Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Luận văn công nghệ sinh học Đánh giá mô hình ghép chồi cải tạo giống cà phê vối (Coffea canephora var. Robusta) tại vùng chuyên canh cà phê ở Đăk Lăk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 63 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Cây cà phê là cây công nghiệp chiếm một vị trí hết sức quan trọng trong nền
kinh tế của Việt Nam. Cây cà phê được xem là cây mũi nhọn trong chiến lược kinh tế
của Tây nguyên. Ngành cà phê phát triển đã giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho
hàng trăm ngàn lao động, ổn định đời sống, góp phần xóa đói giảm nghèo cho vùng
nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Trong 15 năm (1990 – 2004) Việt Nam đã xuất khẩu cà phê với tổng kim
ngạch xuất khẩu đạt 5.289.620.244 USD. Hiện nay, sản phẩm cà phê Việt Nam cung
cấp đến 40% sản lượng cà phê thế giới, cà phê Việt Nam được biết đến trên 71 quốc
gia và vùng lãnh thổ. Niên vụ 2007 – 2008 Việt Nam đã xuất khẩu 1.077.375 tấn đạt
giá trị 2.087.009 USD.
Theo thống kê của Bộ NN&PTNT, diện tích cà phê cả nước năm 2009 có
khoảng 506.000 ha được trồng từ những năm 80 - 90 của thế kỷ trước, tập trung chủ
yếu ở các tỉnh Tây Nguyên với 469.563 ha chiếm 92,79%, trong đó: Đăk Lăk
178.903 ha, Lâm Đồng 127.668 ha, Gia Lai 76.000 ha, Đăk Nông 72.500 ha, Kom
Tum 14.492 ha.
Cơ cấu giống cà phê hiện nay trong sản xuất: Chủ yếu là cà phê vối chiếm
92,86%; cà phê chè chiếm 6,14%; các giống khác chiếm 0,9%.
Hiện nay diện tích cà phê có tuổi kinh doanh trên 20 năm ngày càng tăng,
hiện có trên 123.107 ha trồng năm 1989 trở về trước chiếm 24,33% tổng diện tích và
diện tích già cỗi có tuổi kinh doanh trên 20 năm trong 5-10 năm tới sẽ tăng nhiều và
chiếm khoảng gần 50% diện tích cả nước (Bộ NN&PTNT, 2009).
Trước đây, hầu hết các diện tích cà phê được trồng bằng hạt (cây thực sinh),
công tác tuyển chọn giống không được người sản xuất chú trọng nên vườn cây khi
đưa vào kinh doanh, thâm canh cho năng suất cao nhưng vẫn có những biểu hiện
vườn cây không đồng đều, năng suất không ổn định do trong vườn có những cây quả
ít, quả nhỏ, cây không có quả và bị bệnh gỉ sắt chiếm tỷ lệ cao.
1
Mặt khác vườn cây cà phê kinh doanh có độ tuổi cao nên năng suất, chất
lượng giảm dần.


Thực tiễn trong sản xuất để khắc phục những yếu điểm trên nhiều hộ nông
dân đã áp dụng biện pháp cải tạo như: cưa đốn nuôi chồi tái sinh, đào bỏ những cây
cho năng suất thấp sau đó trồng lại nhưng hiệu quả đem lại không cao, gây nhiều tốn
kém và cây con dễ bị cạnh tranh về ánh sáng dinh dưỡng, nước bởi các cây lớn
xung quanh.
Vì vậy cần phải có giải pháp để nâng cao hiệu quả sản xuất, giúp ngành cà
phê Việt Nam nói chung và ở Đăk Lăk nói riêng phát triển bền vững thì nhất thiết
phải áp dụng đồng bộ các giải pháp như: thay thế các giống cũ năng suất kém bằng
các giống đã được chọn lọc có năng suất, chất lượng cao và kháng được bệnh gỉ sắt;
việc áp dụng kỹ thuật ghép chồi thay thế để cải tạo vườn cây cà phê vối kinh doanh
cho phép nâng cao sản lượng và chất lượng sản phẩm cà phê.
Xuất phát từ thực tế trên tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá mô hình
ghép chồi cải tạo giống cà phê vối (Coffea canephora var. Robusta) tại vùng
chuyên canh cà phê ở Đăk Lăk”. Nhằm mục đích góp phần nâng cao hiệu quả kinh
tế trong việc sản xuất cà phê tại Đăk Lăk.
1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài
1.2.1. Mục tiêu
Đánh giá mô hình ghép cải tạo bằng các dòng vô tính cà phê vối, thông qua đó
đề ra các biện pháp kỹ thuật để cải tạo vườn cà phê vối kinh doanh hiện nay cho
năng suất thấp, chất lượng kém, nhằm góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản
phẩm xuất khẩu.
1.2.2. Giới hạn đề tài
Vì thời gian quá ngắn nên kết quả nghiên cứu chỉ bổ sung thêm một số chỉ
tiêu về sinh trưởng sau ghép, theo dõi năng suất bằng cách giám định. Còn lại dựa
trên cơ sở các kết quả nghiên cứu cụ thể trước đó về 5 DVT cà phê vối đã được công
2
nhận của viện KHKT NLN Tây Nguyên, kế thừa các số liệu đã có về năng suất thực
thu, bệnh gỉ sắt, phẩm cấp hạt qua nhiều năm.
Đánh giá sơ bộ hiệu quả kinh tế của các mô hình ghép tại 2 điểm khảo nghiệm
trên địa bàn Đăk Lăk.

3
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Đặc điểm nông sinh học cây cà phê vối
2.1.1. Phân loại thực vật
Cà phê vối (Coffea canephora) thuộc chi Coffea, nhóm Eucoffea, họ
Rubiaceae, bộ Rubiales, số lượng nhiểm sắc thể của chi Coffea là x=11. Coffea
canephora là loài nhị bội (2n=22). Do tính bất hợp nên trong tự nhiên cũng như
trồng trọt, các quần thể cà phê vối rất đa dạng về hình thái, gồm những cá thể mang
tính dị hợp cao độ [3].
Bộ Rubiales
Họ Rubiaceae
Chi Coffea
Nhóm Eucoffea
Loài Coffea canephora
2.1.2. Nguồn gốc xuất xứ và phân bố cây cà phê vối
Cà phê vối có nguồn gốc từ Trung Phi, phân bố rải rác dưới các tán rừng thưa,
thấp thuộc vùng châu thổ sông Congo khoảng giữa 10
0
vĩ Bắc và 10
0
vĩ Nam. Cà phê
vối từ Tây Phi và Madagascar đưa sang Nam Mỹ và Amsterdam vào năm 1899, sau
đó từ Amsterdam đưa sang Java vào năm 1900 và sau đó từ Java lại trở về Châu Phi
vào năm 1912. Cà phê vối được trồng phổ biến, chiếm gần 40% tổng diện tích cà phê
của thế giới và khoảng 35% tổng sản lượng cà phê xuất khẩu hằng năm, các nước
trồng cà phê vối gồm có: Cameroom, CoteDivoire, Angola, Cộng hoà trung phi,
Congo, Guine xích đạo, Gabon, Ghana, Guinea, Indonesia, Lebiria, Madagascar,
Nigievia, Philipines, Sireleane, Srilanca, Thailan, Togo, Trinidat và Tolago, Uganda,
Việt Nam và Zaire.
Các giống cà phê vối được trồng phổ biến là giống Rubusta và giống Kouilou:

