Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Đề cương xây dựng đảng về tổ chức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (344.42 KB, 61 trang )

Đề cương ôn tập môn xây dựng đảng về tổ chức
MỤC LỤC

Câu 1: Phân tích vị trí, vai trị và ý nghĩa của công tác xây dựng đảng về tổ chức
đối với việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
hiện nay.................................................................................................1
Câu 2: Trình bày những yêu cầu khách quan của việc kiện toàn hệ thống tổ chức
của Đảng trong giai đoạn hiện nay........................................................5
Câu 3: Phân tích vị trí, vai trị, nhiệm vụ của TCCSĐ hiện nay...........................9
Câu 4: Trình bày giải pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên của Đảng
hiện nay...............................................................................................12
Câu 5: Phân tích vai trị của cán bộ và cơng tác cán bộ đối với việc nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng hiện nay......................15
Câu 6: Phân tích những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ của
Đảng hiện nay.....................................................................................18
Câu 7: Phân tích quan điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ trong giai
đoạn hiện nay......................................................................................22
Câu 8: Phân tích vị trí, vai trị cơng tác bảo vệ chính trị nội bộ đối với cơng tác
xây dựng Đảng hiện nay.....................................................................25
Câu 9: Trình bày các bước phân tích đánh giá chất lượng đảng viên hiện nay để
đạt được hiệu quả................................................................................26
Câu 10: Trình bày phương châm, nguyên tắc bảo vệ chính trị nội bộ hiện nay..30
Câu 11: Trình bày nguyên tắc xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Liên hệ việc thực hiện nguyên tắc này đối với tổ
chức đảng ở địa phương, cơ sở...........................................................31
Câu 12: Phân tích quan điểm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
TCCSĐ. Liên hệ việc thực hiện các quan điểm này của TCCSĐ ở địa
phương, đơn vị cơ sở...........................................................................33
Câu 13: Phân tích những giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của TCCSĐ. Liên hệ việc thực hiện các giải pháp này của TCCSĐ ở
địa phương, cơ sở................................................................................37


Câu 14: Phân tích vị trí, vai trị của đội ngũ đảng viên đối với việc nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng hiện nay. Liên hệ thực
tiễn.......................................................................................................41
Câu 15: Phân tích tiêu chuẩn của đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Liên hệ
bản thân về việc phấn đấu trở thành đảng viên...................................44
Câu 16: Phân tích nội dung của công tác cán bộ. Liên hệ với thực tiễn địa
phương, cơ sở......................................................................................47
Câu 17: Phân tích thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ.
.............................................................................................................52
Câu 18: Phân tích vai trị và tính chất sinh hoạt chi bộ, đảng bộ của Đảng Cộng
sản Việt Nam.......................................................................................55
Câu 20: Trình bày các bước tiến hành sinh hoạt xét đề nghị kết nạp đảng viên ở
chi bộ...................................................................................................61
1


Câu 1: Phân tích vị trí, vai trị và ý nghĩa của công tác xây dựng đảng về tổ
chức đối với việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
hiện nay.
TRẢ LỜI
1. Vị trí, vai trị của xây dựng Đảng về tổ chức đối với việc nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
a. Vị trí, vai trị xây dựng Đảng về tổ chức với xây dựng Đảng về
chính trị
* Nội dung xây dựng Đảng về chính trị bao gồm:
- Xây dựng Cương lĩnh chính trị của Đảng dựa trên sự kết hợp chủ nghĩa
Mác–Lênin vào thực tiễn cách mạng.
- Căn cứ vào sự phát triển của tình hình cụ thể xác định đường lối, nhiệm
vụ cụ thể cho từng thời kỳ, chuyển hướng mục tiêu, phương pháp đấu tranh một
cách kịp thời và chính xác.

- Biến đường lối chung ấy thành quy hoạch, kế hoạch, những chủ trương,
phương hướng cụ thể, phù hợp với điều kiện từng ngành, từng địa phương, từng
đơn vị, có tác dụng hướng dẫn hành động hàng ngày của các tổ chức đảng, của
cán bộ, đảng viên và quần chúng.
- Tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách và những
nhiệm vụ chính trị cụ thể của mỗi tổ chức đảng.
* Xây dựng Đảng về tổ chức với xây dựng Đảng về chính trị có mối
quan hệ gắn bó khăng khít với nhau
- Đường lối chính trị đúng đắn là linh hồn của tổ chức, là mục tiêu và lý
do tồn tại của tổ chức Đảng, là một trong những điều kiện cơ bản để xây dựng
và củng cố kỷ luật của Đảng.
- Đường lối chính trị quy định yêu cầu và phương hướng lựa chọn đảng
viên, quy định những yêu cầu cụ thể về phẩm chất và năng lực cán bộ; quy định
việc phân bổ lực lượng đảng viên, bố trí cán bộ để thực hiện thắng lợi đường lối,
nhiệm vụ chính trị.
- Đường lối chính trị quy định hình thức tổ chức, năng lực và cơ cấu bộ
máy, các mối quan hệ và phương thức hoạt động của bộ máy phù hợp với địi
hỏi của đường lối, nhiệm vụ chính trị.
- Ngược lại, xây dựng Đảng về tổ chức góp phần xác định đúng đắn và
thực hiện có hiệu quả đường lối của Đảng. Trong một tổ chức mạnh, với một đội
2


ngũ đảng viên và cán bộ có chất lượng tốt thì mới có điều kiện để xây dựng
đường lối, nhiệm vụ chính trị đúng đắn.
- Đường lối chính trị quyết định đường lối tổ chức, nhưng một khi đường
lối chính trị đã được quyết định đúng đắn thì cơng tác tổ chức lại qui định vận
mệnh đường lối chính trị ấy. Chỉ thông qua việc xây dựng và sử dụng bộ máy,
bố trí cán bộ, kiểm tra, đơn đốc... mới có thể biến đường lối, nhiệm vụ chính trị
của Đảng thành hiện thực. Công tác tổ chức và cán bộ góp phần xác định đúng

đắn và thực hiện có hiệu quả đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
- Xây dựng Đảng về tổ chức phải xuất phát từ đường lối chính trị và góp
phần thực hiện thắng lợi đường lối chính trị của Đảng. Đường lối chính trị và
đường lối tổ chức là hai mặt không thể tách rời. Do vậy, trong mọi thời kỳ cách
mạng, Đảng ta luôn xác định xây dựng Đảng về tổ chức là nhiệm vụ trung tâm
của công tác xây dựng Đảng; thường xuyên quan tâm kiện toàn tổ chức, nâng
cao năng lực tổ chức thực hiện đường lối phù hợp với từng cấp, từng đối tượng
và nhiệm vụ chính trị của mỗi thời kỳ cách mạng cụ thể. Đứng trước mỗi bước
ngoặt cách mạng, cùng với sự chuyển hướng về đường lối chính trị đều có sự
chuyển hướng về tổ chức.
Trong q trình xây dựng đảng về tổ chức, Đảng ta rất quan tâm xây dựng
hệ thống tổ chức đảng, xây dựng bộ máy cơ quan lãnh đạo và các cơ quan tham
mưu giúp việc của cấp uỷ mỗi cấp, nhằm nâng cao năng lực, hiệu lực lãnh đạo
của Đảng; giải quyết đúng đắn mối quan hệ phối hợp giữa các cấp uỷ đảng, giữa
các tổ chức đảng và các cơ quan đảng; giữa các tổ chức đảng với các tổ chức
khác trong hệ thống chính trị, đảm bảo sự hoạt động nhịp nhàng, thông suốt từ
Trung ương đến cơ sở và từng cán bộ, đảng viên; đảm bảo sự thống nhất về ý
chí và hành động, làm cho sự lãnh đạo của Đảng có hiệu lực, hiệu quả, tạo nên
sức mạnh tổng hợp của tồn Đảng, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội trong
việc thực hiện thắng lợi đường lối chính trị của Đảng.
b. Vị trí, vai trị của xây dựng Đảng về tổ chức với xây dựng Đảng về
tư tưởng
Xây dựng Đảng về tư tưởng là làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh trở thành nền tảng tư tưởng của Đảng và của xã hội; nâng cao
phẩm chất cách mạng của cán bộ, đảng viên; xây dựng bản lĩnh chính trị của
giai cấp cơng nhân, tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, thông suốt
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân,
cơ hội và mọi ảnh hưởng tư tưởng phi vô sản. Trong điều kiện Đảng cầm quyền,
công tác tư tưởng của Đảng còn phải coi trọng nâng cao kiến thức khoa học, kỹ
thuật, năng lực tổ chức, quản lý cho cán bộ, đảng viên.

