Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Báo cáo Bao bì gốm sứ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (638.86 KB, 40 trang )

Kỹ thuật bao bì thực phẩm
Tìm hiểu về bao bì gốm sứ
MỤC LỤC
LƯỢC SỬ VỀ BAO BÌ GỐM SỨ 1
GIỚI THIỆU VỀ GỐM SỨ BÁT TRÀNG 2
MEN GỐM 24
SỬ DỤNG GỐM SỨ LÀM BAO BÌ THỰC PHẨM 40
LƯỢC SỬ VỀ BAO BÌ GỐM SỨ
LƯỢC SỬ VỀ BAO BÌ GỐM SỨ
Vào thời kì đồ đá mới, con người đã biết cách sử dụng đất sét để chế tạo đồ gốm.
Chủ yếu đồ gốm trong thời kì này được dùng chứa đựng các loại lương thực, nước
uống, rượu…
Theo thời gian nhu cầu trao đổi, buôn bán hàng hóa giữa các tộc người phát triển.
Nhiều loại hàng hóa như rượu vang, dầu olive… được xuất khẩu chứa đựng trong các
bình gốm nung. Gốm sứ đã trở thành bao bì bao gói thực phẩm.
Cùng với sự phát triển của xã hội, con người ngày càng phát triển nhiều loại bao
bì khác nhau mang nhiều tính chất ưu việt hơn. Bao bì gốm sứ không còn ứng dụng
nhiều trong sản xuất thực phẩm nữa.
Ngành đồ gốm đạt đỉnh cao vào thế kỷ 18 – 19 sau đó nhường chỗ cho các loại
vật liệu và bao bì khác.
Trang 1
Kỹ thuật bao bì thực phẩm
Tìm hiểu về bao bì gốm sứ
GIỚI THIỆU VỀ GỐM SỨ BÁT TRÀNG
GIỚI THIỆU VỀ GỐM SỨ BÁT TRÀNG
I. Lịch sử hình thành và phát triển làng gốm
1. Vị trí địa lý
− Thời nhà Hậu Lê, xã Bát Tràng thuộc huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn Kinh
Bắc. Sang thời nhà Nguyễn, năm 1822 trấn Kinh Bắc đổi làm trấn Bắc Ninh, năm 1831
đổi làm tỉnh Bắc Ninh, lúc này xã Bát Tràng thuộc tổng Đông Dư, huyện Gia Lâm, phủ
Thuận An. Đến năm 1862 chia về phủ Thuận Thành và năm 1912 chia về phủ Từ Sơn.


Từ tháng 2 đến tháng 11 năm 1949, huyện Gia Lâm thuộc về tỉnh Hưng Yên.
− Năm 1948, xã Bát Tràng nhập với xã Giang Cao và xã Kim Lan lập thành xã
Quang Minh.
− Từ năm 1964, xã Bát Tràng được thành lập gồm 2 thôn Bát Tràng và Giang Cao
thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội như hiện nay.
2. Sự hình thành làng gốm
− Gia phả một số dòng họ ở Bát Tràng như họ Lê, Vương, Phạm, Nguyễn ghi
nhận rằng tổ tiên xưa từ Bồ Bát di cư ra đây (Bồ Bát là Bồ Xuyên và Bạch Bát). Ngày nay,
Bồ Xuyên và Bạch Bát là hai thôn của xã Yên Thành, huyện Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình,
vùng này có loại đất sét trắng rất thích hợp với nghề làm gốm.
− Năm 1010, vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long, Thăng Long trở thành trung
tâm chính trị của nước Đại Việt. Sự phát triển của Thăng Long đã tác động mạnh đến
hoạt động kinh tế của các làng xung quanh, trong đó có làng Bát Tràng. Đặc biệt vùng
này lại có nhiều đất sét trắng, một nguồn nguyên liệu tốt để sản xuất đồ gốm.
− Bát Tràng từ một làng gốm bình thường đã trở thành một trung tâm gốm nổi
tiếng được triều đình chọn cung cấp đồ cống phẩm cho nhà Minh. Trong quá trình phát
triển, Bát Tràng có nhiều quan hệ giao lưu với gốm sứ Trung Quốc và có tiếp nhận một
số ảnh hưởng của gốm sứ Trung Quốc.
3. Sự phát triển
a. Thế kỷ 15–16
− Chính sách của nhà Mạc đối với công thương nghiệp trong thời gian này là cởi
mở; nhờ đó, sản phẩm gốm Bát Tràng được lưu thông rộng rãi.
Trang 2
Kỹ thuật bao bì thực phẩm
Tìm hiểu về bao bì gốm sứ
− Gốm Bát Tràng thời Mạc có nhiều sản phẩm có minh văn ghi rõ năm chế tạo, tên
người đặt hàng và người sản xuất. Người đặt hàng trải ra trên một không gian rộng lớn
bao gồm nhiều phủ huyện vùng đồng bằng Bắc Bộ và bắc Trung Bộ.
Trang 3
Kỹ thuật bao bì thực phẩm

Tìm hiểu về bao bì gốm sứ
b. Thế kỷ 16–17
− Sau những phát kiến địa lý cuối thế kỷ 15, nhiều nước phát triển của Tây Âu tràn
sang phương Đông. Hoạt động mậu dịch hàng hải khu vực Đông Nam Á vốn có lịch sử
lâu đời càng trở nên sôi động, lôi cuốn các nước trong khu vực vào hệ thống buôn bán
Châu Á và với thị trường thế giới đang hình thành.
− Nhà Minh (Trung Quốc) chủ trương cấm tư nhân buôn bán với nước ngoài làm
cho việc xuất khẩu gốm sứ nổi tiếng của Trung Quốc bị hạn chế, đã tạo điều kiện cho đồ
gốm Bát Tràng mở rộng thị trường ở vùng Đông Nam Á và Nhật Bản.
− Thế kỷ 15–17 là giai đoạn phát triển mạnh mẽ của ngành sản xuất gốm xuất khẩu
Việt Nam, trong đó ở phía bắc có hai trung tâm quan trọng và nổi tiếng là Bát Tràng và
Chu Đậu – Mỹ Xá. Lúc bấy giờ, Thăng Long (Hà Nội) và Phố Hiến (nay thuộc tỉnh
Hưng Yên) là hai trung tâm mậu dịch đối ngoại thịnh đạt nhất Đàng Ngoài. Bát Tràng
có thuận lợi lớn khi nằm bên bờ sông Nhị (sông Hồng), trên đường thủy nối liền hai đô
thị và là cửa ngõ thông thương với thế giới bên ngoài. Qua thuyền buôn của các nước,
đồ gốm Việt Nam được bán sang Nhật Bản và nhiều nước Đông Nam Á, Nam Á.
c. Cuối thế kỷ 17 – đầu thế kỷ 18
Việc xuất khẩu và buôn bán đồ gốm Việt Nam ở Đông Nam Á bị giảm sút nhanh
chóng vì sau khi Đài Loan được giải phóng (1684) và triều Thanh bãi bỏ chính sách cấm
vượt biển buôn bán với nước ngoài. Từ đó, gốm sứ chất lượng cao của Trung Quốc tràn
xuống thị trường Đông Nam Á và đồ gốm Việt Nam không đủ sức cạnh tranh.
d. Thế kỷ 18–19
− Chính sách hạn chế ngoại thương của các chính quyền Trịnh, Nguyễn trong thế
kỷ 18, của nhà Nguyễn trong thế kỷ 19 đã làm cho quan hệ mậu dịch đối ngoại của Việt
Nam sa sút và việc xuất khẩu đồ gốm cũng bị suy giảm. Đó là lý do khiến một số làng
nghề gốm bị gián đoạn sản xuất (như làng gốm Chu Đậu – Mỹ Xá).
− Gốm Bát Tràng tuy có bị ảnh hưởng, nhưng vẫn giữ được sức sống bền bỉ nhờ có
một thị trường tiêu thụ rộng rãi trong nước với những đồ gia dụng, đồ thờ, đồ trang trí
và gạch xây rất cần thiết cho mọi tầng lớp xã hội từ quý tộc đến dân thường. Trong giai
đoạn này, gốm Bát Tràng xuất khẩu giảm sút, nhưng làng gốm Bát Tràng vẫn là một