Giống Rubusta (C.canephora var. Robusta) được trồng nhiều nhất ở các nước
Châu phi, Indonesia, Ấn Độ và Việt Nam, chiếm 90% tổng diện tích cà phê vối của
4
thế giới. Đặc trưng của giống này là cây to, khoẻ, tán thưa, lá to, đốt dài, ít cành thứ
cấp, quả, hạt to, chín muộn và cho năng suất cao, kháng chịu tốt với các loại sâu
bệnh hại như: tuyến trùng, bệnh gỉ sắt, nhưng khả năng chịu hạn kém.
Giống Kouillou (C.canephora var. Kouillou): chủ yếu được trồng ở các nước
Congo, CotedIvoire và Châu Mỹ la tinh. Đặc trưng của giống là: cây nhỏ, dạng bụi
nhiều cành thứ cấp, lá nhỏ, hẹp, xoăn, quả, hạt nhỏ năng suất thấp, khả năng chịu hạn
tốt nhưng lại mẩn cảm với bệnh gỉ sắt và bệnh rễ gây tắc mạch do nấm Fusarium
Xylarioides gây ra.
Đối với Việt Nam cây cà phê đầu tiên được đưa vào năm 1857 và được nhập
vào để trồng thử năm 1888. Giai đoạn đầu được trồng thử tại một số nhà thờ ở Ninh
Bình, Quảng Bình và mãi tới đầu thế kỷ XX mới được trồng ở các đồn điền thuộc
Phủ Quỳ (Nghệ An) và một số nơi ở Tây Nguyên. Mãi tới năm 1920 trở đi cây cà
phê mới thực sự có điện tích đáng kể, đặc biệt là ở Buôn Ma Thuột tỉnh Đăk Lăk [3].
Theo Nguyễn Sỹ Nghị (1982) dưới thời Pháp thuộc trại cà phê Phú Hộ (Vĩnh
Phú) đã có nhập nội trồng cả hai nhóm Rubusta và Kouillou. Cà phê vối trồng ở
Miền Nam du nhập từ Java và Cộng Hoà Trung Phi (Trebel, 1996). Cây cà phê Việt
Nam phân bố địa lý gồm hai vùng chủ yếu sau:
Miền Bắc, vùng chủ yếu trồng cà phê Arabica: đặc điểm vùng này là có mùa
đông lạnh và có những đợt mưa phùn nên phát triển cà phê Arabica là chủ yếu, một
số vùng Nam khu bốn cũ có nền nhiệt độ cao nên có thể trồng được cà phê Robusta
nhưng hiệu quả không cao và không ổn định.
Miền Nam, vùng cà phê Robusta là chủ yếu: đặc trưng khí hậu vùng này là
khí hậu nhiệt đới gió mùa khá điển hình với hai mùa tương phản sâu sắc là mùa mưa
và mùa khô.
2.1.3. Đặc tính thực vật học cây cà phê vối
2.1.3.1. Hệ thống rễ cây cà phê
Bộ rễ cây cà phê gồm có: rễ cọc và rễ phụ.

Rễ cọc được hình thành từ phôi mầm, rễ cọc thường là một rễ to khoẻ,
mọc thẳng, ăn sâu xuống đất từ 1,2 – 1,5m (tùy loại đất trồng).
5
Các rễ phụ mọc từ rễ cọc và đâm thẳng xuống sâu làm nhiệm vụ hút nước
nuôi cây. Các rễ ngang mọc từ rễ phụ đâm vào đất theo nhiều hướng khác nhau, các
rễ ngang phát triển thành hệ thống, phần đầu là các lông hút phát triển dày đặc làm
nhiệm vụ hút dinh dưỡng. Rễ cây cà phê vối tập trung ở tầng đất mặt từ 0 – 30cm,
chiếm trên 80% trọng lượng của cả bộ rễ.
Bộ rễ của cây cà phê thuộc loại háo khí, rễ tơ phấn bố chủ yếu ở tầng đất mặt,
chức năng chủ yếu là hút dinh dưỡng, nước trong đất để cung cấp cho cây nên trong
sản xuất cần có biện pháp bảo vệ, chăm sóc nhằm hạn chế tác động, ảnh hưởng đến
rễ.
2.1.3.2. Thân, cành, lá
- Thân: cà phê là loại cây nhỏ, trong điều kiện để tự nhiên cao từ 8 – 12m và
có rất nhiều thân do khả năng phát sinh chồi vượt rất mạnh, thân thuộc loại gỗ, cứng,
mọc thẳng, thân có nhiều đốt, mỗi lóng (đốt) dài 7 – 14cm tuỳ theo điều kiện ngoại
cảnh và giống. Khi cây còn non phân biệt rất rõ đốt, mỗi đốt có 2 lá, mỗi nhánh lá có
vùng mầm. Vùng mầm phía trên hình thành quả, vùng mầm phía dưới hình thành
chồi vượt.
- Cành: đặc điểm cành cà phê vối có cành cơ bản to, khoẻ vươn dài nhưng khả
năng phát triển cành thứ cấp ít hơn so với các giống cà phê khác. Cành mọc đối
xứng, mộc hoá chậm và tuỳ sinh thái từng vùng có khả năng phân cành ít hay nhiều,
trong điều kiện thích hợp để phát triển được thêm một cặp cành hay một đôi lá phải
cần một thời gian từ 25 – 30 ngày. Cây con sau khi trồng được khoảng 1 năm có khả
năng phát triển từ 12 – 14 cặp cành. Sự ra cành của cà phê trên thân theo quy luật đối
xứng (mỗi một đốt có cặp cành đối xứng) [3]. Cành cà phê có vai trò rất quan trọng,
có ảnh hưởng đến bộ tán cây và năng suất, sản lượng.
Cành quả: cành mọc từ thân chính còn gọi là cành cơ bản (cành cấp 1), mọc
thẳng góc với thân hoặc tạo thành một góc nhỏ hơn 90
0

, cành quả quyết định đến
năng suất cà phê trên cây giai đoạn kiến thiết cơ bản vì đây là giai đoạn cành mang
quả và từ cành cấp 1 phát triển thành các cành thứ cấp. Các cành cấp 1 nếu gãy sát
thân thì nó không có khả năng tái sinh vì vậy gây nên hiện tượng khuyết tán, từ cành
thứ cấp phát triển cành tăm, cành chùm là những cành ít có khả năng cho quả nhưng
6
lại tranh chấp dinh dưỡng, ánh sáng do đó cần phải cắt tỉa thường xuyên, hằng năm
người lao động phải đầu tư công để cắt tỉa, tạo cho bộ tán cây được thông thoáng,
hạn chế sâu bệnh phát triển. Tùy giống mà số lượng cành này phát triển nhiều hay ít.
Cành vượt (chồi vượt) mọc từ thân, song song với thân, có khả năng tạo thân,
giữ đặc tính di truyền của giống cây mẹ và không có khả năng tạo ra quả. Trong sản
xuất cành vượt thường được sử dụng để tạo thêm thân (nuôi chồi) từ 1 – 2 thân/gốc,
nuôi thân tạo tán đối với cây bị khuyết tán và đối với những giống tốt thì chồi vượt
còn làm nguyên liệu sử dụng trong nhân giống.
- Lá: lá cà phê mọc đối, phiến lá to, hình bầu hoặc mũi mác, có màu xanh xám
hoặc đậm, đuôi lá nhọn, mép lá thường gợn sóng, mặt lá hơi gồ ghề, chiều rộng từ 10
– 15 cm, chiều dài từ 10 – 40 cm, trên lá có từ 8 – 13 đôi gân lá [3].
Thân, cành, lá cà phê có vai trò quyết định đến năng suất vườn cây. Để phát
huy, sử dụng có hiệu quả quy luật phát triển cành lá thì cần phải có những biện pháp
kỹ thuật tác động. Vườn cây trong giai đoạn kinh doanh hàng tháng phải tiến hành
đánh chồi, tỉa cành tăm và sau mỗi vụ thu hoạch phải tiến hành tạo hình để bộ tán
cây phát triển cân đối, thông thoáng, hạn chế sâu bệnh phát triển và để ổn định năng
suất hằng năm.
2.1.3.3. Hoa cà phê:
Cấu tạo hoa cà phê vối: hoa cà phê vối mọc trên các nách lá ở các đốt cành
ngang thành từng chùm khoảng từ 1 – 5 cụm, lượng hoa trên cụm ở mỗi nách lá rất
nhiều, có thể lên tới 80 – 100 hoa, tràng hoa màu trắng, lúc nở có mùi thơm, có 3 – 4
tràng/hoa, số lượng nhị đực bằng số lượng tràng hoa, có một nhuỵ cái, đầu nhuỵ chia
2 mảnh, bầu nhị là bầu hạ [3].
2.1.3.4. Quả cà phê