3


Xây dựng Đảng về tổ chức và xây dựng đảng về tư tưởng có mối quan hệ
hữu cơ với nhau:
- Tư tưởng hướng dẫn hành động, hướng dẫn hoạt động của tổ chức đảng;
Hoạt động của tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên và quần chúng nhân dân
không thể có sức mạnh và hiệu quả nếu khơng được tư tưởng tiến bộ chỉ đạo.
Bởi vì, như Mác nói, vũ khí tư tưởng một khi thâm nhập được vào tổ chức, vào
quần chúng nhân dân, nó sẽ biến thành lực lượng vật chất, thành sức mạnh lay
chuyển cách mạng. Tư tưởng có vững vàng thì tổ chức mới vững mạnh. Ngược
lại, tư tưởng chỉ có thể nảy sinh và tồn tại trong một tổ chức tương ứng, tổ chức
có lành mạnh và cách mạng thì tư tưởng tiên tiến và cách mạng mới nảy nở và
được củng cố.
- Chỉ có thơng qua tổ chức hoạt động thực tiễn thì tư tưởng cách mạng,
mới biến thành hành động cách mạng, mới đem lại hiệu quả thiết thực.
V.I.Lênin cho rằng tư tưởng tự nó khơng làm được gì nếu khơng có tổ chức và
không thông qua tổ chức, không thông qua hoạt động thực tiễn của hàng triệu
quần chúng giác ngộ tư tưởng.
c. Xây dựng Đảng vững mạnh trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ
chức là phương châm cơ bản về xây dựng Đảng
Quan điểm đó được quy định trong Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam:
“Đảng Cộng sản Việt Nam được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và
tổ chức”. Ba mặt đó gắn bó với nhau, trong đó xây dựng Đảng về tư tưởng, tổ
chức phải kết hợp chặt chẽ và đều phải xuất phát từ đường lối chính trị, đồng
thời phải bảo đảm cho đường lối, nhiệm vụ chính trị được xác định đúng đắn,
được thấu suốt và thực hiện đầy đủ. Đó là một quá trình xuyên suốt, thống nhất.
Mặt khác, trong khi coi việc xây dựng đảng về chính trị là nhiệm vụ hàng đầu
thì đồng thời Đảng cũng hết sức coi trọng xây dựng đảng về tưởng và tổ chức,
nhằm đảm bảo cho Đảng có năng lực để đề ra đường lối chính trị đúng đắn, làm

cho đường lối chính trị được quán triệt và được tổ chức thực hiện thắng lợi trong
từng giai đoạn cách mạng.
Có thể nói, cơng tác tư tưởng và tổ chức nhằm phục vụ đường lối, nhiệm
vụ chính trị, nhưng trong q trình xây dựng và thực hiện đường lối chính trị lại
khơng ngừng đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng và
công tác tổ chức.
Công tác tư tưởng và tổ chức cũng gắn bó thường xun với nhau, bởi vì
tư tưởng tách ra khỏi tổ chức thì khơng thể có chỗ đứng, chỉ dừng lại ở nhiệm vụ
nhận thức, không thể biến thành hành động cách mạng. Đảng chỉ có sức mạnh
thực sự khi được tổ chức chặt chẽ và có kỷ luật nghiêm minh. Ngược lại, tổ chức
4


tách rời tư tưởng sẽ trở thành hành động mù quáng, sẽ dẫn đến mất dân chủ, độc
đoán, mệnh lệnh, hạ thấp vai trị của yếu tố tự giác, tính năng động chủ quan của
người cán bộ, đảng viên và quần chúng.
2. Ý nghĩa của công tác xây dựng Đảng về tổ chức đối với việc nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng hiện nay
Hoạt động của hệ thống tổ chức và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng là
hiện thực hóa năng lực chính trị, tư tưởng của Đảng. Sức mạnh tư tưởng chính
trị đúng đắn và sáng tạo của Đảng là sức mạnh tinh thần, sức mạnh đó chỉ có thể
được phát huy tác dụng trong thực tế bằng sức mạnh của tổ chức, bằng hoạt
động chính trị thực tiễn của đội ngũ cán bộ, đảng viên, của toàn bộ hệ thống tổ
chức đảng, trong việc tập hợp, tổ chức lực lượng của đơng đảo các tầng lớp nhân
dân. Vì vậy, hệ thống tổ chức đảng được thường xuyên củng cố vững chắc và
hoạt động có hiệu quả; đội ngũ cán bộ, đảng viên không ngừng được bồi dưỡng
và rèn luyện về phẩm chất chính trị, đạo đức, nâng cao năng lực tổ chức thực
tiễn để vượt qua mọi thử thách khó khăn, hoàn thành mọi nhiệm vụ, đưa sự
nghiệp cách mạng của Đảng khơng ngừng tiến lên.
Ngày nay, trong điều kiện hồn cảnh trong nước và quốc tế có nhiều thay

đổi, cả những tác động tích cực và tiêu cực…địi hỏi Đảng phải có tư duy mới,
tầm nhìn chiến lược, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng phải ngang
tầm thời đại, đảm bảo vai trò lãnh đạo bền vững của Đảng. Thực tiễn hiện nay
cũng cho thấy, không thể dừng lại ở phương châm xây dựng đảng trên cả ba
mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức, mà cịn phải xây dựng Đảng về văn hóa
chính trị, đạo đức, tác phong, lối sống của cán bộ, đảng viên và chế độ công tác.
Đảng cầm quyền phải tăng cường khả năng cầm quyền, hoàn thiện phương thức
cầm quyền, phương thức lãnh đạo./.
Câu 2: Trình bày những yêu cầu khách quan của việc kiện toàn hệ thống tổ
chức của Đảng trong giai đoạn hiện nay.
1. Khái niệm hệ thống tổ chức của Đảng
Hệ thống tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam là một chỉnh thể bao gồm
nhiều bộ phận cấu thành, mỗi bộ phận có một vị trí, chức năng, nhiệm vụ khác
nhau với nhiều mơ hình tổ chức khác nhau, nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, tạo thành một thể thống nhất từ Trung ương đến cơ sở.
2. Những yêu cầu khách quan của việc kiện toàn hệ thống tổ chức của
Đảng trong giai đoạn hiện nay
a. Xuất phát từ yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa
Đại hội IX của Đảng đã xác định: Mơ hình kinh tế tổng qt trong thời kỳ
5


quá độ, bỏ qua chế độ TBCN để đi lên CNXH ở nước ta là nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN. Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là
phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, tạo nền tảng
kinh tế cho CNXH, nâng cao đời sống nhân dân. Đó là con đường phát triển
kinh tế hợp quy luật khách quan của lịch sử. Tuy nhiên, do bản chất tính hai mặt
của kinh tế thị trường mà con đường phát triển của đất nước sẽ vơ cùng khó
khăn, phức tạp, có nhiều nguy cơ chệch hướng XHCN.

