh có thể xác định được động cơ, thái độ học tập tích cực.

-

Khơng gây áp lực học đối với học sinh yếu, học sinh lười học. Thay

vào đó động viên, khuyến khích để học sinh tự giác học.
-

Thiết kế nhiều loại hình hoạt động khác nhau theo mức độ khó tăng

dần và phù hợp với từng nhóm học sinh.
-

Đánh giá đúng thực lực của học sinh để từ đó đưa ra yêu cầu phù hợp; yêu

cầu quá thấp đối với học sinh khá, giỏi sẽ khiến cho học sinh cảm thấy nhàm chán và
sẽ khơng có ý chí phấn đấu vươn lên nữa; yêu cầu quá cao đối với học sinh yếu sẽ
đánh mất sự tự tin của học sinh, làm giảm sút sự hứng thú của học sinh.

-

Tạo thói quen tư duy bằng tiếng Anh, hạn chế việc chuyển đổi ý

tưởng từ tiếng Việt sang tiếng Anh.




×