Quá trình thụ tinh và hình thành nội nhủ non: tính bất hợp ở cây cà phê vối đã
được rất nhiều tác giả nghiên cứu. Theo Berthaud (1980) thì tính tự bất hợp ở cây cà
phê vối thuộc loại bất hợp ở thể giao tử do các đơn alen S
1
, S
2
, S
3
,…S
n
quy định khi
hạt phấn có mang một alen S nào đó trùng với alen của bầu nhuỵ thì bầu nhuỵ sẽ kìm
hãm không cho ống mầm của hạt phấn phát triển tiến sâu vào noãn để thụ tinh.
7
Sau quá trình thụ phấn, thụ tinh thì từ một bầu nhuỵ ban đầu của hoa cà phê
có thể phát triển tiến sâu vào noãn để thụ tinh.
Sau quá trình thụ phấn, thụ tinh thì từ một bầu nhuỵ ban đầu của hoa cà phê
có thể phát triển thành 3 loại khác nhau là:
- Quả cà phê có 2 bầu noãn, không được thụ tinh để hình thành loại quả chỉ có
2 mu vẩy, loại quả này không tiếp tục phát triển và sẽ rụng đi trong khoảng
một vài tháng sau đó.
- Quả cà phê chỉ có một bầu noãn được thụ tinh để hình thành một nội nhũ non,
còn bầu noãn kia không được thụ tinh và hình thành một mu vẩy. Loại quả
này tiếp tục phát triển cho ra quả chỉ có một nhân dạng hình tròn gọi là hạt
Caracolis.
- Quả có hai bầu noãn để phát triển hình thành nên hai nội nhủ non, loại quả
này trong điều kiện thuận lợi sẽ phát triển thành một quả có hai nhân bình
thường.
+ Quá trình phát triển và hình thành hạt cà phê: sau khi được thụ tinh quả cà phê
tiếp tục phát triển qua nhiều giai đoạn.

+ Quả cà phê: hình trứng hoặc tròn, núm quả to, lồi hoặc bằng, cuống quả ngắn
và dai hơn cà phê chè, thường có hai hoặc 3 ngăn chia thành 2 phần chính.
Phần ngoài: gồm vỏ bọc và thịt quả, khi non có màu xanh, vị chát, chín có
màu đỏ hoặc vàng vị ngọt. Vỏ thịt ít bám chắc vào hạt nên dễ xát tươi.
Phía trong gọi là hạt: ngoài cùng là lớp vỏ cứng, lớp vỏ lụa bám chắc vào hạt,
hạt dạng hình tròn, ngắn và nhỏ hơn so với cà phê chè, có màu xám xanh lục hay
vàng tuỳ theo phương pháp chế biến và bảo quản. Hạt bầu dục có hai mặt lưng và
bụng, mặt bụng có rãnh nhỏ, cuối một rãnh có một lỗ nhỏ để phôi rễ, phôi mầm chui
ra. Tỷ lệ tươi/nhân: 4 – 6, hàm lượng cafein 1,97 – 3,6% [3].
Trong giai đoạn nở hoa và tung phấn, nếu lượng nước cung cấp cho cây
không đủ sẽ dẫn đến hiện tượng hoa không nở gọi là hiện tượng hoa chanh. Vì vậy
cần phải cung cấp đầy đủ nước khi tưới trong mùa khô, quá trình tung phấn nếu gặp
điều kiện gió to, mưa sẽ làm rụng hoa, thối hoa ảnh hưởng đến quá trình thụ phấn thụ
8
tinh dẫn đến hiện tượng hoa không được thụ phấn hoặc hạt một nhân. Nắm vững quá
trình hình thành và phát triển quả cà phê để có những biện pháp kỹ thuật tác động
giúp cho quả cà phê phát triển trong điều kiện tốt nhất.
2.1.4. Yêu cầu sinh thái cây cà phê vối
Cà phê là loại cây công nghiệp lâu năm, đòi hỏi nghiêm ngặt yêu cầu sinh
thái. Nắm vững yêu cầu sinh thái của cây cà phê giúp cho chúng ta phân vùng quy
hoạch để trồng các giống cà phê sao cho phù hợp và áp dụng các biện pháp kỹ thuật
sẽ hạn chế những bất lợi của điều kiện tự nhiên ảnh hưởng đến sinh trưởng phát triển
của cây cà phê nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Ngay tại Đăk Lăk là vùng có điều kiện sinh thái thích hợp cho cây cà phê vối
sinh trưởng và phát triển cho năng suất cao nhưng vẫn có những vùng cho năng suất
không cao, hiệu quả kinh tế thấp như những vùng ở các huyện: Lăk, Eakar, Krông
Năng, MaDrăk. Ở những vùng này cây cà phê phát triển xanh tốt nhưng năng suất
thấp. Nguyên nhân là ở những vùng này không có mùa khô rõ rệt, cây cà phê khi nở
hoa hay gặp những trận mưa làm cho cây không thụ phấn được. Do đó khi phân vùng
quy hoạch để trồng cà phê cần phải đặc biệt chú ý đến yếu tố khí hậu, đất đai.

2.1.4.1. Yêu cầu về khí hậu
- Nhiệt độ: nhiệt độ là yếu tố mang tính giới hạn đối với sự phát triển, sinh
trưởng của cây cà phê, cây cà phê cần nhiệt độ thích hợp từ 24 – 30
0
C, thích hợp nhất
là 24 – 26
0
C. Cà phê vối chịu rét kém, ở nhiệt độ 7
0
C cây ngừng sinh trưởng và từ
5
0
C trở xuống cây bắt đầu bị gây hại nghiêm trọng. Độ cao và sự chênh lệch về nhiệt
độ giữa các tháng trong năm, biên độ nhiệt giữa ngày và đêm có ảnh hướng rất lớn
đến chất lượng cà phê, đặc biệt là hương vị của hạt. Giai đoạn hạt cà phê được hình
thành và tích luỹ chất khô nếu nhiệt độ càng xuống thấp và chênh lệch biên độ giữa
ngày và đêm càng cao thì chất lượng cà phê càng cao. Những vùng này hay xuất hiện
sương muối, gió rét và gió nóng đều bất lợi đến sự sinh trưởng và phát triển của cây
cà phê.
- Lượng mưa: cây cà phê vối thường ưa thích với điều kiện khí hậu nóng ẩm,
ở những vùng có độ cao thấp nên cần một lượng mưa trong năm khá cao từ 1.500 –
9
2.000 mm và phân bố tương đối đều trong 9 tháng. Cà phê vối là cây thụ phấn chéo
bắt buộc nên phải có có một thời gian khô hạn ít nhất là 2 – 3 tháng sau giai đoạn thu
hoạch để phân hoá mầm hoa. Vào giai đoạn lúc cây nở hoa yêu cầu phải có thời tiết
khô ráo không có mưa.
Lượng mưa ảnh hưởng trực tiếp đến các giai đoạn sinh trưởng và phát triển
của cây cà phê, lượng mưa trong năm thấp ảnh hưởng đến quá trình phân hoá mầm
hoa, nở hoa. Khi lượng mưa khá cao, phân bố không đều giữa các tháng trong năm
thì quá trình sinh trưởng dinh dưỡng lớn hơn quá trình sinh trưởng thực, vì vậy cây