Vì vậy, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đòi hỏi phải
khơng ngừng nâng cao trình độ, năng lực lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của
Nhà nước, ý thức và năng lực làm chủ của các tầng lớp nhân dân. Kiện toàn các
tổ chức Đảng cũng như các cơ quan quản lý Nhà nước các cấp trong sạch, vững
mạnh là điều kiện cơ bản đảm bảo việc xây dựng và vận hành nền kinh tế thị
trường đạt những mục tiêu căn bản của CNXH.
b. Xuất phát từ yêu cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố
đất nước
Cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là nhiệm vụ trung tâm của cả thời
kỳ quá độ. Xuất phát từ một nước nông nông nghiệp lạc hậu, trải qua nhiều cuộc
chiến tranh tàn phá nặng nề, vì vậy sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của
nước ta khơng chỉ kéo dài mà cịn gặp khơng ít khó khăn, phức tạp. Để thực hiện
thành cơng sự nghiệp to lớn đó, Đảng khơng chỉ đề ra đường lối, chính sách
định hướng phát triển đúng đắn, mà cịn phải kiện tồn, đổi mới tổ chức, bộ máy
của Đảng và cả hệ thống chính trị, bảo đảm đủ năng lực lãnh đạo, tổ chức và
quản lý có hiệu quả, điều hành thơng suốt nền kinh tế thị trường; huy động
nguồn lực trong và ngoài nước, phát huy sức mạnh của toàn dân tộc nhằm thực
hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì mục tiêu dân giàu
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
c. Xuất phát từ yêu cầu hội nhập tồn cầu hố kinh tế thế giới
Tồn cầu hố là xu thế khách quan của thế giới ngày nay. Mọi quốc gia,
mọi dân tộc không thể phát triển nếu đứng ngồi q trình tồn cầu hóa. Từ một
nước đang trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị
trường, nước ta không thể nào thực hiện được mục tiêu XHCN nếu không tăng
cường hội nhập, tranh thủ mọi nguồn lực và năng lực quản lý kinh tế - xã hội
của các nước trên thế giới. Tuy nhiên, tồn cầu hố vừa đem lại cơ hội phát triển
to lớn cho mỗi nước, lại vừa có những nguy cơ và thách thức lớn cho các nước
đang phát triển.
Đối với nước ta, hội nhập tồn cầu hóa khi trình độ phát triển kinh tế và
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của các doanh nghiệp còn thấp; thể chế

6


kinh tế thị trường cịn đang hình thành, hệ thống pháp luật chưa hồn chỉnh, vì
thế q trình hội nhập phải chủ động với những bước đi thích hợp, phải đảm
đảm độc lập, tự chủ, giữ vững định hướng XHCN. Điều đó địi hỏi phải tăng
cường vai trị lãnh đạo của Đảng, khẩn trương kiện toàn và đổi mới tổ chức - bộ
máy Đảng và cả hệ thống chính trị, nhằm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng,
năng cao năng lực, hiệu quả quản lý và điều hành của Nhà nước.
d. Xuất phát từ yêu cầu dân chủ hoá xã hội ngày càng mở rộng
Phát huy dân chủ trong Đảng là vấn đề cực kỳ quan trọng trong công tác
xây dựng Đảng. Dân chủ không phải chỉ thể hiện bằng những giá trị, quan điểm,
nguyên tắc, mà còn là những thể chế, cơ chế và hoạt động thực tiễn để phát huy
quyền làm chủ của dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Chủ tịch
Hồ Chí Minh chỉ rõ, thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi
khó khăn trong sự nghiệp cách mạng. Người nhấn mạnh, thực hành dân chủ
không phải nói dân chủ chung chung, trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng
rãi để chỉnh đốn Đảng, để Đảng xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người
đầy tớ trung thành của nhân dân. Vì thế, yêu cầu khách quan, cấp bách và lâu
dài là phải đổi mới và kiện toàn tổ chức và bộ máy Đảng và cả hệ thống chính
trị, nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của Nhà nước, tăng cường pháp chế XHCN, thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân.
e. Xuất phát từ yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của
dân, do dân và vì dân, trọng tâm là cải cách nền hành chính nhà nước
Cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước ln địi hỏi phải không ngừng
củng cố và xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, quản lý xã hội có hiệu
lực, hiệu quả, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ln
đặt lên vị trí hàng đầu trong chương trình hành động của Đảng. Qua các kỳ Đại
hội, Đảng ta đã đề ra chủ trương cải cách hành chính nhà nước đi liền với cơng

cuộc đổi mới một cách kịp thời, nhất quán.
Công cuộc cải cách hành chính Nhà nước đã được tiến hành sâu rộng
mang lại những thành tựu bước đầu quan trọng. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng
thể thì sự đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước diễn ra
cịn chậm, khơng đồng bộ từ trên xuống dưới, tiến hành cải cách hành chính
khơng theo kịp nhịp độ đổi mới kinh tế - xã hội; sự chỉ đạo thực hiện các nghị
quyết của Đảng và Nhà nước về cải cách bộ máy Nhà nước, nền hành chính nhà
nước chưa ráo riết, thiếu kiên quyết, cải cách hành chính chưa kết hợp chặt chẽ
với cải cách tư pháp, đổi mới tổ chức và hoạt động lập pháp. Những hạn chế đó
quan hệ mật thiết với vấn đề cơ bản là sự lãnh đạo của cấp uỷ đảng đối với cải
7


cách hành chính chưa kiên quyết, chưa gắn chặt với xây dựng và chỉnh đốn
Đảng.
Cải cách hành chính khơng thể nào đạt kết quả nếu không gắn kết chặt
chẽ với xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm
quyền, mọi vấn đề quan trọng về đường lối, chính sách và tổ chức bộ máy nhà
nước đều có sự lãnh đạo của Đảng; hầu hết cán bộ có chức, có quyền trong cơ
quan hành chính nhà nước là đảng viên; ở hầu hết các cơ quan, tổ chức của Nhà
nước từ Trung ương đến cơ sở có tổ chức đảng bộ, chi bộ cơ sở. Xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, làm cho mỗi tổ chức đảng, cấp uỷ đảng lãnh đạo chính quyền
đúng với tinh thần của cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ, xây dựng tổ chức đảng thật sự là hạt nhân chính trị trong cơ quan nhà nước,
khơng bng lỏng lãnh đạo chính trị, nhưng cũng khơng bao biện, làm thay
chính quyền là nhân tố để xây dựng Nhà nước pháp quyền, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý của Nhà nước. Cải cách hành chính nhà nước đạt kết quả tốt sẽ
thắt chặt hơn mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân, nâng cao vai trò lãnh đạo và
uy tín của Đảng cầm quyền. Vì vậy, Đảng phải coi cải cách hành chính cũng là
nội dung quan trọng của việc kiện toàn tổ chức của Đảng.