trung tâm sản xuất gốm truyền thống có tiếng trong nước.
e. Gốm Bát Tràng từ thế kỷ 19 đến nay
− Trong thời Pháp thuộc, các lò gốm Bát Tràng tuy bị một số xí nghiệp gốm sứ và
hàng ngoại nhập cạnh tranh nhưng vẫn duy trì được hoạt động bình thường.
Trang 4
Kỹ thuật bao bì thực phẩm
Tìm hiểu về bao bì gốm sứ
− Sau Chiến tranh Đông Dương (1945 – 1954), tại Bát Tràng thành lập nhiều cơ sở
sản xuất cung cấp hàng tiêu dùng trong nước, một số hàng mỹ nghệ và hàng xuất khẩu.
− Sau năm 1986, làng gốm Bát Tràng có sự chuyển biến lớn theo hướng kinh tế thị
trường. Các hợp tác xã lần lượt giải thể hoặc chuyển thành công ty cổ phần, những công
ty lớn được thành lập nhưng vẫn còn tồn tại nhiều đơn vị sản xuất nhỏ theo hộ gia đình.
Từ thôn Bát Tràng, nghề gốm nhanh chóng lan sang thôn Giang Cao và đến nay, cả xã
Bát Tràng (gồm hai thôn Bát Tràng, Giang Cao) trở thành một trung tâm gốm lớn.
− Hiện nay, sản phẩm gốm Bát Tràng càng ngày càng phong phú và đa dạng.
Ngoài các mặt hàng truyền thống, các lò gốm Bát Tràng còn sản xuất nhiều sản phẩm
mới đáp ứng yêu cầu tiêu dùng trong Việt Nam như các loại ấm chén, bát đĩa, lọ hoa
kiểu mới, các vật liệu xây dựng, các loại sứ cách điện và các sản phẩm xuất khẩu theo
đơn đặt hàng của nước ngoài. Sản phẩm Bát Tràng có mặt trên thị trường cả nước và
được xuất khẩu sang nhiều nước châu Á, châu Âu. Một số nghệ nhân đã bước đầu
thành công trong việc khôi phục một số đồ gốm cổ truyền với những kiểu dáng và nước
men đặc sắc thời Lý, Trần, Lê, Mạc
Trang 5
Kỹ thuật bao bì thực phẩm
Tìm hiểu về bao bì gốm sứ
II. Quy trình sản xuất đồ gốm Bát Tràng
Để làm ra đồ gốm người thợ gốm phải qua các khâu chọn, xử lý và pha chế đất,
tạo dáng, tạo hoa văn, phủ men, và cuối cùng là nung sản phẩm. Kinh nghiệm truyền
đời của dân làng gốm Bát Tràng là "Nhất xương, nhì da, thứ ba dạc lò".
Người thợ gốm quan niệm hiện vật gốm không khác nào một cơ thể sống, một vũ

trụ thu nhỏ trong đó có sự kết hợp hài hòa của Ngũ hành (五行) là kim (金), mộc (木),
thủy (水), hỏa (火) và thổ (土). Sự phát triển của nghề nghiệp được xem như là sự hanh
thông của Ngũ hành mà sự hanh thông của Ngũ hành lại nằm trong quá trình lao động
sáng tạo với những qui trình kỹ thuật chặt chẽ, chuẩn xác.
Trang 6
Đất
Chọn đất
Xử lý đất
Tạo dáng
Phơi sấy
Sửa hàng mộc
Trang trí
Tráng men
Sửa hàng men
Nung
Gốm
sứ
Kỹ thuật bao bì thực phẩm
Tìm hiểu về bao bì gốm sứ
1. Quá trình tạo cốt gốm
a. Chọn đất
− Điều quan trọng đầu tiên để hình thành nên các lò gốm là nguồn đất sét làm
gốm. Những trung tâm sản xuất gốm thời cổ thường là sản xuất trên cơ sở khai thác
nguồn đất tại chỗ. Làng gốm Bát Tràng cũng vậy, sở dĩ dân làng Bồ Bát chọn khu vực
làng Bát Tràng hiện nay làm đất định cư phát triển nghề gốm vì trước hết họ đã phát
hiện ra mỏ đất sét trắng ở đây.
− Khi nguồn đất sét trắng tại chỗ đã cạn kiệt, người dân Bát Tràng buộc phải đi tìm
nguồn đất mới. Tuy nhiên, họ vẫn định cư lại ở các vị trí giao thông thuận lợi và thông
qua dòng sông bến cảng, dùng thuyền toả ra các nơi khai thác các nguồn đất mới. Từ
đó, họ khai thác đất sét trắng ở Hồ Lao, Trúc Thôn.

− Đặc điểm đất sét Trúc Thôn:
Đất sét Trúc Thôn có độ dẻo cao, khó tan trong nước, hạt mịn, màu trắng xám,
độ chịu lửa ở khoảng 1650°C.
Thành phần hoá học (tính trung bình theo % trọng lượng) của đất sét Trúc Thôn
như sau:
Al
2
0
3
:27,07; Si0
2
:55,87; Fe
2
0
3
:1,2; Na
2
O:0,7; CaO:2,57; MgO:0,78; K
2
O:2,01;Ti0
2
:0,81
Tuy là loại đất tốt được người thợ gốm Bát Tràng ưa dùng nhưng sét Trúc Thôn
cũng có một số hạn chế như chứa hàm lượng oxide sắt khá cao, độ ngót khi sấy
khô lớn và bản thân nó không được trắng.
b. Xử lý, pha chế đất
− Trong đất nguyên liệu thường có lẫn tạp chất, ngoài ra tuỳ theo yêu cầu của từng
loại gốm khác nhau mà có thể có những cách pha chế đất khác nhau để tạo ra sản phẩm
phù hợp.
− Ở Bát Tràng, phương pháp xử lý đất truyền thống là xử lý thông qua ngâm nước

trong hệ thống bể chứa, gồm 4 bể ở độ cao khác nhau.
Bể thứ nhất ở vị trí cao hơn cả là "bể đánh" dùng để ngâm đất sét thô và nước
(thời gian ngâm khoảng 3 – 4 tháng). Đất sét dưới tác động của nước sẽ bị phá vỡ
kết cấu hạt nguyên thủy của nó và bắt đầu quá trình phân rã (dân gian gọi là ngâm
lâu để cho đất nát ra). Khi đất đã "chín", đánh đất thật đều, thật tơi để các hạt đất
thực sự phân tán vào nước tạo thành một hỗn hợp lỏng.
Trang 7
Kỹ thuật bao bì thực phẩm
Tìm hiểu về bao bì gốm sứ
Hỗn hợp lỏng này được tháo xuống bể thứ hai gọi là "bể lắng" hay "bể lọc". Tại
đây đất sét bắt đầu lắng xuống, một số tạp chất (nhất là các chất hữu cơ) nổi lên,
tiến hành loại bỏ chúng.
Hồ loãng được múc từ bể lắng sang bể thứ ba gọi là "bể phơi", phơi khoảng 3
ngày.
Sau đó chuyển đất sang bể thứ tư là "bể ủ". Tại bể ủ, oxide sắt (Fe
2
O
3
) và các tạp
chất khác bị khử bằng phương pháp lên men (tức là quá trình vi sinh vật hoá khử
các chất có hại trong đất). Thời gian ủ càng lâu càng tốt.
− Nhìn chung, khâu xử lý đất của người thợ gốm Bát Tràng thường không qua
nhiều công đoạn phức tạp. Trong quá trình xử lý, tuỳ theo từng loại đồ gốm mà người
ta có thể pha thêm cao lanh ở mức độ nhiều ít khác nhau.
c. Tạo dáng
− Phương pháp tạo dáng cổ truyền của người làng Bát Tràng là làm bằng tay trên
bàn xoay. Trong khâu tạo dáng, người thợ gốm Bát Tràng sử dụng phổ biến lối "vuốt
tay, be chạch" trên bàn xoay. Thợ ngồi trên một cái ghế cao hơn mặt bàn rồi dùng chân
quay bàn xoay và tay vuốt đất tạo dáng sản phẩm. Đất trước khi đưa vào bàn xoay được
vò cho thật nhuyễn, cuốn thành thoi rồi ném ("bắt nẩy") để thu ngắn lại. Sau đó người ta