cà phê rất ít quả, cây dễ bị sâu bệnh hại.
Điều kiện khí hậu Đăk Lăk hình thành 2 mùa rõ rệt, mùa mưa kéo dài từ tháng
4 đến tháng 10, lượng mưa chiếm 90%, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau
nhưng lượng mưa chỉ chiếm từ 10 – 15%, kèm theo gió hướng Đông Bắc thổi mạnh.
Vì vậy mùa khô ở đây thường rất gay gắt, mùa khô kéo dài nên vần đề tưới nước cho
cây cà phê trong mùa khô gặp nhiều khó khăn. Hằng năm tuỳ theo điều kiện khí hậu
thời tiết và chất lượng vườn cây để quyết định số lần tưới/năm, thường từ 3 – 4 lần,
áp dụng tưới dí hoặc tưới phun mưa. Lượng nước tưới dí 500 – 600 lít/gốc/ha/lần,
tưới phun mưa từ 600 – 700 m
3
/ha/lần. Vì vậy vấn đề đặt ra cho vùng chuyên canh cà
phê vối của tỉnh là cần phải có những giải pháp kỹ thuật canh tác, chế độ chăm sóc
hợp lý để hạn chế quá trình rửa trôi, xói mòn đất, dinh dưỡng, sâu bệnh phát sinh
trong mùa mưa và giảm khả năng thoát hơi nước, ảnh hưởng của gió trong mùa khô.
- Độ ẩm: đối với cây cà phê vối yêu cầu độ ẩm không khí từ 80 – 85%, độ ẩm
ảnh hưởng rất lớn đến sinh trưởng cây cà phê, khi độ ẩm không khí cao, thấp đều bị
ảnh hưởng. Độ ẩm không khí cao thuận lợi cho sâu bệnh hại phát triển và ngược lại
độ ẩm không khí thấp làm tăng quá trình bốc, thoát hơi nước trên bề mặt lá, đất làm
cho cây cà phê bị thiếu nước dẫn đến cây bị héo. Độ ẩm đất thấp hạn chế sự hút nước
của rễ, hệ thống rễ tơ phát triển chậm làm ảnh hưởng đến quá trình hút dinh dưỡng,
nước để cung cấp cho cây [3]
Mùa khô ở Đăk Lăk độ ẩm không khí rất thấp chỉ đạt 60 – 70%, kèm theo gió
mạnh càng làm cho cây cà phê thiếu nưới trầm trọng dẫn đến rụng lá, khô cành, khô
quả. Vì vậy để hạn chế sự thoát hơi nước, hạn chế tác hại khi độ ẩm không khí thấp
10
cần phải có hệ thống đai rừng chắn gió, cây che bóng và tủ gốc giữ ẩm cho cây cà
phê.
- Ánh sáng: cà phê vối là cây thích ánh sáng trực xạ yếu ( nguyên quán cà phê
vối mọc rải rác ở ven bìa rừng ở Châu phi), ở những nơi có ánh sáng trực xạ, có
cường độ mạnh thì cây cà phê vối cần che bóng để điều hoà ánh sáng, điều hoà quá

trình quang hợp của cây. Mỗi giai đoạn phát triển khác nhau thì yêu cầu ánh sáng đối
với cây cà phê cũng khác nhau, thời kì cây con nếu ánh sáng mạnh và không được
che bóng dẫn đến cây chậm phát triển, đốt thân ngắn. Thời kì cây lớn, cường độ sáng
liên quan đến quá trình quang hợp, khi cường độ ánh sáng yếu thì cường độ quang
hợp tỷ lệ thuận với cường độ ánh sáng. Thời gian chiếu sáng cũng ảnh hưởng đến
sinh trưởng, khi xử lý nhân tạo chiếu sáng 13 giờ/ngày thì mầm hoa không phát triển
mà chỉ phát triển dinh dưỡng.
- Gió: gió cũng là tác nhân gây bất lợi đối với cây cà phê, khi gió lặng, gió
nhẹ giúp tăng khả năng thụ phấn, tăng cường độ quang hợp và tăng quá trình vận
chuyển dinh dưỡng cho cây cà phê. Gió lớn làm tăng quá trình thoát hơi nước, làm
rụng hoa, quả cà phê. Vùng Tây Nguyên nói chung và Đăk Lăk nói riêng trong
những tháng mùa khô có gió hướng Đông Bắc thổi mạnh, vì vậy cần phải trồng hệ
thống đai rừng để chắn gió giúp cho cây cà phê phát triển tốt trong điều kiện mùa
khô.
2.1.4.2. Yêu cầu về đất đai
Cà phê là loại cây công nghiệp lâu năm, có chu kì kinh doanh dài trên 20 năm,
có bộ rễ, thân, cành lá phát triển mạnh và hàng năm cung cấp khối lượng lớn sản
phẩm. Vì vậy đất trồng cà phê phải phù hợp đặc tính thực vật học, đặc biệt là bộ rễ
rất háo nước nên đất phải giàu dinh dưỡng, tơi xốp và khả năng thoát nước tốt.
Cà phê có thể trồng trên nhiều loại đất khác nhau, trong đó đất bazan là một
trong những loại đất rất lý tưởng để trồng cà phê vì các đặc điểm lý, hoá tính tốt và
tầng canh tác dầy. Đất trồng cà phê phải tơi xốp, tầng canh tác dầy, có mức nước
ngầm thấp, giữ, thoát nước tốt và yêu cầu lý tính đất nghiêm ngặt hơn cả hoá tính.
11
Tính chất vật lý, hoá học đất: tính chất vật lý quan trọng hơn so với tính chất
hoá học, để cải tạo được tính chất vật lý cần phải trải qua một thời gian dài và rất khó
cải tạo. Trong tính chất vật lý đất thì cấu tượng và độ sâu tầng dày đất là hai yếu tố
quan trọng nhất.
Tầng đất càng dày thì bộ rễ phát triển càng mạnh, rễ có thể đâm sâu để hút
nước, dinh dưỡng ở các tầng đất sâu hơn. Nếu tầng đất quá mỏng bộ rễ cà phê không

có khả năng ăn sâu nên khả năng chịu hạn của cây kém.
Cấu tượng đất: tỷ lệ kết von, cấu tượng đoàn lạp và độ tơi xốp đất cũng là
những yếu tố quan trọng đối với cây cà phê. Bộ rễ cà phê có đặc tính rất hảo khí nên
đất trồng phải thoáng khí, không ngập úng, giữ nước tốt trong mùa khô nhưng lại
thoát nước tốt trong mùa mưa. Khi trồng trên những đất bị nén chặt, thoát nước kém
dẫn đến cây cà phê bị thối rễ, thiếu oxy đẫn đến bị chết.
Hàm lượng mùn và các chất dinh dưỡng trong đất: đất trồng cà phê phải có
hàm lượng mùn trên 3%, hàm lượng mùn cao thì đất càng tơi xốp và khả năng hấp
thu các chất dinh dưỡng khoáng cao hơn. Vì vậy đối với những đất có hàm lượng
mùn thấp cần phải có biện pháp cải tạo trước khi trồng. Các chất dinh dưỡng, ngoài
đạm, kali là hai nguyên tố quan trọng đối với cây cà phê thì các nguyên tố đa lượng,
vi lượng khác không thể thiếu trong quá trình sinh trưởng phát triển như: lưu huỳnh,
kẽm, magie, bo…
Cà phê vối sinh trưởng, phát triển ở pH khá rộng 4 – 7,5, đất bazan được coi
là loại đất lý tưởng nhất để trồng cà phê do tầng canh tác dày mà còn có các tính chất
lý hoá thích hợp với yêu cầu của cây cà phê. Đất bazan thường có cấu trúc tượng
đoàn lạp thể bền vừng, độ tơi xốp cao 60 – 65%, dung trọng thấp (0,8 – 1), thoát
nước nhanh, thoáng khí, khả năng giữ ẩm tốt [3].
2.1.5. Sâu bệnh hại cà phê
Cà phê là cây lâu năm, sống trên đất trong suốt thời gian dài, phát triển, sinh
trưởng trong điều kiện có cây che bóng và hệ thống khí sinh phát triển mạnh, đặc
biệt là bộ lá xanh quanh năm nên ẩm độ đất luôn luôn cao, rất thuận lợi cho sâu bệnh
12
phát triển phá hoại. Tuy nhiên trong đề tài này tôi chỉ chú trọng bệnh chính là bệnh
gỉ sắt cho cà phê.
2.1.5.1. Bệnh gỉ sắt (Hemileia vastatrix B & Br)
Đây là bệnh hại lá, gây hại nặng trên cây cà phê chè nhưng trong năm gần đây
bệnh lại xuất hiện trên cây cà phê vối, tỷ lệ cây bị bệnh hiện nay đã lên đến 50%
thậm chí có vườn 70 – 85% và gây rụng gần hết lá, dẫn đến hiện tượng khô cành,
năng suất thấp, không ổn định hoặc cây bị chết.