Bước vào thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước đang
đặt ra yêu cầu khách quan và cấp bách là phải tiếp tục đẩy mạnh đổi mới, kiện
toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị ở nước ta sao cho phù hợp và đồng
bộ với cơ chế quản lý kinh tế – xã hội mới, nhằm tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng, tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nhà nước, tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
f. Xuất phát từ thực trạng của hệ thống tổ chức đảng hiện nay
* Những ưu điểm
Các cấp uỷ đảng có tiến bộ hơn trong việc đổi mới nội dung và phương
thức lãnh đạo, khắc phục phần nào tình trạng ôm đồm, bao biện, làm thay,
buông lỏng vai trò lãnh đạo.
Các ban và cơ quan tham mưu, giúp việc của các cấp uỷ Đảng phát huy
được vai trò chức năng nghiên cứu, đề xuất với cấp uỷ về chủ trương, chính
sách, các giải pháp tổ chức thực hiện và kiểm tra việc tổ chức thực hiện nghị
quyết thuộc lĩnh vực được giao.
Việc kiện toàn, củng cố các đảng đoàn, ban cán sự đảng góp phần bảo
đảm và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức trong hệ thống
chính trị.
* Những hạn chế, yếu kém
Qua nhiều lần đổi mới, kiện toàn, sắp xếp, nhưng tổ chức bộ máy Đảng,
8


Nhà nước và hệ thống chính trị cịn bất cập so với yêu cầu nhiệm vụ mới. Hệ
thống tổ chức bộ máy, nội dung, phương thức hoạt động lãnh đạo của Đảng tuy
có được đổi mới, tiến bộ, nhưng hệ thống tổ chức bộ máy vẫn nặng nề. Các loại
hình tổ chức đảng vẫn chưa được xác định phù hợp với tính chất và đặc điểm
từng cấp, từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể. Nhiều cấp, nhiều ngành còn còn
lúng túng trong bố trí cán bộ, sắp xếp bộ máy.
* Ngun nhân của hạn chế

Việc xây dựng mơ hình tổ chức Đảng, Nhà nước, đồn thể chính trị - xã
hội là một vấn đề mới, vừa làm, vừa tổng kết lý luận. Mặt khác, đổi mới và kiện
toàn hệ thống tổ chức Đảng là vấn đề hệ trọng và nhạy cảm, có tầm ảnh hưởng
rất sâu rộng nên khơng thể chủ quan, nóng vội.
Ngồi ra, chúng ta cịn thiếu cơ sở lý luận khoa học về xây dựng tổ chức
của Đảng trong điều kiện Đảng duy nhất cầm quyền. Trong chỉ đạo xây dựng hệ
thống tổ chức còn thể hiện sự lúng túng, thiếu kiên quyết. Cơ chế quản lý tổ
chức, cán bộ trong hệ thống chính trị cịn phân tán, chưa tập trung.../.
Câu 3: Phân tích vị trí, vai trò, nhiệm vụ của TCCSĐ hiện nay.
1. Khái niệm TCCSĐ
Điều 21 Điều lệ Đảng thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
của Đảng quy định: “Ở xã, phường, thị trấn có từ ba đảng viên chính thức trở lên,
lập TCCSĐ (trực thuộc cấp uỷ cấp huyện). Ở cơ quan, doanh nghiệp, hợp tác xã,
đơn vị sự nghiệp, đơn vị quân đội, công an và các đơn vị khác có từ ba đảng viên
chính thức trở lên, lập tổ chức đảng (TCCSĐ hoặc chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ
sở); cấp uỷ cấp trên trực tiếp xem xét, quyết định việc tổ chức đảng đó trực thuộc
cấp uỷ cấp trên nào cho phù hợp; nếu chưa đủ ba đảng viên chính thức thì cấp uỷ
cấp trên trực tiếp giới thiệu đảng viên sinh hoạt ở TCCSĐ thích hợp”.
TCCSĐ có hai loại hình chủ yếu: chi bộ cơ sở và đảng bộ cơ sở.
TCCSĐ dưới ba mươi đảng viên, lập chi bộ cơ sở, có các tổ đảng trực thuộc.
TCCSĐ có từ ba mươi đảng viên trở lên, lập đảng bộ cơ sở. Đảng bộ cơ sở
lại có hai loại: đảng bộ cơ sở chỉ có các chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở (đảng bộ
cơ sở hai cấp); đảng bộ cơ sở có các đảng bộ bộ phận và chi bộ trực thuộc đảng ủy
cơ sở (đảng bộ cơ sở ba cấp). Đảng bộ bộ phận có các chi bộ trực thuộc đảng ủy bộ
phận.
Nhiệm kỳ đại hội của TCCSĐ (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là 5 năm.
Nhiệm kỳ đại hội của chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở và đảng ủy bộ phận là 5
năm 2 lần. Nhiệm kỷ đại hội của đảng bộ bộ phận theo nhiệm kỳ của đảng bộ cơ
sở.
9



TCCSĐ đặt dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy huyện, quận, thị xã, thành
phố trực thuộc tỉnh hoặc tương đương. Ngồi ra, có một số TCCSĐ dạng đặc
biệt có quy định riêng.
Như vậy, theo quy định của Điều lệ Đảng, TCCSĐ gồm có chi bộ cơ sở
và đảng bộ cơ sở. Cần phân biệt chi bộ cơ sở với chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở
ở nhiệm vụ, quyền hạn và nhiệm kỳ của chi ủy.
2. Vị trí, vai trị của TCCSĐ
Vị trí, vai trị của tổ chưc cơ sở đảng được các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác – Lênin khẳng định, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta phát triển phù
hợp với điều kiện nước ta.
C.Mác và Ph. Ăng ghen chỉ rõ, các chi bộ trong công xưởng, nhà máy,
trong các hiệp hội công nhân là mác xít quan trọng, là chỗ dựa vững chắc của
Đảng; là nơi thực hiện các nhiệm vụ xây dựng nội bộ Đảng như: kết nạp, quản
lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên; là hạt nhân chính trị trong cơng xưởng, nhà
máy và các hiệp hội công nhân, tuyên truyền và lãnh đạo công nhân thực hiện lý
tưởng cộng sản, uốn nắn những lệch lạc trong các hoạt động đó.
Trong q trình lãnh đọa xây dựng Đảng Cơng nhân dân chủ - xã hội Nga
và lãnh đạo cách mạng Nga. V.I.Lênin chỉ rõ: TCCSĐ là nơi giáo dục, rèn
luyện, phân công công việc, kiểm tra, quản lý đảng viên, kết nạp, sàng lọc đảng
viên; nơi thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng; là điểm tựa để Đảng làm
chủ trong mọi tình huống; nơi Đảng liên hệ chặt chẽ với quần chúng, tập hợp,
giáo dục và lãnh đạo quần chúng thực hiện cương lĩnh, đường lối, nghị quyết
của Đảng.
V.I.Lênin nhấn mạnh, khi trở thành Đảng cầm quyền, TCCSĐ là nền tảng
của Đảng, hạt nhân chính trị ở tất cả các địa bàn, các lĩnh vực của đời sống xã
hội, trong các tổ chức, các hội và hiệp hội quần chúng, lãnh đạo xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. TCCSĐ kiểm nghiệm, khẳng định sự đúng đắn của đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đóng góp cho Đảng