đặt vào giữa bàn xoay, vỗ cho đất dính chặt rồi lại nén và kéo cho đất nhuyễn dẻo mới
"đánh cử" đất và "ra hương" chủ yếu bằng hai ngón tay bên phải. Sau quá trình kéo đất
bằng tay và bằng sành tới mức cần thiết người thợ sẽ dùng sành dan để định hình sản
phẩm. Sản phẩm "xén lợi" và "bắt lợi" xong thì được cắt chân đưa ra đặt vào "bửng".
Hình 1 Bàn xoay dạng cổ điển
Trang 8
Kỹ thuật bao bì thực phẩm
Tìm hiểu về bao bì gốm sứ
Hình 2 Tạo dáng
− Người thợ "đắp nặn" gốm là người thợ có trình độ kỹ thuật và mỹ thuật cao. Có
khi họ đắp nặn một sản phẩm gốm hoàn chỉnh, nhưng cũng có khi họ đắp nặn từng bộ
phận riêng rẽ của một sản phẩm và sau đó tiến hành chắp ghép lại. Hiện nay theo yêu
cầu sản xuất gốm công nghiệp hay mỹ nghệ, nghệ nhân gốm có thể đắp nặn một sản
phẩm mẫu để đổ khuôn thạch cao phục vụ cho việc sản xuất hàng loạt.
− Việc tạo hình sản phẩm gốm theo khuôn in (khuôn thạch cao hay khuôn gỗ) được
tiến hành như sau: đặt khuôn giữa bàn xoay, ghim chặt lại, láng lòng khuôn rồi ném
mạnh đất in sản phẩm giữa lòng khuôn cho bám chắc chân, vét đất lên lợi vành,quay
bàn xoay và kéo cán tới mức cần thiết để tạo sản phẩm.
− Ngày nay người làng gốm Bát Tràng sử dụng phổ biến kỹ thuật "đúc" hiện vật.
Muốn có hiện vật gốm theo kỹ thuật đúc trước hết phải chế tạo khuôn bằng thạch cao.
Khuôn có cấu tạo từ đơn giản đến phức tạp. Loại đơn giản là khuôn hai mang, loại phức
tạp thì thường cớ nhiều mang, tuỳ theo hình dáng của sản phẩm định tạo. Cách tạo
dáng này trong cùng một lúc có thể tạo ra hàng loạt sản phẩm giống nhau, rất nhanh và
giản tiện. Ngoài ra người ta còn dùng phương pháp đổ rót: đổ "hồ thừa" hay "hồ đầy"
để tạo dáng sản phẩm.
d. Phơi sấy và sửa hàng mộc
− Tiến hành phơi sản phẩm mộc sao cho khô, không bị nứt nẻ, không làm thay đổi
hình dáng của sản phẩm. Biện pháp tối ưu mà xưa nay người Bát Tràng vẫn thường sử
dụng là hong khô hiện vật trên giá và để nơi thoáng mát. Ngày nay phần nhiều các gia
đình sử dụng biện pháp sấy hiện vật trong lò sấy, tăng nhiệt độ từ từ để cho nước bốc

hơi dần dần.
− Sản phẩm mộc đã định hình cần đem "ủ vóc" và sửa lại cho hoàn chỉnh. Người
thợ gốm đặt sản phẩm vào mà trên bàn xoay nhẹ đà rồi vừa xoay bàn xoay vừa đẩy nhẹ
vào chân vóc cho cân, dùng dùi vỗ nhẹ vào chân "vóc" cho đất ở chân "vóc" chặt lại và
sản phẩm tròn trở lại (gọi là "lùa"). Người thợ gốm tiến hành các động tác cắt, gọt chỗ
Trang 9
Kỹ thuật bao bì thực phẩm
Tìm hiểu về bao bì gốm sứ
thừa, bồi đắp chỗ khuyết, chắp các bộ phận của sản phẩm (như vòi ấm, quai tách ),
khoan lỗ trên các sản phẩm, tỉa lại đường nét hoa văn và thuật nước cho mịn mặt sản
phẩm. Những sản phẩm sửa lại mà không dùng bàn xoay thì gọi là "làm hàng bộ", phải
dùng bàn xoay thì gọi là "làm hàng bàn".
− Theo yêu cầu trang trí, có thể đắp thêm đất vào một vài vùng nào đó trên sản
phẩm rồi cắt tỉa để tạo hình (đắp phù điêu), có khi phải khắc sâu các hoạ tiết trang trí
trên mặt sản phẩm
Trang 10
Kỹ thuật bao bì thực phẩm
Tìm hiểu về bao bì gốm sứ
2. Quá trình trang trí hoa văn và phủ men
a. Kỹ thuật vẽ
− Thợ gốm Bát Tràng dùng bút lông vẽ trực tiếp trên nền mộc các hoa văn họa tiết.
Thợ vẽ gốm phải có tay nghề cao, hoa văn học tiết phải hài hòa với dáng gốm, các trang
trí họa tiết này đã nâng nghề gốm lên mức nghệ thuật, mỗi sản phẩm là một tác phẩm.
Thợ gốm Bát Tràng cũng đã dùng rất nhiều hình thức trang trí khác, có hiệu quả nghệ
thuật như đánh chỉ, bôi men chảy màu, vẽ men màu
− Gần đây, Bát Tràng xuất hiện kỹ thuật vẽ trên nền xương gốm đã nung sơ lần 1
hoặc kỹ thuật hấp hoa, một lối trang trí hình in sẵn trên giấy decal, nhập từ nước ngoài.
Hai kiểu này tuy đẹp nhưng không phải là truyền thống của Bát Tràng. Những loại này
không được coi là nghệ thuật và sáng tạo trong di sản gốm Bát Tràng, cũng như gốm
Việt Nam nói chung.

b. Chế tạo men
− Men tro là men đặc sắc của gốm Bát Tràng, ngoài ra còn có men màu nâu, thành
phần loại men này bao gồm men tro cộng thêm 5% đá thối (hỗn hợp oxide sắt và oxide
mangan lấy ở Phù Lãng, Hà Bắc). Từ thế kỷ 15 thợ gốm Bát Tràng đã từng chế tạo ra
loại men lam nổi tiếng. Loại men này được chế từ đá đỏ (có chứa oxide coban) đá thối
(chứa oxide mangan) nghiền nhỏ rồi trộn với men áo. Men lam phát màu ở nhiệt độ
1250°C. Đầu thế kỷ 17 người Bát Tràng dùng vôi sống, tro trấu và cao lanh chùa Hội
(thuộc Bích Nhôi, Kinh Môn, Hải Dương) có màu hồng nhạt điều chế thành một loại
men mới là men rạn.
− Thợ gốm Bát Tràng thường quen sử dụng cách chế tạo men theo phương pháp
ướt bằng cách cho nguyên liệu đã nghiền lọc kỹ trộn đều với nhau rồi khuấy tan trong
nước đợi đến khi lắng xuống thì bỏ phần nước trong ở trên và bã đọng ở dưới đáy mà
chỉ lấy các "dị" lơ lửng ở giữa, đó chính là lớp men bóng để phủ bên ngoài đồ vật. Trong
quá trình chế tạo men người thợ gốm Bát Tràng nhận thấy để cho men dễ chảy hơn thì
phải chế biến bột tro nhỏ hơn nhiều so với bột đất, vì thế mà có câu "nhỏ tro to đàn".
c. Tráng men
− Khi sản phẩm mộc đã hoàn chỉnh, người thợ gốm có thể nung sơ bộ sản phẩm ở
nhiệt độ thấp rồi sau đó mới đem tráng men hoặc dùng ngay sản phẩm mộc hoàn chỉnh
đó trực tiếp tráng men lên trên rồi mới nung. Người thợ gốm Bát Tràng thường chọn
phương pháp tráng men trực tiếp lên trên sản phẩm mộc hoàn chỉnh. Sản phẩm mộc
trước khi đem tráng men phải được làm sạch bụi bằng chổi lông.
Trang 11
Kỹ thuật bao bì thực phẩm
Tìm hiểu về bao bì gốm sứ
− Những sản phẩm mà xương gốm có màu trước khi tráng men phải có một lớp
men lót để che bớt màu của xương gốm, đồng thời cũng phải tính toán tính năng của
mỗi loại men định tráng nên từng loại xương gốm, nồng độ men, thời tiết và mức độ
khó của xương gốm
− Kỹ thuật tráng men có nhiều hình thức như phun men, dội men lên bề mặt cốt
gốm cỡ lớn, nhúng men đối với loại gốm nhỏ nhưng thông dụng nhất là hình thức láng