Bệnh do nấm Hemileia vastatrix B & Br gây ra, thuộc họ Pocinniaceae, bộ
Uredinales, lớp nấm đảng (Basidiomey cetes), số cây bị bệnh trên cà phê vối được
chia làm hai dạng như sau:
+ Bệnh phát sinh tháng 6, phát triển mạnh vào các tháng 7- 8 đỉnh cao tháng
12 - 1 chiếm tỉ lệ 10% số cây bệnh, tỷ lệ bệnh trung bình cao nhất 90%, chỉ số bệnh
trên 30% các cây ở dạng này là những cây cà phê nặng.
+ Bệnh phát sinh đầu mùa mưa, phát triển mạnh tháng 12, đạt đỉnh cao vào
tháng 1, tỷ lệ lá bị bệnh dưới 40%, chỉ số bệnh dưới 2%, khoảng 20% số cây bị bệnh.
• Phòng trừ:
- Sử dụng giống kháng bệnh
- Loại bỏ các cây con bị bệnh trước khi trồng
- Ghép chồi để thay thế các cây bị bệnh nặng
- Sử dụng các loại thuốc hóa học: Tilt, Bamper, Sumi-eight, Bayleton nồng độ
0,1% hay Anvil nồng độ 1% [3].
13
2.2. Cơ sở khoa học của nhân giống vô tính bằng phương pháp ghép
Ghép là sự kết hợp của một bộ phận cây này với một bộ phận của cây khác
tạo thành một tổ hợp cùng sinh trưởng, phát triển như một cây thống nhất và gọi là
cây ghép.
Khi bóc vỏ một thân hoặc một chồi non thì thấy giữa lớp vỏ và gỗ có những tế
bào trong dính nhau nhơn nhớp (nhầy) đó gọi là mô phân sinh rất quan trọng trong
tầng sinh gỗ. Tế bào của tầng sinh gỗ nhân lên thành gỗ bên trong và vỏ bên ngoài
tạo nên mạch dẫn nuôi cây
Chẻ ngọn gốc ghép và vạt chồi ghép tức là tạo điều kiện cho tầng sinh gỗ giữa
chồi ghép và gốc ghép tiếp xúc nhau, sự tiếp xúc giữa hai tầng sinh gỗ chặt chẽ nên
tế bào mô mềm của cả hai phía chẳng bao lâu sẽ hợp nhau thành mô tiếp xúc gọi là
mô sẹo. Những tế bào mô sẹo được hình thành với tầng sinh gỗ của gốc ghép và chồi
ghép phân hoá thành một tầng phân sinh mới. Tầng phân sinh này sinh ra các mô dẫn
hình thành hệ thống dẫn nhựa mới, từ đó mà nhựa nguyên (nhựa sống) ở gốc ghép có
thể cung cấp cho cành ghép phát triển thân lá và ngược lại nhựa luyện (nhựa chín )

do lá của chồi ghép tổng hợp được vận chuyển xuống nuôi rễ. Quá trình diễn ra như
trên thì cây ghép sống
2.2.1. Ý nghĩa của ghép nối ngọn
+ Việc chuyển các cây không cho năng suất của một giống thành những cây
có tiềm năng năng suất của cùng một giống hay khác giống.
Người ta thực hiện ghép nối ngọn trong 2 trường hợp:
- Chỉ chuyển những dạng không điển hình để duy trì độ thuần của lô thí
nghiệm.
- Chuyển một ô từ giống này sang một ô giống khác bằng cách ghép trên toàn
lô thí nghiệm.
+ Trong đời con vô tính của những loài thụ phấn chéo thu được từ một cây
mẹ, không đậu quả do tự bất hợp. Trong điều kiện này có thể đạt được một tỉ lệ đậu
quả thành công nhờ vào ghép nối ngọn chồi tương hợp của giống thụ phấn theo
phương thức rải rác ở cả vườn.
14
+ Có thể tạo ra hạt lai bằng cách ghép hai bố mẹ trên một hệ thống rễ của một
cây.
+ Trong cây tự bất thụ có thể thu được quả bằng cách ghép chồi có khả năng
thụ phấn tương hợp lên thân của cây vô sinh đã nói ở trên.
+ Đôi khi một giống có tiềm năng năng suất có một vài khuyết điểm như hệ
thống rễ kém, mẫn cảm với hạn hoặc mất nhiều thời gian cho giai đoạn kiến thiết cơ
bản. Những khó khăn này của giống có thể khắc phục được bằng cách ghép nó lên
gốc ghép có hệ thống rễ sinh trưởng khoẻ và chịu hạn tốt.
+ Bằng cách ghép nối ngọn, có thể tránh được chi phí cho nhổ rễ, trồng lại và
thời gian dài sau trồng lại.
Thông thường những cây này được nhổ lên và trồng lại bằng cây con mới.
Quá trình này mất nhiều thời gian và tiền bạc hơn trong thời kỳ kiến thiết cơ bản
cũng như giai đoạn kinh doanh. Hơn nữa người ta vẫn còn nghi ngờ tính xác thực
của việc tạo nên đời con bằng hạt. Không có rễ ở những cây không mong muốn, tính
đồng đều trong quần thể cây trồng có thể được duy trì bằng cách áp dụng kỹ thuật

ghép nối ngọn để cải thiện năng suất.
Với cà phê vối đã thử nghiệm nhiều kiểu ghép và kết quả rất biến thiên. Mặc
dù các cá thể được tinh dòng hóa thì đồng nhất về di truyền nhưng sinh trưởng của
cây ghép cũng chịu ảnh hưởng phần nào của gốc ghép do sức sống của gốc ghép
hoặc do phản ứng không phù hợp trong tổ hợp ghép, sự không hợp nhau giữa các
loài cũng có thể xảy ra ( Plantnium Jubilee, 1925 – 2000).
Việc thay thế phần trên ngọn của một cây bằng ngọn của một giống khác hoặc
cùng một giống có những đặc tính mong muốn được gọi là ghép chồi
Ghép có 3 phần, đó là: chồi ghép, gốc ghép và nơi ghép.
+ Chồi ghép: Chồi ghép là một phần nhỏ của chồi được đính từ cây mẹ mong
muốn và có nhiều mầm ngủ, những mầm này sau ghép trở thành ngọn cây.
+ Gốc ghép: Gốc ghép là phần thấp hơn của cây ghép dưới vết ghép, là nơi
giúp cây bám giữ trên mặt đất qua hệ thống rễ của nó.
15
+ Nơi ghép: Nơi ghép là nơi hoà lẫn của chồi và gốc đưa chất dinh dưỡng từ
hệ thống rễ tới chồi ghép. Nơi ghép là một phần rất quan trọng của cây ghép, nó
quyết định thời gian sống của một cây ghép. Nơi ghép không hoàn hảo cho thấy tính
không tương hợp giữa chồi và gốc, dẫn tới chồi ghép sinh trưởng không tốt biểu hiện
thiếu dinh dưỡng đa lượng hoặc vi lượng hoặc cả hai. Đối với một vết ghép thành
công, việc sắp xếp của tượng tầng của chồi ghép tiếp xúc gần với tượng tầng của gốc
ghép là một trong những điều quan trọng nhất. Điều này giúp cho việc thành lập mô
sẹo nơi vết ghép.
+ Tượng tầng (tầng phát sinh): Là một mô mỏng của cây được xác định là ở
giữa vỏ (Phloem) và gỗ (Xylem). Nó có các tế bào mô phân sinh có thể phân chia và
tạo tế bào mới.
+ Mô sẹo: Một số lượng lớn của những tế bào mô mềm được tạo ra từ bề mặt
được cắt của chồi và gốc quanh vết ghép được gọi là mô sẹo. Trong quá trình hình
thành mô sẹo việc gắn chặt của mô ở chồi ghép và gốc ghép xảy ra để giúp cho vết
ghép khỏe và thành công.
2.2.2. Sự liên quan giữa Gốc ghép - Chồi ghép.