những kinh nghiệm có giá trị để Đảng sửa đổi, bổ sung và đề ra chủ trương,
chính sách mới đúng đắn, hồn chỉnh hơn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh ln khẳng định vai trị của các chi bộ, đảng bộ cơ
sở đối với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị ở cơ sở; đối với sự vững mạnh của
Đảng và thắng lợi của cách mạng; đối với sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với
nhân dân và với uy tín, sự tin yêu của nhân dân với Đảng...
Chủ tịch Hồ Chí Minh ln nhấn mạnh chi bộ, đảng bộ cơ sở là nền
móng, nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở; là nhân tố rất quan trọng
quyết định kết quả của hoạt động ở cơ sở, quyết định việc thực hiện thắng lợi
10


nhiệm vụ chính trị của cơ sở. Người viết: “Chi bộ là nền móng của Đảng, chi
bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt”, “Mỗi chi bộ của đảng phải là hạt nhân lãnh đạo
quần chúng ở cơ sở, đoàn kết chặt chẽ, liên hệ mật thiết với quần chúng, phát
huy được trí tuệ và lực lượng vĩ đại của quần chúng”. Qua thực tế lãnh đạo cách
mạng và rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Thực tế cho
thấy chỗ nào chi bộ tốt, công viêc trôi chảy, chỗ nào chi bộ yếu, công việc xộc
xệch”.
Chi bộ là nền móng, nền tảng của Đảng, chất lượng chi bộ quan hệ mật
thiết với năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng và với thắng lợi cách
mạng. Khẳng định vị trí, vai trị của chi bộ trong mối quan hệ này, Chủ tịch Hồ
Chí Minh viết: "Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh. Đảng mạnh là do chi
bộ tốt”.
Chi bộ, đảng bộ cơ sở, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là “dây chuyền” để
Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, là “gốc rễ” của Đảng trong nhân dân, để
Đảng nắm vững tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, từ đó đề ra chủ
trương, đường lối đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, định
hướng suy nghĩ và hành động của nhân dân theo đường lối, quan điểm của
Đảng. Những chi bộ, đảng bộ cơ sở xứng đáng là nền móng của Đảng, hạt nhân

chính trị ở cơ sở sẽ làm tăng uy tín của Đảng và Đảng sẽ được dân tin, dân phục,
dân yêu.
Là Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, nhân dân lao động Việt Nam,
được Chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục, rèn luyện, Đảng Cộng sản Việt Nam ln
đánh giá cao vai trị của TCCSĐ đối với sự vững mạnh của Đảng, với thắng lợi
của cách mạng và quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Đảng luôn coi
TCCSĐ là những tổ chức cơ bản, những pháo đài chiến đấu của Đảng, là nền
tảng của Đảng, hạt nhân chính trị ở cơ sở. Thơng qua các TCCSĐ, Đảng thực
hiện sự lãnh đạo của mình đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội, đối với toàn
thể nhân dân.
Đảng ta khẳng định: “TCCSĐ (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng
của Đảng, hạt nhân chính trị ở cơ sở”. Đồng thời, qua thực tiễn xây dựng, củng
cố TCCSĐ, Đảng ta chỉ rõ: “Những thành tựu đã đạt được, những tiềm năng
được khai thác, những kinh nghiệm có giá trị đều bắt nguồn từ sự nỗ lực phấn
đấu của quần chúng ở cơ sở mà hạt nhân là tổ chức đảng. Nhưng mặt khác, sự
yếu kém của nhiều tổ chức cơ sở của Đảng đã hạn chế những thành tựu của
cách mạng”.
Trong công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế thị trường, chủ động và tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
11


tiến đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh, TCCSĐ
có vị trí, vai trị rất quan trọng. Đó là nền tảng của Đảng trong điều kiện thực
hiện kinh tế thị trường định hướng XHCN, tiến hành các hoạt động xây dựng
nội bộ Đảng trong điều kiện mới; lãnh đạo các tổ chức của hệ thống chính trị,
các tổ chức kinh tế, xã hội, lãnh đạo toàn thể nhân dân ở cơ sở; lãnh đạo các lĩnh
vực của đời sống xã hội, bảo đảm cho các hoạt động ở cơ sở theo đúng đường
lối, quan điểm của Đảng, đúng định hướng XHCN.
Có thể nói, TCCSĐ là một nhân tố quan trọng quyết định trên thực tế các

hoạt động ở cơ sở. TCCSĐ là những pháo đài chiến đấu của Đảng trên tất cả các
lĩnh vực, trên khắp đất nước, tổ chức và lãnh đạo cán bộ, đảng viên và nhân dân
thực hiện đường lối, chủ trương đúng đắn phát triển đất nước bền vững. Với vị
trí là nền tảng của Đảng, TCCSĐ có vai trị đặc biệt quan trọng đối với sự vững
mạnh và năng lực lãnh đạo của Đảng./.
Câu 4: Trình bày giải pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên
của Đảng hiện nay.
1. Quan niệm về nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên
Chất lượng đội ngũ đảng viên là yếu tố cơ bản tạo nên sức mạnh tổng hợp
của mỗi tổ chức đảng và tồn Đảng, đảm bảo vai trị lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng trong mọi giai đoạn cách mạng.
Chất lượng đội ngũ đảng viên là sự thống nhất hữu cơ giữa phẩm chất,
năng lực của từng đảng viên trong một tổ chức với số lượng và cơ cầu hợp lý.
Chất lượng đội ngũ đảng viên bao gồm:
- Một là, chất lượng từng đảng viên. Đây là tổng hợp những yếu tố tạo
nên phẩm chất và giá trị của người đảng viên; là phẩm chất và năng lực trong
nhân cách của người đảng viên, thể hiện ở việc hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Đây là yếu tố quan trọng nhất có ý nghĩa quyết định chất lượng đội ngũ đảng
viên.
- Hai là, số lượng đảng viên. Số lượng đảng viên có vai trị tạo thành sức
mạnh của đội ngũ, đó là yêu cầu về lượng cần thiết để tạo ra mặt chất lượng của
tổ chức đảng. Đội ngũ đảng viên đơng hay ít nói lên chất lượng và sức mạnh của
Đảng.
- Ba là, cơ cấu đội ngũ đảng viên. Đó là sự bố trí, sắp xếp hợp lý đội ngũ
đảng viên được đặt ra từ yêu cầu cụ thể nhằm phát huy cao nhất sức mạnh đồng
bộ của một chỉnh thể đội ngũ được tổ chức. Cơ cấu của đội ngũ đảng viên bao
gồm cơ cấu giai cấp, độ tuổi, học vấn, giới tính, dân tộc, tơn giáo…
12