men ngoài sản phẩm, gọi là "kìm men", và khó hơn cả là hình thức "quay men" và "đúc
men". Quay men là hình thức tráng men bên trong và bên ngoài sản phẩm cùng một lúc,
còn đúc men thì chỉ tráng men trong lòng sản phẩm. Đây là những thủ pháp tráng men
của thợ gốm Bát Tràng, vừa là kỹ thuật vừa là nghệ thuật, được bảo tồn qua nhiều thế
hệ, thậm chí đã từng là bí quyết trong nghề nghiệp ở đây.
d. Sửa hàng men
Người thợ gốm tiến hành tu chỉnh lại sản phẩm lần cuối trước khi đưa vào lò
nung. Trước hết phải xem kỹ từng sản phẩm một xem có chỗ nào khuyết men thì phải
bôi quệt men vào các vị trí ấy. Sau đó họ tiến hành "cắt dò" tức cạo bỏ những chỗ dư
thừa men, công việc này gọi là "sửa hàng men".
3. Quá trình nung
Khi công việc chuẩn bị hoàn tất thì đốt lò trở thành khâu quyết định sự thành
công hay thất bại của một mẻ gốm. Vì thế giờ phút nhóm lò trở nên thiêng liêng trọng
đại với người thợ gốm. Người thợ cả cao tuổi nhất thắp ba nén hương và thành kính cầu
mong trời đất và thần lửa phù giúp. Việc làm chủ ngọn lửa theo nguyên tắc nâng dần
nhiệt độ để lò đạt tới nhiệt độ cao nhất và khi gốm chín thì lại hạ nhiệt độ từ từ chính là
bí quyết thành công của khâu đốt lò.
Trước đây người thợ gốm Bát Tràng chuyên sử dụng các loại lò như lò ếch (hay
lò cóc), lò đàn và lò bầu để nung gốm, sau này, xuất hiện thêm nhiều loại lò nung khác,
càng ngày càng hiện đại và đơn giản trong việc thao tác hơn.
a. Lò nung
− Lò ếch là kiểu lò gốm cổ nhất được sử dụng một cách phổ biến ở khắp mọi nơi,
hiện nay mất hết dấu tích.
Lò có hình dáng giống như một con ếch dài khoảng 7m, bề ngang chỗ rộng nhất
khoảng 3 – 4m, cửa lò rộng khoảng 1,2 m, cao 1 m. Đáy lò phẳng nằm ngang, vòm
lò cao khoảng từ 2m đến 2,7m. Bên hông lò có một cửa ngách rộng 1m, cao 1,2m
phục vụ cho việc chồng lò và dỡ sản phẩm. Lò có 3 ống khói thẳng đứng cao 3 –
3,5m.
Trang 12
Kỹ thuật bao bì thực phẩm

Tìm hiểu về bao bì gốm sứ
Trong mỗi bầu lò người ta chia thành 5 khu vực xếp sản phẩm là: hàng dàn,
hàng gáy, hàng giữa, hàng chuột chạy và hàng mặt.
Trong quá trình lâu dài sử dụng lò ếch, để khắc phục nhược điểm của lớp đất
gia cố bên trong và sàn lò, người ta thay vào đó lớp gạch mộc và vữa ghép lại.
− Lò đàn xuất hiện vào giữa thế kỷ 19.
Lò đàn có bầu lò dài 9m, rộng 2,5m, cao 2,6m được chia thành 10 bích bằng
nhau. Vị trí phân cách giữa các bích là hai nống (cột). Cửa lò rộng 0,9m, cao lm.
Bích thứ 10 gọi là bích đậu thông với buồng thu khói qua 3 cửa hẹp.
Để giữ nhiệt, bích lò kéo dài và ôm lấy buồng thu khói. Lớp vách trong ghép
gạch Bát Tràng, lớp vách ngoài xây bằng gạch dân dụng. Mặt dưới của cật lò gần
như bằng phẳng còn mặt trên hình vòng khum.
Hai bên cật lò từ bích thứ 2 đến bích thứ 9 người ta dấu mở hai cửa nhỏ hình
tròn, đường kính 0,2m gọi là các lỗ giòi để ném nhiên liệu vào trong bích. Riêng
bích đậu người ta mở lỗ đậu (lỗ giòi rộng hơn nửa m).
Nhiệt độ lò đàn có thể đạt được 1250 – 1300°C.
− Lò bầu, hay lò rồng, xuất hiện vào đầu thế kỷ 20.
Lò bầu chia ra làm nhiều ngăn, thường có từ 5 đến 7 bầu (cũng có khi đến 10
bầu). Bầu lò có vòm cuốn liên tiếp vuông góc với trục tiêu của lò tựa như những
mảnh vỏ sò úp nối với nhau.
Người ta dùng gạch chịu lửa đề xây dựng vòm cuốn của lò. Lò dài khoảng 13m
cộng với đoạn để xây ống khói ở phía đuôi dài 2m thì toàn bộ độ dài của lò tới
15m. Độ nghiêng của trục lò khoảng 12 – 15⁰.
Nhiệt độ của lò bầu có thể đạt tới 1300°C.
− Lò hộp hay lò đứng: Khoảng năm 1975 trở lại đây người Bát Tràng chuyển sang
xây dựng lò hộp để nung gốm.
Lò thường cao 5 m rộng 0,9 m, bên trong xây bằng gạch chịu lửa giống như xây
tường nhà. Lò mở hai cửa, kết cấu đơn giản, chiếm ít diện tích, chi phí xây lò
không nhiều, tiện lợi cho quy mô gia đình. Vì thế hầu như gia đình nào cũng có lò
gốm, thậm chí mỗi nhà có đến 2, 3 lò.

Nhiệt độ lò có thể đạt 1250°C.
− Lò con thoi (hay lò gas), lò tuynen (lò hầm, lò liên tục):
Trong những năm gần đây, Bát Tràng xuất hiện thêm những kiểu lò hiện đại là
lò con thoi, hoặc lò tuynen, với nhiên liệu là khí đốt hoặc dầu.
Trong quá trình đốt, nhiệt độ được theo dõi qua hỏa kế, việc điều chỉnh nhiệt
độ mà thực chất là quá trình tăng giảm nhiên liệu được thực hiện bán tự động hoặc
Trang 13
Kỹ thuật bao bì thực phẩm
Tìm hiểu về bao bì gốm sứ
tự động, công việc đốt lò trở nên đơn giản hơn nhiều. Tuy nhiên, đây không phải
là những lò truyền thống của Bát Tràng.
b. Bao nung
− Trước đây, các lò gốm Bát Tràng dùng một loại gạch vuông ghép lại làm bao
nung. Loại gạch này sau hai ba lần sử dụng trong lò đạt đến độ lửa cao và cứng gần như
sành (đó chính là gạch Bát Tràng nổi tiếng).
− Gần đây bao nung thường được làm bằng đất sét chịu lửa có mầu xám sẫm trộn
đều với bột gạch hoặc bao nung hỏng nghiền nhỏ (gọi là sa mốt) với tỷ lệ 25 – 35% đất
sét và 65 – 75% sa mốt. Người ta dùng một lượng nước vừa đủ để trộn đều và đánh
nhuyễn chất hỗn hợp này rồi đem in (dập) thành bao nung hay đóng thành gạch ghép
ruột lò.
− Bao nung thường hình trụ để cho lửa có điều kiện tiếp xúc đều với sản phẩm.
Tuỳ theo sản phẩm mà bao nung có kích thước không giống nhau nhưng phổ biến hơn
cả là loại có đường kính 15 – 30cm, dày 2 – 5cm và cao 5 – 40cm. Một bao nung có thể
dùng từ 15 – 20 lần.
− Nếu sản phẩm được đốt trong lò con thoi hoặc lò tuynen, thường không cần
dùng bao nung.
c. Nhiên liệu
− Đối với loại lò ếch có thể dùng các loại rơm, rạ, tre, nứa để đốt lò, sau đó Bát
Tràng dùng kết hợp rơm rạ với các loại "củi phác" và "củi bửa" và sau nữa thì củi phác
và củi bửa dần trở thành nguồn nhiên liệu chính cho các loại lò gốm ở Bát Tràng. Củi