Mối tương quan giữa gốc ghép và chồi ghép rất phức tạp, có lẽ thay đổi từ tổ
hợp ghép này đến tổ hợp khác. Cơ chế cơ bản của chồi và gốc ảnh hưởng nhau chưa
được hiểu biết nhiều lắm. Tuy nhiên có một hiện tượng chung của gốc ghép là sự cải
thiện kích thước và sức sống của chồi ghép.
Ảnh hưởng của gốc ghép lên thời gian nở hoa, tỉ lệ đậu quả, thời gian chín,
năng suất và chất lượng của quả trên chồi ghép cũng đã được nghiên cứu.
Tương tự như vậy, chồi ghép cũng ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và kích
thước thân của gốc ghép. Nếu một chồi sinh trưởng mạnh được ghép lên một gốc
ghép yếu, gốc ghép sẽ đạt được kích thước lớn hơn cây nếu không được ghép.
Trên những hồ sơ có sẵn ở cà phê, tổ hợp ghép của chồi CxR, Tatimor, Sln-6,
Sln-8 và Sl-9 ghép trên gốc ghép Robusta và San Ramon đều cho thấy triển vọng đạt
năng suất cao hơn và thu hoạch sớm hơn.
16
+ Ảnh hưởng của gốc ghép lên chồi ghép: Gốc ghép có ảnh hưởng lên sinh
trưởng của cây ở các chỉ tiêu như: chu vi thân, chiều dài cành, kích thước lá, năng
suất, chất lượng và sự sớm cho quả. Khi arabica được ghép lên gốc ghép robusta
chồi ghép mọc rất khoẻ, kích thước lá gia tăng, chiều dài đốt cũng lớn hơn cây bình
thường không ghép. Tương tự như vậy, khi robusta (CXR) được ghép lên gốc
arabica (San Ramon), kích thước lá và chiều dài đốt giảm xuống nếu so với cây mẹ
được sử dụng là nguồn chồi ghép. Người ta cũng quan sát thấy sự nở hoa không theo
mùa trong năm đầu tiên của cây ghép.
Một số người trồng cà phê cho rằng: khi arabica được ghép lên gốc robusta,
chất lượng cà phê tách của arabica có thể thay đổi về phía robusta, chưa có một
bằng chứng nào đã chứng minh được ảnh hưởng của gốc ghép lên chất lượng. Trong
một vài ví dụ, C x R được ghép lên gốc arabica (San Ramon) đã không cho thấy bất
kỳ một thay đổi nào về chất lượng của C x R. Trong một nghiên cứu ở CRSS, cây cà
phê Chettali với chồi arabica và robusta và gốc là San Ramon, người ta không thấy
một ảnh hưởng có ý nghĩa nào của gốc lên chất lượng cà phê tách của vật liệu chồi.
+ Ảnh hưởng của chồi lên gốc ghép.
Chồi của cà phê CXR sinh trưởng mạnh khi được ghép lên gốc arabica san

Ramon lùn, đã trồng được 17 năm tuổi, chu vi của gốc lớn hơn gốc của San Ramon
để lại không ghép. Có lẽ điều này xảy ra là do đặc tính khoẻ mạnh của chồi được
ghép lên San Ramon.
2.2.3. Ghép ngoài đồng
2.2.3.1. Nhận dạng cây trồng:
Là cây trồng lâu năm, cà phê thuộc loại mang quả có chu kỳ. Trong một đồn
điền cà phê, thường có 4 loại cây được nêu như sau:
a. Cây mang quả bình thường, năng suất ổn định.
b. Cây có năng suất cao trong một năm và năng suất thấp hoặc không cho
năng suất vào năm tiếp theo và trông rất kiệt sức.
c. Cây có năng suất thường xuyên thấp mặc dù sinh trưởng tốt.
17
d. Dạng không điển hình là những cây trong quần thể của một giống đặc biệt
mà không có những đặc điểm của giống đó.
Trong 4 loại trên, cây ở loại c và d có thể được ghép nối ngọn bằng vật liệu
chồi mong muốn và loại b cây tỏ ra kiệt sức không cần ghép bởi vì chúng sẽ phát
triển và cho quả trong năm sau (Gillett, 1932).
Ở cà phê, chỉ những chồi vượt được sử dụng làm chồi cho mục đích ghép.
Chồi ngang không nên dùng cho ghép nối ngọn vì nó tạo ra chồi bên không sinh
trưởng thẳng để tạo thành bụi.
Những cây/giống không mong muốn được ghép cải tạo được đánh dấu trong
tháng 11- 12 trước thu hoạch. Cùng lúc ấy những cây đạt năng suất cao, không sâu
bệnh với các đặc tính của quả mong muốn được đánh dấu, có thể được sử dụng làm
chồi ghép.
2.2.3.2. Cưa gốc ghép
Việc cưa gốc ghép của những cây không mong muốn thông thường được
thực hiện trong tháng 3 - 4, sau khi tưới hoặc phun nước cho nở hoa. Những cây
được cưa bằng một cái cưa tay ở độ cao cách mặt đất 30 cm tạo một vết cắt xiên. Bột
Bordeux được chuẩn bị bằng cách hoà tan 100 g Sulphat đồng và 100 g vôi bột trong
một lít nước được quét lên bề mặt vết cắt để ngăn ngừa sự tấn công của nấm làm thối

gốc ghép. Nên chăm sóc để tránh làm hư hỏng hệ thống rễ. Che phủ bề mặt vết cắt
bằng túi Polythene không đục lỗ là phương pháp tốt để tránh nước xâm nhập vào mặt
cắt trong mùa mưa có thể gây thối gốc.
Sau khi cưa gốc 45-60 ngày các chồi phát sinh có đường kính khoảng cây bút
chì là sẵn sàng để ghép. Tuy nhiên người ta lưu ý rằng có khoảng 20-25% gốc ghép
không mọc chồi, một số tạo ra chồi tốt trong mùa sinh trưởng, một số khô đi mà
không tạo một chồi nào cả. Anand và ctv (2000) báo cáo rằng việc tạo ra chồi khỏe
mạnh đạt tỉ lệ thành công là 100% ở gốc robusta 80 năm tuổi bằng cách phun IAA
200 ppm (Indol Acetic Acid) hỗn hợp với dung dịch 1% DMSO (Dimethyl
sulphoxide). Ông cho rằng kỹ thuật này là một trong những cách sử dụng nhiều để
cải tạo những đồn điền cà phê robusta già cỗi. Thành công hoặc thất bại trong việc
18
tạo ra chồi từ gốc ghép phụ thuộc vào nguồn Carbonhydrat dự trữ trong cây, độ phì
nhiêu của đất, kiểu che bóng và sức khoẻ của cây. Để tránh chết các gốc cưa, các cây
không mong muốn có thể được tác động để tạo ra những chồi vượt trên cây thẳng
đứng (không cưa). Các cành của cây không mong muốn được cắt đi, để lại một hoặc
hai cành có đỉnh và ghép lên chồi mong muốn. Sau khi ghép thành công và nơi ghép
đã liền lại việc cắt ngọn thân chính phía trên vết ghép (Cramer, 1924) có thể được
thực hiện từ tháng 9 - 10 để làm tăng sinh trưởng của chồi ghép.
Một thí nghiệm được tiến hành ghép thành công trên cây cà phê không cắt
ngọn, cho thấy rằng việc ghép trên cây có nửa tán có ảnh hưởng có ý nghiã đến chiều
cao, chiều dài lóng và chu vi thân của cây ghép khi so với cây có đủ tán.
2.2.3.3. Ghép
Nhiều phương pháp ghép đã được thử nghiệm ở Kenya: ghép chẻ, ghép bên,
ghép nêm bên Trong số đó ghép bên có tỉ lệ thành công cao nhất so với các
phương pháp khác (Wamatu và King' oro, 1993). Ở Ấn Độ, phưong pháp ghép đơn
giản nhất và thực tiễn nhất là ghép nêm chẻ được áp dụng rộng rãi ở các nông trường
cà phê. Kỹ thuật này được trình bày chi tiết dưới đây.
2.2.3.4. Vật liệu ghép
+ Dụng cụ ghép