Chất lượng của từng đảng viên qui định chất lượng đội ngũ đảng viên,
nhưng chất lượng đội ngũ đảng viên không phải tổng số đơn thuần những đảng
viên. Chất lượng đội ngũ đảng viên phụ thuộc vào khâu tổ chức, kỷ luật, thực
hiện đúng đắn các nguyên tắc trong Đảng.
Nâng cao chất lượng đảng viên là quá trình tác động bằng những hình
thức và phương pháp khác nhau nhằm hồn thiện về phẩm chất, lối sống, bồi
dưỡng và phát triển năng lực của từng đảng viên, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
chính trị được tổ chức giao cho.
Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là quá trình tác động bằng những
hình thức và phương pháp khác nhau trên cơ sở tăng cường về số lượng đảng
viên, hoàn thiện cơ chế tổ chức, phát huy sức mạnh đồng bộ của chỉnh thể đội
ngũ đảng viên.
Để nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên phải nâng cao chất lượng từng
đảng viên, kết hợp chặt chẽ với việc nâng cao chất lượng từng tổ chức đảng về
cơ cấu, số lượng đảng viên hợp lý.
2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên đáp ứng
yêu cầu của thời kỳ mới
Giải quyết tốt vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên –
một nhiệm vụ rất quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tình
hình hiện nay như Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) đã đánh giá – sẽ góp
phần trực tiếp nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, giúp xây
dựng Đảng ta thực sự trong sạch vững mạnh, như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng
dạy: “Đảng viên tốt thì chi bộ tốt, chi bộ tốt thì Đảng vững mạnh và lãnh đạo
cách mạng thắng lợi”. Để nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên đáp ứng yêu
cầu của thời kỳ mới, các cấp ủy đảng cần thực hiện đồng bộ những giải pháp sau
đây:
- Một là, thực hiện đồng bộ các giải pháp để củng cố TCCSĐ gắn với việc
kiện toàn, sắp xếp tổ chức của hệ thống chính trị, đảm bảo tăng cường năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ở cơ sở. Củng cố TCCSĐ yếu kém, làm cho
nó thực sự trở thành hạt nhân chính trị tại cơ sở. Phải coi xây dựng TCCSĐ

trong sạch, vững mạnh là điều kiện quan trọng để nâng cao chất lượng đảng
viên.
- Hai là, nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, sinh hoạt chi bộ, gắn với
việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”… Trong đó, cần tổ
chức tốt việc nghiên cứu, quán triệt các nội dung nghị quyết Đại hội XI của
Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 4 – Một số vấn đề cấp bách về xây
dựng Đảng hiện nay; tổ chức thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 03 CT/TW ngày
13


14/5/2011 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh một cách thiết thực, đi vào chiều sâu, nêu cao tính gương
mẫu, thực hiện của người đứng đầu các cơ quan đơn vị, của Đảng viên có
quyền, có chức trong thực hiện NQTW 4 và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh, tạo chuyển biến rõ nét về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
- Ba là, thực hiện tốt việc phân công nhiệm vụ cho Đảng viên theo hướng
mỗi đảng viên đều được phân công một nhiệm vụ cụ thể, phù hợp với năng lực,
sở trường, sức khỏe; coi trọng việc đánh giá, xếp loại đảng viên hằng năm, tránh
hình thức, cào bằng; gắn đánh giá, xếp loại đảng viên với kết quả thực hiện
nhiệm vụ được giao; biểu dương, khen thưởng kịp thời, xứng đáng những đảng
viên có thành tích tiêu biểu, uốn nắn những biển hiện lệch lạc, xử lý kỷ luật
những trường hợp vi phạm, đảm bảo tính nghiêm minh.
- Bốn là, quán triệt vận dụng tiêu chuẩn đảng viên trong thời kỳ mới. Tiêu
chuẩn đảng viên là chuẩn mực để phân biệt đảng viên với người không phải là
đảng viên. Vận dụng tiêu chuẩn đảng viên là cơ sở để tiến hành mọi mặt công
tác của đảng viên. Hội nghị Trung ương 3 khoá VII đưa ra 5 tiêu chuẩn đến nay
giữ nguyên. Cần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của tiêu chuẩn đảng viên. Mối
liên hệ giữa tiêu chuẩn đảng viên với nhiệm vụ và quyền hạn đảng viên. Phải
xem xét những tiêu chuẩn đó phù hợp với thực tiễn chưa.
- Năm là, đẩy mạnh công tác bồi dưỡng, kết nạp đảng viên, thông qua các

phong trào thi đua; thông qua việc giao nhiệm vụ, tổ chức đảng phát hiện nguồn
để bồi dưỡng, kết nạp quần chúng vào Đảng; chú trọng quan tâm đến đối tượng
là thanh niên, cán bộ nữ, người có trình độ cao; thực hiện tốt công tác kết nạp
đảng viên gắn với xây dựng chi bộ, làm trong sạch đội ngũ đảng viên.
- Sáu là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng. Thường
xuyên sàng lọc, đưa ra khỏi Đảng những đảng viên suy thối về tư tưởng chính
trị, đạo đức lối sống, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, cố tình vi phạm kỷ luật
Đảng và pháp luật Nhà nước. Việc kiểm tra, giám sát có thể tiến hành thơng qua
việc giao nhiệm vụ cho đảng viên, kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện
nhiệm vụ; thông qua quan hệ trong công tác cũng như trong sinh hoạt.
- Bảy là, tăng cường công tác giáo dục, rèn luyện, quản lý cán bộ, đảng
viên; chủ động ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện suy thối về tư tưởng chính
trị, đạo đức lối sống trong cán bộ, đảng viên.
- Tám là, làm tốt công tác quản lý đảng viên nơi làm việc và nơi cư trú,
Chi bộ nơi đảng viên công tác phải thường xuyên giáo dục, kiểm tra đảng viên
về đạo đức, lối sống bằng nhiều phương pháp, hình thức tác động khác nhau; có
trách nhiệm quản lý tồn diện đảng viên về lập trường, tư tưởng, tinh thần trách
14


nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật, phong cách và lối sống. Mặt mạnh, yếu của đảng
viên không chỉ thể hiện ra ở nơi cơng tác mà cịn ở những nơi khác, trong đó có
nơi cư trú. Chi bộ nơi đảng viên cơng tác cần có phương pháp thích hợp, hiệu
quả để uốn nắn, nắm chắc, nắm kịp thời các thơng tin cần thiết có liên quan đến
phẩm chất đạo đức của Đảng viên thể hiện trong mối quan hệ giữa đảng viên và
gia đình với việc thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước tại địa
phương và mối quan hệ của đảng viên với quần chúng nhân dân nơi cư trú.
Chi bộ nơi đảng viên công tác có thể phối hợp với Chi bộ nơi đảng viên
cư trú phát động phong trào quần chúng nhân dân tham gia giám sát các hoạt
động của đảng viên, góp ý về đảng viên để có đánh giá tồn diện về đảng viên

trong công tác cũng như cuộc sống./.
Câu 5: Phân tích vai trị của cán bộ và cơng tác cán bộ đối với việc
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng hiện nay.
1. Khái niệm cán bộ và công tác cán bộ
a. Cán bộ
Từ điển Tiếng Việt, cán bộ là người làm cơng tác có chức vụ trong một cơ
quan, một tổ chức, phân biệt với người khơng có chức vụ.
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Hồ Chí Minh viết: “Cán bộ là
những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân hiểu
rõ và thi hành. Đồng thời, đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho
Chính phủ rõ, để đặt chính sách cho đúng”.
Qua đó có thể hiểu rằng: Cán bộ là người có trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ nhất định, làm việc trong các tổ chức, cơ quan của hệ thống chính trị và là
người giữ chức vụ trong các tổ chức, cơ quan của hệ thống chính trị.
b. Cơng tác cán bộ
Cơng tác cán bộ là hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện của cấp
ủy, tổ chức đảng có thẩm quyền nhằm phát huy đến mức cao nhất mọi tiềm năng
cán bộ của toàn Đảng, các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị và tồn xã
hội, phát triển nguồn lực và xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng.
Công tác cán bộ của Đảng bao gồm việc xác định hệ thống các quan
điểm, nguyên tắc, nội dung, quy trình cơng tác chặt chẽ, hồn chỉnh để xây dựng
đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng trong từng giai đoạn,
từng thời kỳ. Đây là hoạt động lãnh đạo của Đảng, trước hết là của các cấp ủy,
đồng thời phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị
theo nguyên tắc: “Đảng thống nhất lãnh đạo và quản lý đội ngũ cán bộ và công
15


tác cán bộ”.