bửa và củi phác sau khi đã bổ được xếp thành đống ngoài trời, phơi sương nắng cho ải
ra rồi mới đem sử dụng. Đối với loại lò đàn, tại bầu, người ta đốt củi phác còn củi bửa
được dùng để đưa qua các lỗ giòi, lỗ đậu vào trong lò.
− Ngày xưa dân làng Giang Cao chuyên lo công việc vớt củi từ dưới sông Hồng
mang lên và cưa ra từng đoạn ngắn để dân làng Nang Dư (Thanh Trì) chuyên lo việc bổ
củi phục vụ cho các lò gốm Bát Tràng. Vì thế mà ở đây hình thành hai phường là
phường Hàng Cầu và phường Bổ Củi.
− Khi chuyển sang sử dụng lò đứng, nguồn nhiên liệu chính là than cám còn củi chỉ
để gầy lò. Than cám đem nhào trộn kỹ với đất bùn theo tỷ lệ nhất định có thể đóng
thành khuôn hay nặn thành bánh nhỏ phơi khô. Nhiều khi người ta nặn than ướt rồi
đập lên tường khô để tường hút nước nhanh và than chóng kết cứng lại và có thể dùng
được ngay.
Trang 14
Kỹ thuật bao bì thực phẩm
Tìm hiểu về bao bì gốm sứ
d. Chồng lò
− Sản phẩm mộc sau quá trình gia công hoàn chỉnh được đem vào lò nung.
− Việc xếp sản phẩm trong lò nung như thế nào là tuỳ theo sản phẩm và hình dáng
kích, cỡ của bao nung trên nguyên tắc vừa sử dụng triệt để không gian trong lò vừa tiết
kiệm được nhiên liệu mà lại đạt hiệu nhiệt cao.
Đối với loại lò ếch, người ta xếp sản phẩm từ gáy lò ra tới cửa lò.
Đối với loại lò đàn thì người ta xếp sản phẩm từ bích thứ 2 đến bích thứ 10
(riêng bích thứ 10 vì lửa kém nên sản phẩm thường để trần không cần có bao nung
ở ngoài). Ở bầu cũi lợn (bầu đầu tiên) nơi giành để đốt nhiên liệu, có nhiệt độ cao
nên đôi khi người ta xếp các loại sản phẩm trong các bao ngoại cỡ.
Sản phẩm được xếp trong lò bầu giống như lò đàn. Riêng đối với lò hộp, tất cả
các sản phẩm đều được đặt trong các bao nung hình trụ không đậy nắp và xếp
chồng cao dần từ đáy lên nóc, xung quanh tường lò và chỗ khoảng trống giữa các
bao nung đều được chèn các viên than.
− Làng Bát Tràng xưa có các phường Chồng Lò, mỗi phường thường gồm 7 người

(3 thợ cả, 3 thợ đệm và 1 thợ học việc). Họ chia thành 3 nhóm trong đó mỗi nhóm có 1
thợ cả và 1 thợ đệm, còn thợ học việc có nhiệm vụ bưng bao nung và sản phẩm mộc
phục vụ cho cả 3 nhóm trên.
Nhóm thứ nhất có nhiệm vụ chồng đáy (xếp bao nung và sản phẩm ba lớp từ
đáy lên).
Nhóm thứ hai có nhiệm vụ chồng giữa (xếp ba lớp giữa).
Nhóm thứ ba là nhóm gọi mặt (xếp ba lớp cuối cùng ở vị trí cao nhất trong lò)
− Phường Chồng Lò chủ yếu tập hợp những người thợ gốm ở Sài Sơn (Quốc Oai,
Hà Tây) và Vân Đình (Mỹ Đức, Hà Tây) chuyên phục vụ cho các lò gốm Bát Tràng.
e. Đốt lò
− Nhìn chung đối với các loại lò ếch, lò đàn, lò bầu thì quy trình đốt lò đều tương
tự nhau và với kinh nghiệm của mình, người "thợ cả" có thể làm chủ được ngọn lửa
trong toàn bộ quá trình đốt lò.
− Ở lò đàn khoảng một nửa ngày kể từ khi nhóm lửa người ta đốt nhỏ lửa tại bầu
cũi lợn để sấy lò và sản phẩm trong lò. Sau đó người ta tăng dần lửa ở bầu cũi lợn cho
đến khi lửa đỏ lan tới bích thứ tư thì việc tiếp củi ở các bầu cũi lợn được dừng lại. Tiếp
tục ném củi bửa qua các lỗ giòi. Người xuất cả bằng kinh nghiệm của mình kiểm tra kỹ
các bích và ra lệnh ngừng ném củi bửa vào bích nào khi biết sản phẩm ở bích đó đã chín.
Trang 15
Kỹ thuật bao bì thực phẩm
Tìm hiểu về bao bì gốm sứ
Càng về cuối sản phẩm chín càng nhanh. Khi sản phẩm trong bích đậu đã sắp chín thì
người thợ cả quyết định ném dồn dập trong vòng nửa tiếng khoảng 9 – 10 bó củi bửa
qua lỗ đậu rồi kết thúc việc tiếp củi.
Trong phường đốt lò, người phường trưởng (xuất cả) phụ trách chung về kỹ
thuật, hai người thợ đốt ở cửa lò (đốt dưới), bốn người chuyên ném củi bửa qua
cấc lỗ giòi (đốt trên).
Sau khi nung xong người ta bịt hết các cửa lò, lỗ giòi, lỗ xem lửa để làm nguội
từ từ. Quá trình làm nguội trong lò kéo dài 2 ngày 2 đêm, sau đó mới mở cửa lò và
để tiếp 1 ngày 1 đêm nữa rồi mới tiến hành ra lò.

− Đối với lò đứng, việc đốt lò trở nên đơn giản hơn nhiều vì khi hoàn tất khâu
chồng lò cũng có nghĩa là đã kết thúc việc nạp nhiên liệu. Thế nhưng do đặc điểm của
lò, người thợ đốt lò dù có dầy dạn kinh nghiệm cũng rất khó có thể làm chủ được ngọn
lửa, đây thực sự là vấn ra khó khăn nhất trong khâu kỹ thuật ở làng Bát Tràng. Người ta
dùng gạch chịu lửa bịt cửa lò lại rồi nhóm lò bằng củi. Lửa cháy bén vào than và bốc từ
dưới lên. Than trong lò cháy hết cũng là lúc kết thúc công việc đốt lò. Thời gian đốt lò kể
từ lúc nhóm lửa đến khi hoàn toàn tắt lửa kéo dài khoảng 3 ngày 3 đêm. Sau khi lò
nguội, sản phẩm ra lò được đánh giá phân loại và sửa chữa lại các khuyết tật (nếu có thể
được) trước khi đem ra phân phối sử dụng.
III. Những đặc điểm của đồ gốm Bát Tràng
Căn cứ vào những đặc điểm chung về xương gốm, màu men, đề tài trang trí và
đặc biệt nhờ các dòng minh văn, có thể rút ra những đặc điểm cơ bản của gốm cổ Bát
Tràng.
1. Loại hình
− Hầu hết, đồ gốm Bát Tràng được sản xuất theo lối thủ công, thể hiện rõ rệt tài
năng sáng tạo của người thợ lưu truyền qua nhiều thế hệ.
− Do tính chất của các nguồn nguyên liệu tạo cốt gốm và việc tạo dáng đều làm
bằng tay trên bàn xoay, cùng với việc sử dụng các loại men khai thác trong nước theo
kinh nghiệm nên đồ gốm Bát Tràng có nét riêng là cốt đầy, chắc và khá nặng, lớp men trắng
thường ngả mầu ngà, đục. Bát Tràng cũng là làng gốm có các dòng men riêng từ loại men
xanh rêu cùng với nâu và trắng cho đến men rạn với cốt gốm xốp có mầu xám nâu.
− Dựa vào ý nghĩa sử dụng, có thể phân chia loại hình đồ gốm như sau:
Đồ gốm gia dụng: Bao gồm các loại đĩa, chậu hoa, âu, thạp, ang, bát, chén, khay
trà, ấm, điếu, nậm rượu, bình vôi, bình, lọ, choé và hũ.
Trang 16
Kỹ thuật bao bì thực phẩm
Tìm hiểu về bao bì gốm sứ
Đồ gốm dùng làm đồ thờ cúng: Bao gồm các loại chân đèn, chân nến, lư
hương, đỉnh, đài thờ, mâm gốm và kiếm. Trong đó, chân đèn, lư hương và đỉnh là
những sản phẩm có giá trị đối với các nhà sưu tầm đương đại vì lẽ trên nhiều chiếc