Cưa tay, kéo cắt cành và dao ghép. Cưa tay được sử dụng để cưa gốc ghép.
Kéo cắt cành được dùng để loại bỏ các chồi vượt không cần thiết mọc từ gốc đã cưa
và dao ghép được dùng để tạo nêm ở chồi ghép và vết chẻ trên gốc ghép. Ngoài ra có
một số vật liệu khác như dây nilon, túi nilon dùng để cột và che phủ lên cây sau
ghép.
+ Khử trùng dao ghép
Trước khi dùng dao ghép cần được khử trùng bằng cồn. Vì quá trình ghép
được thực hiện trong mùa mưa, cây và cành mang rất nhiều bào tử nấm có thể ảnh
hưởng đến bề mặt vết cắt của chồi và gốc ghép nếu không tuân thủ biện pháp giữ vệ
sinh.
+ Tạo nêm và vết chẻ
19
Có 2 loại gỗ được sử dụng cho ghép ngoài đồng đối với cà phê, đó là chồi
ghép có gỗ mềm và gỗ nửa cứng. Chồi lấy từ cây non khoẻ mạnh cho kết quả ghép
tốt hơn cây già. Chồi vượt > 6 tháng tuổi có màu nâu không thích hợp cho ghép vì
cho tỉ lệ thành công thấp. Chồi vượt được cắt thành những đoạn cành có 1 đốt, có 2
cành ngang ở nách lá, giữ lại một diện tích là còn một nửa hay 1/3. Dạng khác của
chồi ghép là chồi đỉnh có diện tích lá giảm đi 1/2 hay 1/3 kích thước. Chồi ghép nửa
cứng cho tỉ lệ ghép tốt hơn trong mùa mưa.
Sau khi tạo hình ở cổ rễ, những chồi mới nảy nở và sẵn sàng cho ghép trong
tháng 6 - 7. Chỉ giữ lại 2 chồi khoẻ ở vị trí giữa của gốc ghép còn những chồi khác
được vặt đi.
Để tạo một vết chẻ trên gốc ghép, chọn 2 chồi khoẻ trên cây cưa được cắt
ngang phía dưới của đốt đầu tiên ở độ cao 5-10 cm và chẻ một đường dọc từ trên
xuống ở giữa gốc ghép. ở Kenya, sự để lại lá hoặc ngay cả cặp cành ngang trên chồi
gốc ghép phía dưới vết ghép giúp tăng cao tỉ lệ ghép thành công (Cramer, 1957).
Một chồi vượt nửa cứng, khoẻ mạnh có đường kính bằng cây bút chì được thu
từ cây được đánh dấu là xuất sắc và một cành giâm có một đốt được chuẩn bị làm
chồi ghép. Để tạo nêm người ta dùng một dao sắc tạo hai vết cắt xiên ở phần thấp
hơn của cành giâm một đốt. Lá được cắt đi để lại 1/2-1/3 diện tích lá nhằm ngăn

chặn sự thoát hơi nước quá mức thông qua hoạt động hô hấp.
+ Đặt nêm vào trong vết chẻ
Phần nêm của chồi ghép được đặt vào trong vết chẻ của gốc ghép với sự ép
nhẹ từ trên xuống và được buộc chặt bằng một dây polythene rộng 1-1,5 cm và chiều
dài thích hợp. Cần cẩn thận trong khi quấn dây polythene lên cây ghép nhằm tránh
nước mưa xâm nhập có thể gây thối cây ghép.
+ Che phủ cây ghép
Lúc ghép, nếu thời tiết tiếp tục sáng sủa, các cây ghép nên được che phủ bằng
những bao polythene không khoan lỗ (kích thước 8 " x 5 ") để bảo đảm thành công
tốt hơn và bảo vệ chúng khỏi bị mặt trời đốt cháy. Trong khi che phủ, bề mặt bên
trong của túi polythene được phun nước và được che phủ phía trên cành ghép để giữ
20
ẩm bên trong. Phun nước bằng bình phun sương là rất tốt để đảm bảo thành công tốt
hơn.
Ở Kenya, túi polythen màu sữa được sử dụng cho tỉ lệ ghép thành công cao
hơn. Một que được chèn vào bên trong phía trên cây ghép và đầu thấp hơn của ở cổ
rễ được cột chặt lại và giữ ẩm, sau đó phần phía trên hơn của vết ghép cũng được cột
lại bằng cách dùng một que chống cho gốc ghép được ghép phía bên. Người ta tuân
theo qui trình này để tạo ẩm độ thích hợp giúp ghép thành công tốt hơn (Van der
Vossen, 1977).
+ Tháo bỏ dây polythene
Sau ghép 1 tháng, một vài chồi mới phát sinh từ chồi ghép, cho biết việc ghép
đã thành công. Dây buộc polythene nên được tháo ra sau ghép 45- 60 ngày để tạo
điều kiện cho cây ghép phát triển. Việc chậm bỏ dây buộc gây một thắt eo cho cây
ghép, dẫn đến gãy chồi ghép ở phần bị thắt eo.
Thành công này phụ thuộc vào sự thành thạo của người ghép, điều kiện môi
trường, tình trạng sinh lý, sinh hóa của gốc ghép và chồi ghép, cũng như là đặc tính
của cây được sử dụng. Tuy nhiên, ở Kenya, tỉ lệ sống đạt 85% ở những cây ghép có
chụp bao plastic và được che chắn bởi giấy màu nâu (Van der Vossen, 1977).
Sau khi sự hợp nhất đã xảy ra, thông thường có 2 chồi vượt được phát sinh từ

phần đốt của chồi ghép, trong đó một chồi mọc nhanh hơn và một chồi mọc chậm.
Chồi mọc khoẻ được giữ lại, chồi yếu hơn được vặt đi. Sức sống và khả năng phát
chồi mới phụ thuộc vào kích thước và tuổi của gốc ghép cũng như mùa ghép.
+ Những yếu tố ảnh hưởng đến sự thành công của việc ghép
- Sự tương hợp, dạng cây, nhiệt độ, ẩm độ, điều kiện Oxy, sự hành thạo của
người ghép,kỹ thuật ghép, sức khoẻ của gốc ghép và chồi ghép, tuổi của chồi ghép
và gốc ghép, tình trạng sinh lý và sinh hóa, đặc điểm thực vật của gốc ghép và chồi
ghép
+ Tính tương hợp (compatibility) là khả năng của hai cây khác nhau, được
ghép chung, tạo ra được sự tiếp hợp thành công tốt và về sau phát triển tốt thành một
cây hỗn hợp hoàn chỉnh. Dĩ nhiên, hiện tượng ngược lại thì gọi là tính không hợp
21
(incompatibility), giữa một tiếp hợp ghép hợp với không hợp không có ranh giới rõ
rệt. Một mặt, gốc và chồi ghép của những cây quan hệ gần dễ dàng kết hợp và mọc
thành một cây. Mặt khác, gốc và chồi của hai cây không có quan hệ ghép chung thì
hầu như hoàn toàn không kết hợp. Nhiều phối hợp ghép nằm giữa hai thái cực này,
trong đó thoạt đầu chúng có tiếp hợp, thành công thấy rõ, nhưng dần dần bộc lộ
những triệu chứng suy thoái theo thời gian, do tiếp hợp bị hư hỏng hoặc xuất hiện
kiểu sinh trưởng bất thường.
+ Triệu chứng của sự ghép không tương hợp.
Sự tiếp hợp không tốt nơi ghép do sự không hợp thường luôn có đi kèm với
một số triệu chứng bên ngoài. Dưới đây là các triệu chứng đi kèm với các tổ hợp
ghép không phù hợp:
- Không thành lập được sự hợp nhất trong khi ghép.
- Tỉ lệ ghép thành công thấp.
- Cây ghép chết ngay cả sau khi sự hợp nhất đã xảy ra.
- Lá vàng và rụng trong giai đoạn chưa thành thục.
- Triệu chứng thiếu dinh dưỡng.
- Sinh trưởng tốt hay xấu ở phía trên và dưới vết ghép.
- Tạo những khối u (sưng phồng quá mức) ở vết ghép.