2. Vai trò của cán bộ và vai trị của cơng tác cán bộ
a. Vai trị của cán bộ
Về vai trò của đội ngũ cán bộ, C.Mác viết: “Muốn thực hiện tư tưởng thì
cần phải có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn”.
V.I.Lênin khẳng định: “Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành
được quyền thống trị, nếu nó khơng đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình
những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và
lãnh đạo phong trào”.
Những con người sử dụng sức mạnh thực tiễn, những lãnh tụ, đó là đội
ngũ cán bộ của Đảng. Để có đội ngũ cán bộ đó phải tiến hành xây dựng, nếu
không Đảng không thể nào thể hiện và thực hiện được những tư tưởng, không
thể tổ chức và lãnh đạo phong trào cách mạng của quần chúng và không thể thực
hiện được mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng. Nói cách khác, cán bộ là rường cột của
Đảng, của Nhà nước và các tổ chức đoàn thể nhân dân. Bất cứ chế độ nào, mọi
việc thành hay bại là ở khâu cán bộ. Điều đó nói lên vai trò đặc biệt quan trọng
của cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ.
V.I.Lênin chỉ rõ, muốn lật đổ chế độ Nga hồng giành chính quyền, phải
có đội ngũ “những nhà lãnh đạo chuyên nghiệp”. Ngay từ những ngày đầu thành
lập Đảng, Lênin đã rất coi trọng công tác cán bộ, người chỉ đạo tổ chức đào tạo,
bồi dưỡng. Cách mạng tháng Mười Nga không thể thành công nếu cơng tác cán
bộ khơng được xây dựng tốt. Khi có chính quyền thì u cầu đầu tiên là phải lựa
chọn, xây dựng, bố trí đội ngũ cán bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và
bảo vệ chế độ XHCN. Người khẳng định: “Nghiên cứu con người, tìm những
cán bộ có bản lĩnh. Hiện nay đó là then chốt; nếu khơng thế thì tất cả mọi mệnh
lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn”.
Ngay từ thời kỳ vận động thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc đã chủ trương
mở lớp bồi dưỡng cán bộ. Người trực tiếp viết tài liệu bồi dưỡng Đường kách
mệnh và giảng bài. Những lớp cán bộ đó sau này trở thành những cán bộ nòng
cốt của phong trào cách mạng. Quan điểm của Hồ Chí Minh coi “cán bộ là cái
gốc của mọi công việc”, “Công việc thành công hay thất bại đều đều do cán bộ

tốt hay kém”; “...huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”.
Bước vào công cuộc đổi mới, Đảng ta đã lấy đổi mới tư duy làm khâu đột
phá, đó cũng chính là vấn đề con người, vấn đề cán bộ. Tổng kết 10 năm tiến
hành đổi mới, Đảng khẳng định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của
cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu
then chốt trong công tác xây dựng Đảng”.
16


Trong điều kiện đẩy mạnh phát triển nền kinh tế thị trường XHCN, mở
rộng hội nhập quốc tế và những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, cơng
tác cán bộ lại càng có ý nghĩa quan trọng, liên quan đến sự sống còn của Đảng,
của chế độ XHCN. Tại Đại hội XI, Đảng ta khẳng định: “Xây dựng đội ngũ cán
bộ, cơng chức trong sạch, có năng lực đáp ứng u cầu của tình hình mới”.
Trong đó chỉ rõ: “Rà sốt, bổ sung, hồn thiện quy chế quản lý cán bộ, công
chức; phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và thẩm quyền của mỗi
cán bộ, công chức; tăng cường tính cơng khai, minh bạch, trách nhiệm của hoạt
động công vụ. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, cơng chức cả về bản lĩnh
chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý nhà
nước. Có chính sách đãi ngộ, động viên, khuyến khích cán bộ, cơng chức hồn
thành nhiệm vụ và có cơ chế loại bỏ, bãi miễn những người khơng hồn thành
nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân dân. Tổng kết việc thực hiện
“nhất thể hoá” một số chức vụ lãnh đạo Đảng, Nhà nước để có chủ trương phù
hợp. Thực hiện bầu cử, bổ nhiệm lại chức vụ lãnh đạo theo hướng cấp trưởng
giới thiệu cấp phó để cấp có thẩm quyển xem xét, quyết định”.
Đất nước ta đang trong quá trình bước vào thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa, địi hỏi Đảng ta phải xây dựng được đội ngũ ngang tầm với
nhiệm vụ nặng nề. Đảng ta coi công tác cán bộ là then chốt của công tác xây
dựng Đảng. Tính chất then chốt của cán bộ xuất phát từ mối quan hệ biện chứng
giữa cán bộ với đướng lối, nhiệm vụ chính trị, với tổ chức, với phong trào cách

mạng của quần chúng.
Vai trò của người cán bộ thể hiện qua bốn mối quan hệ cơ bản:
+ Một là, với đường lối, chính sách;
+ Hai là, với bộ máy (các cơ quan lãnh đạo và quản lý);
+ Ba là, với công việc;
+ Bốn là, với quần chúng.
Chỉ khi nào hồn thành sứ mệnh do các mối quan hệ đó địi hỏi thì người
cán bộ mới thực hiện đúng vai trị của mình. Vai trị của cán bộ chỉ thể hiện rõ
ràng và hiệu lực khi gắn với đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng.
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI nhấn mạnh:
“Thành tựu 25 năm đổi mới là thành quả của toàn Đảng, tồn dân, tồn qn,
trong đó có sự đóng góp to lớn của đội ngũ cán bộ, đảng viên”.
b. Vai trò của cơng tác cán bộ của Đảng
Vai trị của cơng tác cán bộ được thể hiện như sau:
- Một là, nhằm tạo ra một đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị, có năng
lực tổ chức và năng lực công tác tốt.
17


- Hai là, nhằm tạo ra một đội ngũ cán bộ có trình độ chun mơn, nghiệp
vụ, có phẩm chất chính trị trong sáng và đạo đức, lối sống lành mạnh.
- Ba là, nhằm đào tạo cho Đảng, Nhà nước những cán bộ gương mẫu, đi
đầu trong mọi khó khăn, thách thức.
- Bốn là, nhằm trẻ hóa cán bộ và thu hút nhân tài.
- Năm là, công tác cán bộ có vai trị quan trọng đến việc rèn luyện, phấn
đấu của cán bộ qua đó tạo ra một đội ngũ cán bộ đồng bộ và có chất lượng tốt.
- Sáu là, công tác cán bộ quan hệ mật thiết và chi phối mạnh mẽ các lĩnh
vực của công tác xây dựng Đảng.
- Bảy là, công tác cán bộ là một nội dung quan trọng trong phương thức
lãnh đạo của Đảng./.