có minh văn cho biết rõ họ tên tác giả, quê quán và năm tháng chế tạo, nhiều chiếc
còn ghi khắc cả họ và tên của những người đặt hàng. Đó là một nét đặc biệt trong
đồ gốm Bát tràng.
Đồ trang trí: Bao gồm mô hình nhà, long đình, các loại tượng như tượng nghê,
tượng ngựa, tượng Di Lặc, tượng Kim Cương, tượng hổ, tượng voi, tượng người
ba đầu, tượng đầu khỉ mình rắn và tượng rồng.
2. Trang trí
− Thế kỷ 14–15:
Hình thức trang trí trên gốm Bát Tràng bao gồm các kiểu như khắc chìm, tô
men nâu theo kỹ thuật gốm hoa nâu thời Lý–Trần, kết hợp với chạm nổi và vẽ men
lam.
Khoảng thời gian này đánh dấu sự ra đời của dòng gốm hoa lam đồng thời xuất
hiện những đồ gốm hoa nâu vẽ theo gốm hoa lam.
Đề tài trang trí còn giới hạn trong các đồ án hoa lá, tiếp nối gốm hoa nâu thời
Trần.
− Thế kỷ 16:
Cùng với việc xuất hiện những chân đèn, lư hương có kích thước lớn hơn, kỹ
thuật trang trí chạm nổi kết hợp vẽ men lam đạt đến trình độ tinh xảo.
Đề tài trang trí phổ biến có các loại: rồng, phượng, xen kẽ cụm mây, ngựa có
cánh, hoạt cảnh người, cánh sen đứng, hoa dây, lá đề, phong cảnh sơn thuỷ
Trang trí vẽ men lam còn giữ được nhịp độ phát triển, nhiều loại văn hình học
và hoa lá còn thấy gần gũi với đồ gốm hoa lam xuất hiện cùng thời ở Chu Đậu,
(Hải Dương).
− Thế kỷ 17:
Kỹ thuật chạm khắc, đắp nổi trên gốm Bát Tràng càng tinh tế, cầu kỳ, gần gũi
với chạm đá và gỗ.
Đề tài trang trí tiếp nối thế kỷ 16, đồng thời xuất hiện các đề tài trang trí mới: bộ
tứ linh, hổ phù, nghê, hạc Những đề tài chạm nổi, để mộc điển hình khác như
bông cúc hình ôvan, bông hoa 8 cánh, bông cúc tròn, cánh hoa hình lá đề, cánh sen
vuông, các chữ Vạn-Thọ (chữ Hán)

Trang 17
Kỹ thuật bao bì thực phẩm
Tìm hiểu về bao bì gốm sứ
Việc sử dụng men lam kém dần, tuy đề tài trang trí vẽ tương đồng với chạm
nổi. Thế kỷ 17 xuất hiện dòng gốm men rạn với sự kết hợp trang trí đề tài nổi bật
như rồng, tứ linh, hoa lá, cúc-trúc-mai.
Trong khoảng thời gian này còn xuất hiện loại gốm nhiều màu, nổi trội nhất là
màu xanh rêu với các đề tài trang trí độc đáo: hoa sen, chim, nghê, hình người
− Thế kỷ 18:
Trang trí chạm nổi gần như chiếm chủ đạo thay thế hẳn trang trí vẽ men lam
trên gốm Bát Tràng. Các kỹ thuật đúc nổi, dán ghép, chạm khắc nổi đã thích ứng
với việc sử dụng men đơn sắc (men trắng xám và men rạn).
Đề tài trang trí ngoài bộ tứ linh, rồng, nghê còn thể hiện các loài cây tượng
trưng cho bốn mùa. Ngoài đề tài sen, trúc, chim và hoa lá còn thấy xuất hiện các
loại văn bát quái, lá lật
Hoa văn đường diềm phát triển manh các nền gấm, chữ vạn, cánh sen nhọn,
hồi văn, sóng nước
− Thế kỷ 19:
Gốm hoa lam Bát Tràng phục hồi và phát triển phong cách kết hợp sử dụng
nhiều loại men vào trang trí.
Bên cạnh các đề tài đã có, Bát Tràng còn xuất hiện thêm các đề tài du nhập từ
nước ngoài theo các điển tích Trung Quốc như Ngư ông đắc lợi, Tô Vũ chăn dê, Bát
tiên quá Hải, Ngư ông kéo lưới
3. Các dòng men
Gốm Bát Tràng có 5 dòng men đặc trưng được thể hiện qua mỗi thời kỳ khác
nhau để tạo nên những sản phẩm đặc trưng khác nhau:
− Men lam xuất hiện khởi đầu ở Bát Tràng với những đồ gốm có sắc xanh chì đến
đen sẫm.
− Men nâu thể hiện theo phong cách truyền thống và được vẽ theo kỹ thuật men
lam

− Men trắng ngà sử dụng trên nhiều loại hình đồ gốm từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19,
men này mỏng, màu vàng ngà, bóng thích hợp với các trang trí nổi tỉ mỉ;
− Men xanh rêu được dùng kết hợp với men trắng ngà và nâu tạo ra một đòng Tam
thái rất riêng của Bát Tràng ở thế kỷ 16–17.
− Men rạn là dòng men chỉ xuất hiện tại Bát Tràng từ cuối thế kỷ 16 và phát triển
liên tục qua các thế kỷ 17 – 19.
b. Men lam
Trang 18
Kỹ thuật bao bì thực phẩm
Tìm hiểu về bao bì gốm sứ
Đây là loại men sớm nhất được sử dụng tại Bát Tràng từ thế kỷ 14. Men lam là
men gốm được cộng thêm với gốc màu là oxide Coban. Thợ Bát Tràng sử dụng men lam
đồng thời với kỹ thuật dùng bút lông làm công cụ vẽ trên đồ gốm. Men lam không để
để trần như men nâu mà bao giờ cũng được phủ lớp men mầu trắng bóng, có độ thuỷ
tinh hoá cao sau khi nung. Men lam có sắc độ từ xanh chì đến xanh sẫm. Bên cạnh điểm
tương đồng với các loại bình gốm hoa lam sản xuất ở lò Chu Đậu (Hải Dương), gốm hoa
lam Bát Tràng ngay ở thời kỳ đầu đã có những nét riêng về dáng và về hoạ tiết trang trí.
Những bát, âu, lọ, chân đèn gốm hoa lam của Bát Tràng thế kỷ 14–15 có nét chung dễ
nhận là lối vẽ phóng bút, dù là vẽ phong cảnh, hoa dây lá hay vẽ rồng.
Gốm hoa lam Bát Tràng thế kỷ 16, có sắc xanh đen. Men lam dùng để vẽ mây kết
hợp với trang trí hình rồng nổi để mộc, vẽ cánh sen, các băng đường diềm các cặp chân
đèn ngoài ra men lam dùng vẽ vào các hình trang trí nổi rồng, hoa dây và cánh sen của
chân đèn và lư hương.
Thế kỷ 17 là một thời kỳ men lam kém phát triển tại Bát Tràng. Trên một số các
chân đèn, lư hương, hũ, tượng gốm Bát Tràng (thế kỷ 17) hiện còn, lớp men vẽ trang trí
màu nâu ở những chỗ men phủ màu trắng ngà rạn bị bong tróc, chỗ còn men phủ, màu
nâu có sắc xanh chì, đặc biệt là chân đèn và lư hương, các hình vẽ men lam kém chau
chuốt và tình trạng khá phổ biến men lam chảy nhoè, không nhận ra các họa tiết. Trong
khi đó khắc chạm nổi, để mộc rất tỷ mỉ, đạt tới đỉnh cao.
Cuối thế kỷ 18, trong đỉnh cao về men rạn, Bát Tràng xuất hiện lối kết hợp trang