- Gãy cây ở vết ghép.
+ Các lý do của sự không tương hợp
- Kỹ thuật ghép có lỗi.
- Không thành thạo trong thao tác ghép.
- Sự khác biệt về đặc điểm thực vật của cành và gốc ghép.
- Sự khác biệt về tình trạng sinh học của cành và gốc ghép.
- Sự khác biệt về cấu trúc gen của cành và gốc ghép.
- Tuổi của gốc ghép.
22
+ Sự hình thành vùng tiếp hợp ghép
Tóm tắt các bước trong chuỗi sự kiện làm lành vết ghép như sau:
- Xếp thẳng tượng tầng: Mô chồi ghép vừa mới bị cắt có khả năng hoạt động phân
sinh được cho dính chặt và an toàn với mô gốc ghép cũng vừa mới bị cắt sao cho
vùng tượng tầng của cả hai thật gần khít với nhau. Điều kiện nhiệt độ và ẩm độ phải
phù hợp để thúc đẩy hoạt động sinh trưởng trong các tế bào vừa mới tiếp xúc và các
tế bào xung quanh.
- Phản ứng lành vết thương: Từ vách và các chất nội bào của các tế bào bị cắt của
chồi và gốc ghép hình thành chất hoại tử.
- Hình thành cầu sẹo: Các tầng tế bào không bị thương và nằm bên ngoài ở vùng
tượng tầng của cả gốc và chồi ghép tạo ra các tế bào nhu mô nhanh chóng trộn lẫn và
gắn chặt vào nhau, lấp đầy khoảng trống giữa chồi và gốc ghép; đây được gọi là mô
sẹo.
- Hình thành tượng tầng: Một số tế bào của sẹo mới hình thành nằm ngay hàng với
tượng tầng cũ của chồi và gốc ghép phân hóa thành các tế bào tượng tầng mới.
- Hình thành mô mạch dẫn: Các tế bào tượng tầng mới này tạo ra các mô mạch dẫn
mới, về phía trong là mạch gỗ, còn phía ngoài là mạch libe, nhờ đó hình thành sự nối
liền mạch dẫn thứ cấp giữa chồi và gốc ghép, một điều kiện bắt buộc phải xảy ra để
cho sự tiếp hợp ghép được thành công.
Quá trình lành vết ghép có thể coi như lành một vết thương. Loại thương tích
đối với mô như xảy ra khi chẻ dọc cành sẽ nhanh chóng lành nếu hai mảnh chẻ được

buộc chặt lại với nhau. Sẽ tạo ra các tế bào nhu mô mới nhờ các tế bào vùng tượng
tầng của cả hai mảnh sinh sôi nhiều, hình thành mô sẹo. Một số tế bào nhu mô mới
tạo ra phân hóa thành các tế bào tượng tầng, các tế bào tượng tầng sau đó tạo ra
mạch libe và mạch gỗ.
Giữa hai mảnh chẻ, nếu người ta chèn vào một mảnh thân thứ 3 đã rời khỏi
cây mẹ và được cắt sao cho phần lớn các tế bào tượng tầng có thể được đặt dính khít
với tế bào tượng tầng của hai mảnh chẻ kia, thì sự sinh sôi của các tế bào nhu mô ở
tất cả các vùng tượng tầng sẽ nhanh chóng làm vết thương lành hoàn toàn và mảnh
23
cây rời từ bên ngoài chèn vào được nối hoàn toàn giữa hai mảnh chẻ ban đầu. Tiếp
hợp ghép chính là một vết thương được lành, với một mảnh mô lạ từ bên ngoài đưa
vào gắn chặt qua vết thương đã lành.
Tuy nhiên, mảnh mô được thêm vào, là phần chồi ghép, sẽ không tiếp tục sinh
trưởng thành công, trừ khi sự nối mạch dẫn có xảy ra để cho chồi ghép có thể lấy
được nước và dinh dưỡng khoáng. Ngoài ra, chồi ghép phải có vùng phân sinh ngọn
- 1 mầm - để chồi tiếp tục sinh trưởng, và sau cùng cung cấp chất quang hợp cho hệ
rễ.
Trong quá trình lành vết ghép, các bộ phận ghép trước đó được chuẩn bị và
lắp đặt dính chặt với nhau, bản thân chúng không tự vận động hoặc tự sinh trưởng
chung. Sự tiếp hợp chỉ hoàn tất nhờ các tế bào phát triển sau khi thực hiện công đoạn
ghép thực sự.
Ngoài ra, xin nhấn mạnh: trong tiếp hợp ghép không xảy ra sự trộn lẫn của vật
chất bên trong tế bào (nghĩa là hòa lẫn vật chất bên trong tế bào hay nguyên sinh
chất). Các tế bào do gốc ghép và chồi ghép tạo ra đều duy trì đặc điểm riêng của gốc
và chồi.
Xem xét chi tiết hơn các bước có liên quan tới lành vết ghép chúng ta có thể
nói rằng điểm đầu tiên liệt kê dưới đây là một bước sơ bộ nhưng lại là quan trọng và
là bước mà người nhân giống có thể kiểm soát.
- Tạo sự tiếp xúc chặt cho phần lớn vùng tượng tầng của gốc và chồi ghép trong
điều kiện môi trường phù hợp.

Cần có điều kiện nhiệt độ gây hoạt động tế bào. Thường thường nhiệt độ:
12.8
0
C - 32
0
C (55-90
o
F), tùy loài cây, dẫn tới sinh trưởng nhanh. Do đó nếu ghép
ngoài trời thì nên ghép khi trong năm có nhiệt độ thích hợp và khi mô cây, nhất là
tượng tầng, nằm trong trạng thái hoạt động tích cực tự nhiên. Nói chung các điều
kiện này thường xẩy ra trong các tháng mùa xuân.
Dĩ nhiên nếu ghép trong nhà kính và có bàn ghép thì có thể khống chế nhiệt
độ, cho phép có kết quả tốt hơn và ghép dàn trải trong thời gian lâu hơn.
24
Mô sẹo mới hình thành từ vùng tượng tầng gồm các tế bào có vách mỏng và
mọng nước, dễ bị khô nước và chết. Quan trọng là phải giữ ẩm độ không khí quanh
vùng tiếp hợp ghép ở mức cao để tạo các tế bào nhu mô được thuận lợi. Do đó cần
phải buộc kín hay bôi sáp kín hoàn toàn cho vùng vết ghép hoặc là đặt phần gốc ghép
trong môi trường ẩm để duy trì mức trương nước cao của tế bào.
Yếu tố cũng quan trọng nữa là phần tiếp hợp ghép phải giữ không bị vi sinh
vật gây bệnh. Trong điều kiện ẩm độ và nhiệt độ tương đối cao, thuận lợi cho vi
khuẩn và nấm phát triển, các tế bào nhu mô vách mỏng dễ bị bệnh và rất khó tiếp
hợp tốt. Bao bọc, che nhất thời cho vùng ghép giúp ngăn chặn nhiễm bệnh.
Nhất thiết phải dùng cách gì đó để giữ chặt chung cho cả hai thành phần ghép
ban đầu, như quấn, buộc, chốt đinh, hoặc nêm chặt, sao cho các bộ phận không bị lay
động làm bật các tế bào nhu mô đang đan vào nhau sau khi bắt đầu sinh sôi nhiều.
Người ta thường nói để ghép thành công thì các tượng tầng của gốc và chồi
ghép phải phù hợp nhau về kích thước. Đó là mong muốn cần đạt nhưng chưa chắc
có sự phù hợp hoàn toàn của hai lớp tượng tầng. Thực vậy, điều cần thiết duy nhất là
các vùng tượng tầng phải đủ gần nhau để cho các tế bào nhu mô từ cả gốc lẫn chồi

ghép được tạo ra trong vùng này có thể đan vào nhau. Các lớp tượng tầng của gốc và
chồi ghép hơi chồng lên bảo đảm cho sẹo đan vào nhau. Chính trong vùng tượng
tầng sự tạo sẹo xảy ra mạnh nhất. Hai tượng tầng không khớp nhau có thể làm chậm
tiếp hợp, nếu hoàn toàn không khớp nhau thì tiếp hợp không xảy ra. Khi nghiên cứu
ghép cây 1 lá mầm, nhận thấy tượng tầng không nhất thiết cần phải có để tiếp hợp
thành công, mà miễn là có bất kể mô phân sinh nào có thể tạo sẹo và dẫn tới hình
thành chỗ tiếp hợp giữa gốc và chồi.
25

×