Câu 6: Phân tích những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ của Đảng hiện nay.
1. Tiếp tục quán triệt, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên
Phải làm cho mọi cán bộ, đảng viên nhận biết rõ ý nghĩa, tầm quan trọng
của việc thực hiện chiến lược cán bộ trong thời kỳ mới; quán triệt sâu sắc quan
điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp lớn của Đảng nhằm xây dựng đội ngũ cán
bộ và đổi mới công tác cán bộ đáp ứng được yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh tồn diện
cơng cuộc đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động hội
nhập quốc tế.
2. Đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác
cán bộ
Tiếp tục cụ thể hóa, thể chế hóa nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo
công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của
tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về cơng tác cán
bộ, đáp ứng u cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới.
Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống các quy định, quy chế về sự lãnh
đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của các tổ chức thành viên khác
trong hệ thống chính trị; sự lãnh đạo và lề lối làm việc của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với Quốc hội, Chính phủ, các cơ
quan tư pháp, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội ở Trung ương;
từ đó hồn thiện các quy chế, quy định về sự lãnh đạo của cấp ủy, ban thường vụ
cấp ủy đối với các cơ quan tương ứng của hệ thống chính trị.
Bổ sung, hoàn thiện quy định về sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội
nhân dân và Công an nhân dân; tiếp tục nghiên cứu cải tiến quy trình cơng tác
18


nhân sự của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội.
3. Đổi mới tư duy, cách làm, khắc phục có kết quả những yếu kém
trong từng khâu của công tác cán bộ. Cải thiện môi trường làm việc để tạo

động lực cống hiến, phấn đấu vươn lên của cán bộ
Thứ nhất, về đánh giá cán bộ, phải đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ,
công khai, minh bạch, khách quan, trung thực, tồn diện và cơng tâm; lấy chất
lượng, hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ làm thước đo chính để đánh giá cán bộ.
Coi trọng và phát huy trách nhiệm đánh giá của thủ trưởng, người đứng đầu,
người trực tiếp quản lý, sử dụng cán bộ có thẩm quyền theo tiêu chuẩn chức
danh và tiêu chí đánh giá cụ thể đối với từng loại cán bộ. Sớm sửa đổi, bổ sung
Quy chế đánh giá cán bộ; xây dựng mới tiêu chuẩn chức danh cán bộ và tiêu chí
đánh giá cán bộ.
Thứ hai, về cơ chế, chính sách, xây dựng cơ chế, chính sách phát hiện,
đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng người có đức, có tài và cơ chế tiến cử cán bộ; tạo
bước chuyển căn bản trong việc phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài
và đội ngũ cán bộ khoa học, chuyên gia giỏi; xây dựng chiến lược quốc gia về
nhân tài; coi đó là giải pháp rất quan trọng trong thực hiện chiến lược cán bộ.
thực hiện tinh giảm 15 – 20% biên chế cùng với việc mở rộng thực hiện cơ chế
khốn chi phí hành chính, khốn quỹ lương để tiết kiệm và tăng thu nhập cho
cán bộ, công chức; ban hành chính sách về nhà ở, nhà cơng vụ đối với cán bộ,
công chức.
Thứ ba, về nâng cao chất lượng công tác quy hoạch cán bộ, bảo đảm sự
chủ động, có tầm nhìn xa, đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài; lấy nhiệm
vụ chính trị, kết quả hoàn thành nhiệm vụ và triển vọng, khả năng phát triển của
cán bộ làm căn cứ để xây dựng quy hoạch cán bộ; thực hiện kế hoạch đào tạo,
luân chuyển, bố trí, sử dụng cán bộ theo quy hoạch. Mở rộng hình thức thí điểm
thi tuyển cán bộ vào các chức danh lãnh đạo cấp phòng, cấp vụ ở các tỉnh, thành
phố, các bộ, ngành ở Trung ương.
Thứ tư, tiếp tục thực hiện chủ trương luân chuyển cán bộ, đưa công tác
này trở thành nền nếp thường xuyên trong công tác cán bộ. Kết hợp việc luân
chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý từ Trung ương về địa phương, từ địa phương
lên Trung ương với luân chuyển từ địa phương này sang địa phương khác, từ
cơng tác Đảng, đồn thể sang công tác ở các cơ quan Nhà nước và ngược lại.

Xây dựng cơ chế và thực hiện theo lộ trình chủ trương bố trí bí thư cấp ủy, chủ
tịch UBND, chánh án TAND, viện trưởng VKSND cấp tỉnh, cấp huyện và cán
bộ lãnh đạo các ngành công an, tài chính, thuế, hải quan,…khơng phải là người
địa phương. Kết hợp thực hiện cơ chế thực tập, tập sự lãnh đạo, quản lý với luân
19


chuyển cán bộ để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
4. Tạo chyển biến sâu sắc trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và
cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức theo hướng nâng cao chất lượng, bảo
đảm sự đồng bộ, kế thừa và phát triển
Nâng cao chất lượng đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng cán bộ theo quy
hoạch, theo tiêu chuẩn chức danh cán bộ, coi đây là giải pháp quan trọng hàng
đầu trong thực hiện chiến lược cán bộ trong giai đoạn mới. Củng cố, nâng cao
chất lượng về mọi mặt các học viện, trường, trung tâm chính trị, hành chính;
nâng cao chất lượng giảng viên các trường đại học trong cả nước và các cơ sở
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong hệ thống chính trị.
Phân định rõ giữa đào tạo với bồi dưỡng kiến thức; giữa đào tạo đạt chuẩn
và đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nhân tài để từ đó xác định nội dung, phương
thức đào tạo, bồi dưỡng cho phù hợp theo tinh thần kết luận số 24-KL/TW ngày
5/6/2012 của Bộ Chính trị (khóa XI) về đẩy mạnh cơng tác quy hoạch, luân
chuyển cán bộ đến năm 2020 và những năm tiếp theo. Nghiên cứu xây dựng
chương trình quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy
mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
chủ động hội nhập quốc tế.
Căn cứ vào Cương lĩnh, chiến lược phát triển đất nước giai đoạn 2010 –
2020 để dự báo, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và có biện pháp cơ cấu lại đội
ngũ cán bộ, công chức theo yêu cầu tăng cường chất lượng (cả về phẩm chất,
năng lực, hiệu quả công tác); tinh giảm biên chế hành chính, giảm tối đa biên
chế phục vụ (chuyển sang hợp đồng lao động). Bảo đảm cơ cấu hợp lý giữa các

thành phần cán bộ, tăng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số, cán
bộ xuất thân từ cơng nhân, con gia đình có cơng với cách mạng; giữa các độ
tuổi, giữa các lĩnh vực công tác (cán bộ cơ quan Đảng, cơ quan Nhà nước (lập
pháp, hành pháp, tư pháp), đoàn thể, lực lượng vũ trang, cán bộ quản lý doanh
nghiệp trong các thành phần kinh tế, cán bộ khoa học, chuyên gia…). Khắc phục
tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ trong từng ngành, từng lĩnh vực, địa
phương, đơn vị.
Cơ cấu hợp lý các chức danh lãnh đạo, quản lý, các ngạch bậc công chức;
phân định rõ hơn các loại cán bộ, công chức, viên chức để định rõ yêu cầu về
tiêu chuẩn, nhiệm vụ thường xun và có chính sách phù hợp, bảo đảm các
ngạch bậc phù hợp với trách nhiệm công việc; khơng để tình trạng cán bộ lãnh
đạo nhiều hơn người thừa hành, khơng bố trí được cơng việc này lại bố trí sang
cơng việc khác để vẫn giữ “ghế lãnh đạo” gây khó khăn cho cơng việc, gây bức
xúc trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Có cơ chế bảo đảm việc từ chức của
20



×