trí nổi với vẽ lam như trên chân đèn, men lam được khôi phục trở lại trên đồ gốm Bát
Tràng.
Thế kỷ 19, men lam được vẽ trang trí trên lư, choé, bình, lọ, bát hương, nậm rượn
phủ men rạn trắng ngà hoặc đỉnh gốm, bình gốm men nhiều màu. Nét biểu hiện đặc
trưng của men lam gốm Bát Tràng là sắc màu và lối vẽ, nhìn chung có sắc trầm. Dùng
men lam vẽ phong cảnh sơn thủy, nhà cửa, lâu đài, nhân vật khá thành công trên bình.
Men lam có sắc tươi dùng tô vẽ trang trí nồi trên đỉnh có thể là một trong số những tiêu
bản gốm hoa lam đẹp nhất của gốm Bát Tràng ở cuối thế kỷ 19.
Trong xu hướng ảnh hưởng kiểu dáng, đề tài và cạnh tranh thị trường với gốm
sứ Trung Quốc, đồ gốm Bát Tràng ở thế kỷ 19 còn có nhiều trường hợp dùng nhiều màu
men. Chẳng hạn, để thể hiện đê tài Bát Tiên quá hải người thợ Bát Tràng dùng men nâu
và men lam tô lên các hình trang trí nồi sau đó phủ men trắng rạn. Men lam cùng với
men trắng vẽ các đề tài mã liễu, tiêu tượng, tùng lộc trên lư gốm men nâu, men lam vẽ
cành liễu, khóm lan, bụi cỏ trong bức tranh nổi Tô Vũ chăn dê, men lam cùng với men
nâu sắc sẫm và nhạt tạo nên chiếc đỉnh gốm men nhiều màu đồ sộ. Đó cũng là bằng
Trang 19
Kỹ thuật bao bì thực phẩm
Tìm hiểu về bao bì gốm sứ
chứng sinh động về bàn tay tài khéo của nhiều đời thợ gốm Bát Tràng được kế thừa và
không ngừng tiến triển.
Trang 20
Kỹ thuật bao bì thực phẩm
Tìm hiểu về bao bì gốm sứ
c. Men nâu
Một trong số các loại men sử dụng đầu tiên ở Bát Tràng là men nâu, sắc độ màu
của men phụ thuộc nhiều vào xương gốm (xương gốm Bát tràng dày và thường có mầu
nâu xám). Trên các đồ gốm có niên đại thế kỷ 14 đầu thế kỷ 15, men nâu được dùng tô
lên các đồ án trang trí kết hợp với men nền mầu trắng ngà bao gồm chân đèn, thạp,
chậu, âu, đĩa Men nâu có sắc độ đỏ nâu hay gọi là màu bã trầu (chocolate), men này
không bóng, trên bề mặt men thường có vết sần. Men nâu còn được dùng phủ toàn bộ

rồi cạo bỏ phần men tạo thành đồ án hoa văn mộc. Thế kỷ 14, thợ gốm Bát Tràng đã biết
hạn chế sự ảnh hưởng màu men nâu do mộc bằng cách vẽ men nâu trên lớp men trắng
ngà để chuyển men nâu đỏ sang vàng nâu.
Trong các loại hình của nhóm đồ gốm men nhiều mâu thế kỷ 16–17, men nâu
được dùng xen lẫn với men xanh rêu, men ngà, tạo ra các sắc độ khác nhau. Men nâu
giữ vị trí các đường chỉ chia băng, tô lên hoa sen hoặc các hình rồng, đối với lư hương
chữ nhật men nâu tô lên phần chân đế
Các đồ gốm thế kỷ 18 tiếp tục sử dụng men nâu nhiều theo cách thức cổ truyền,
một số nghệ nhân tìm tòi phát huy thêm để làm phong phú màu men này, đặc biệt trên
cặp tượng hổ chế tạo khoảng năm 1740, men nâu dưới lớp men rạn tạo nên bộ da hổ có
màu sắc đa dạng hơn.
Thế kỷ 19, men nâu dùng làm nền cho các trang trí men trắng và xanh. Những
bình, lọ men rạn ngà, thể hiện đề tài trang trí: Ngư ông đắc lợi, tùng hạc, Tô Vũ chăn dê,
Bát tiên quá hải men nâu dùng để tô trên những thân cây tùng, cây liễu hoặc điểm thêm
vào các dải mây, tà áo của Bát tiên. Thế kỷ 19 là thời điểm đánh dấu men nâu đã chuyển
sắc thành một loại men bóng (thường gọi là men da lươn), sử dụng rộng rãi ở Bát Tràng
cho tới tận ngày nay.
d. Men trắng (ngà)
Đây là loại men trắng, nhiều trường hợp ngả màu vàng ngà, bóng khi nhiệt độ
nung đạt độ cao nhưng cũng nhiều trường hợp có màu trắng xám, trắng sữa, đục. Cùng
với kiểu dáng và trang trí, men trắng ngà cũng tạo nên một nét riêng biệt của đồ gốm
Bát Tràng. Men trắng ngà đã thấy sử dụng phủ lên trang trí men lam hay men nâu,
nhưng trong rất nhiều đồ gốm Bát Tràng chỉ thấy dùng men trắng ngà.
Gốm Bát Tràng thế kỷ 17 đạt đỉnh cao trong kỹ thuật trang trí nổi với hầu hết các
thủ pháp kỹ thuật chạm trổ, dán ghép. Men trắng ngà được sử dụng trên các lư hương
để phủ trên các rìa, ước và đường viền ngoài phần trang trí nổi, rất ít khi phủ lên hình
Trang 21
Kỹ thuật bao bì thực phẩm
Tìm hiểu về bao bì gốm sứ
trang trí. Vì men trắng mỏng, xương gốm được lọc luyện kỹ và độ nung cao nên có chất

lượng tốt, một số sản phẩm men trắng ngà phủ lên trang trí nổi dầy vẫn có vết rạn men.
Thế kỷ 18, men trắng ngà còn thấy sử dụng trên một số loại hình khác nhau cùng
trang trí nổi để mộc. Những lư hương tròn được đắp nổi hình rồng và mặt nguyệt, phần
còn lại phủ men trắng ngà.
Vào thế kỷ 19, gốm Bát Tràng chưa mất hẳn kiểu trang trí nổi để mộc, men ngà
còn thấy sử dụng trên các loại bình, lọ, lư hương, tượng tròn. Bình gốm có nắp có các
hình rồng mây và lục bảo trang trí nổi để mộc, phần còn lại phủ men trắng ngà. Trên các
loại bình, lư hương quai tùng, lư hương chữ Thọ; cặp tượng đầu khỉ thân rắn, tượng
rồng trang trí kiến trúc, tượng ba đầu, tượng Phật Bà Quan Âm ngồi trên toà sen đều
thấy sử dụng men ngà, xám.
e. Men xanh rêu
Thế kỷ 14–19 men xanh rêu được dùng khá nổi trội cùng với men trắng ngà và
nâu. Men xanh rêu, men ngà và nâu tạo ra loại Tam thái riêng của gốm Bát Tràng thế kỷ
16–17. Trên chân đèn men xanh rêu tô lên những bông sen nổi, băng hoa tròn của dải
cánh sen các bông hoa tròn hình bánh xe, các hình rồng, các bông hoa nổi đường diềm
quanh vai.
Men xanh rêu còn dùng vẽ mây, tô lên nhiều góc mảng diềm, đế và các cột dọc
của long đình; men rêu sắc sẫm ở các cột vuông mô hình nhà 2 tầng hay một số mảng
đường diềm lư hương chữ nhật. Men xanh rêu, sắc nhạt, trên chân đèn, đế nghê. Trên lư
hương tròn men xanh rêu thấy điểm vào 4 hình chữ S nổi giữa thân và chân cùng một
đôi chỗ trên bụng. Men xanh rêu sắc sẫm còn thấy tô trên một số mảng trang trí nổi,
hình nghê của lư tròn và trên diềm trang trí nổi chân trước tượng nghê.
Men xanh rêu, dù ở các sắc độ khác nhau nhưng sự xuất hiện của nó mang ý
nghĩa rất lớn vì chỉ thấy trên đồ gốm Bát Tràng thế kỷ 16–17 và có thể xem đây là một
dữ kiện đoán định niên đại khá chắc chắn cho các đồ gốm Bát Tràng trên nhiều loại
hình khác nhau.
f. Men rạn
Đây là một loại men độc đáo tạo ra do sự chênh lệch về độ co giữa xương gốm và
men. Cho đến nay các tài liệu gốm men cổ ở Việt Nam xác nhận mang men rạn chỉ được
sản xuất tại lò gốm Bát Tràng từ khoảng cuối thế kỷ 16 và kéo dài tới đầu thế kỷ 20.

Lư hương khắc minh văn, do gia đình Đỗ Phủ sản xuất vào cuối thế kỷ 16 thể
hiện lớp men rạn trên 2 phần dưới của lư hương tròn có thể xem là tiêu bản gốm men
rạn sớm nhất. Men rạn có sắc ngà xám các vết rạn chạy dọc và ngang chia ra nhiều hình
tam giác, tứ giác.
Trang 22
Kỹ thuật bao bì thực phẩm
Tìm hiểu về bao bì gốm sứ
Cặp chân đèn do "Đỗ phủ xã Bát Tràng" tạo tạo khoảng năm 1600–1618, trong đó
men rạn phủ toàn bộ từ miệng tới chân, có màu vàng ngà, rạn trong men, đường chỉ rạn
màu đen. Những cặp hiện vật men rạn này rêu có trang trí nổi, ngoài men rạn ra không
còn loại men nào khác, đó là những tiêu bản men rạn chuẩn mực của Bát Tràng vào thế
kỷ 17.
Thế kỷ 18 Bát Tràng còn sản xuất nhiều đồ gốm men rạn có ghi niên đại. Đỉnh
gốm men rạn chế tạo năm 1736, men rạn có màu trắng xám. Một đỉnh gốm men rạn
khác, có nắp, thân và đế, chế tạo vào khoảng năm 1740–1768 lại dùng men rạn có màu
vàng ngà Men rạn còn được sù dụng trên các loại hình: chân nến trúc hoá long; ấm có
nắp, đài thờ các nắp, cặp tượng nghê.
Thế kỷ 19, các đồ gốm dòng men rạn còn tiếp tục phát triển, bên cạnh việc sử
dụng kết hợp men rạn với trang trí vẽ lam. Trên các đồ gốm, thợ Bát Tràng còn đắp nổi,
khắc chìm hoặc không trang trí, men rạn có mầu trắng xám.
4. Minh văn
− Gốm Bát Tràng nhiều trường hợp có minh văn, thể hiện bằng khắc chìm hay viết
bằng men lam dưới men trắng.
− Một số minh văn cho biết rõ năm sản xuất, họ tên quê quán tác giả chế tạo cùng
họ tên, có khi là cả chức tước của người đặt hàng.
− Minh văn trên gốm: Thuận an phủ, Gia Lâm huyện, Bát Tràng xã, sinh đồ Vũ Xuân
tạo tác…
Trang 23
Kỹ thuật bao bì thực phẩm
Tìm hiểu về bao bì gốm sứ

MEN GỐM
MEN GỐM
Men gốm là một lớp thủy tinh có chiều dày từ 0,15 – 0,4mm phủ lên bề mặt
xương gốm. Lớp thuỷ tinh này hình thành trong quá trình nung và có tác dụng làm cho
bề mặt sản phẩm trở nên sít đặc, nhẵn, bóng.
IV. Công thức và nguyên liệu
− Điều cần thiết đầu tiên là phải tạo được một hỗn hợp chảy lỏng đồng nhất ở nhiệt độ
mong muốn. Men gốm tuy bản chất là thủy tinh nhưng phối liệu không hoàn toàn giống,
bởi thủy tinh thông thường khi nấu có thể chứa trong bể khuấy cho đồng nhất và khử
bọt. Men khi nóng chảy phải đồng nhất mà không cần một sự trợ giúp cơ học nào, nên
phối liệu phải không có vật chất nào không thể tạo pha thủy tinh.
− Điều cần thiết thứ hai là thành phần hóa của men phải gần giống thành phần hóa của
xương gốm. Trong quá trình nóng chảy và ngay sau đó, các oxide trong men phản ứng
với bề mặt xương gốm để tạo nên một lớp trung gian. Phản ứng này rất quan trọng vì
nó ảnh hưởng đến độ bền cơ học của men, nó không chỉ phụ thuộc thành phần hóa học
chung của men mà còn phụ thuộc từng oxide riêng.
− Điều cần thiết thứ ba là hệ số giãn nở nhiệt của men và xương phải phù hợp nhau. Quá
trình làm nguội (giảm nhiệt) xảy ra ngược với quá trình nung (tăng nhiệt). Nếu hệ số
giãn nở nhiệt của men và xương không phù hợp nhau sẽ gây ra bong hoặc nứt men.
− Điều cần thiết thứ tư là thành phần hóa của men phải được điều chỉnh sao cho men có
được các tính chất cơ-lý-hoá-quang mong muốn. Men nung xong phải cứng, nhẵn, bóng
(ngoại trừ men mat). Bên cạnh đó, tính trong suốt, không màu, tính sáng bóng của men
không phải lúc nào cũng như mong muốn. Nếu xương gốm có màu thì phải dùng men
đục để che lấp màu của xương, ngoài ra có thể chế tạo men mat (bề mặt như sáp), men
kết tinh và vô số men màu khác.
2. Công thức
Trong công nghiệp thủy tinh thường dùng thành phần % các cấu tử để so sánh,
nhưng trong công nghiệp gốm sứ, người ta hay dùng tỷ lệ phân tử và tất nhiên có thể
chuyển đổi qua lại giữa hai công thức này. Seger đã đưa ra cách sắp xếp các oxide có
trong thành phần men thành 3 nhóm chính: oxide base, oxide acid và oxide lưỡng tính.

Các nhóm này được sắp xếp theo trình tự sau và tập hợp này được gọi là công thức
Seger của men:
Trang 24
Kỹ thuật bao bì thực phẩm
Tìm hiểu về bao bì gốm sứ
1.RO x. Al
2
O
3
y. SiO
2
z. B
2
O
3
R là biểu hiện cho các kim loại sau: Pb, K, Na, Ca, Mg, Ba, Li, Zn. Đối với men
màu có thể là Co, Ni, Cu, Mn, Fe.
Oxide lưỡng tính nằm xen kẽ giữa oxide base và oxide acid, nhóm này chủ yếu là
Al
2
O
3
. Oxide acid bao gồm SiO
2
là chính, ngoài ra có thể có thêm B
2
O
3
.
Các mol thành phần của oxide acid và oxide lưỡng tính được tính quy đổi theo

chuẩn của oxide base. Tổng các mol thành phần của các oxide base luôn quy về bằng 1.
3. Nguyên liệu
Men gốm là một hệ phức tạp gồm nhiều oxide như Li
2
O, Na
2
O, K
2
O, PbO, B
2
O
3
,
CaO, ZnO, MgO, Al
2
O
3
, Fe
2
O
3
, SiO
2
được đưa vào dưới các dạng sau:
− Nguyên liệu dẻo (plastic): gồm có cao lanh (kaolin), đất sét (clay), bột talc (steatit),
betonit
− Nguyên liệu không dẻo (nonplastic) dưới dạng khoáng: gồm có trường thạch,
đôlômít, đá vôi, cát
− Nguyên liệu không dẻo dưới dạng hóa chất công nghiệp: BaCO
3

, Na
2
CO
3
, K
2
CO
3
,
borax (dân gian gọi là hàn the), acid boric, Cr
2
O
3
, ZnO hoặc các loại frit.
V. Tính chất
1. Trạng thái lỏng
a. Tính chảy lỏng
Men phải chảy lỏng hoàn toàn ở nhiệt độ mong muốn. Kreidl và Weyl đã rút ra
những nguyên lý về sự thay đổi dựa trên cấu trúc để men dễ chảy hơn bao gồm 4 yếu
tố, trong sản xuất thường những yếu tố này để điều chỉnh sự chảy lỏng của men:
− Giảm oxide kiềm và cho thêm acid boric, men sẽ dễ chảy hơn, từ đó giảm hệ số
giãn nở nhiệt và hạ thấp nhiệt độ nóng chảy của men.
− Tăng oxide kiềm và giảm SiO
2
sẽ làm cho men dễ chảy hơn.
− Thay SiO
2
bởi TiO
2
hoặc PbO sẽ làm giảm điểm nóng chảy.

− Thay K
+
bằng Na
+
hoặc Li
+
sẽ làm cho men dễ chảy hơn.
− Thay các anion có hóa trị 1 (như Cl
-
; F
-
;Br
-
) bởi các anion có hóa trị 2 sẽ làm yếu
cấu trúc men, do đó sẽ làm giảm nhiệt độ nóng chảy.
Kiến thức về hỗn hợp eutecti của hỗn hợp chứa oxide nhôm là rất quan trọng vì
oxide nhôm được xem như là một cấu tử chính của men, thế nhưng oxide nhôm lại là
một chất chịu lửa. Khi thêm oxide nhôm vào men, ban đầu nhiệt độ nóng chảy giảm
Trang 25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×