Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Trách nhiệm hình sự đối với tội phạm bạo lực gia đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.62 KB, 25 trang )

CHƯƠNG III. KINH NGHIỆM LẬP PHÁP CỦA CÁC QUỐC GIA
TRÊN THẾ GIỚI VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI PHẠM
BẠO LỰC GIA ĐÌNH VÀ BÀI HỌC RÚT RA CHO VIỆT NAM
3.1. Quy định về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm bạo lực gia đình ở
một số quốc gia trên thế giới
3.1.1. Hàn Quốc
Trong những năm gần đây, nạn bạo hành gia đình tại Hàn Quốc tăng lên với
con số đáng kinh ngạc. Những số liệu này chỉ là bề nổi của vấn đề đang gây
nhức nhối trong xã hội Hàn vì nhiều trường hợp, nạn nhân vẫn giữ im lặng trước
những trận hành hạ của chồng.
Bạo lực gia đình ở Hàn Quốc là một vấn đề phổ biến, được hình thành bởi
đặc tính gia trưởng trong xã hội và cấu trúc của gia đình. Tính chất của sự việc
thường tăng lên khi đối tượng gây bạo lực sử dụng rượu nặng. Bạo lực gia đình ở
Hàn Quốc thường được coi là vấn đề riêng tư và không phải là vấn đề mà cơ
quan thực thi pháp luật phải giải quyết. Theo thống kê của Văn phịng Cơng tố
Tối cao, 60% các vụ bạo lực gia đình đã được loại bỏ khỏi các cáo buộc truy tố
trong năm 2021, trong khi chỉ có 15,6% trải qua các thủ tục tố tụng. Tổng cộng
có 118.178 trường hợp được báo cáo nhưng chỉ có 8.762 vụ bắt giữ được thực
hiện.
Chính phủ Hàn Quốc đã xây dựng hệ thống hỗ trợ nạn nhân bị bạo lực, và
điển hình nạn nhân của bạo lực tình dục. Hệ thống này được Bộ Phụ nữ và Gia
đình quản lý thơng qua các giai đoạn thực hiện gồm: Bộ PNGĐ chỉ đạo lập kế
hoạch, hướng dẫn thực hiện và hỗ trợ ngân sách và chỉ đạo, giám sát. Các tỉnh,


thành có trách nhiệm phân bổ tiền hỗ trợ (Hỗ trợ chi phí địa phương) và chỉ đạo,
giám sát cơng tác thực hiện tại địa phương. Các thành phố-quận-huyện có nhiệm
vụ phê duyệt việc thành lập cơ sở bảo vệ nạn nhân, chỉ đạo, giám sát và nâng cao
năng lực nghiệp vụ của nhân viên ở cơ sở.
Các cơ sở hỗ trợ nạn nhân gồm:
• Điểm tư vấn, cơng trình bảo vệ;


• Đường dây nóng (1366);
• Trung tâm trẻ em Hoa hướng dương;
• Trung tâm phụ nữ trẻ em Hoa hướng dương;
• Trung tâm hỗ trợ 1 cửa.
Các cơ sở này cung cấp các dịch vụ hỗ trợ nạn nhân như sau:
• Phát hiện vụ việc (Đường dây nóng 1336): Tư vấn khẩn cấp, kết nối dịch
vụ.
• Hỗ trợ tư vấn (Điểm tư vấn nạn nhân): Xây dựng điểm tư vấn; Tăng
cường trình độ chun mơn của nhân viên.
• Hỗ trợ y tế (Cơ quan y tế chuyên trách về bạo lực tình dục): Tăng cường
quản lý cơ quan y tế chuyên trách; Xây dựng, phổ cập sổ tay nghiệp vụ đào tạo y
tế.
• Trợ giúp pháp luật (Cơ quan trợ giúp pháp lý miễn phí): Tư vấn pháp luật
và đại diện tố tụng dân sự-hình sự.


• Hỗ trợ điều tra (Cảnh sát và công tố): Tăng cường đào tạo các cơ quan
điều tra chuyên trách; Phịng chống tái diễn hành vi bạo lực.
• Bảo vệ, hỗ trợ tái hòa nhập xã hội (Cơ sở bảo vệ nạn nhân): Xây dựng cơ
sở bảo vệ; Chương trình trị liệu, phục hồi cho nạn nhân.
• Hỗ trợ nạn nhân: tư vấn, luật pháp, chữa trị tâm lý, y tế, điều tra.
Tờ Korea Times mới đây nhấn mạnh bạo hành trong gia đình, đặc biệt khi
nạn nhân là người vợ ngoại quốc, đang trở thành vấn nạn trong xã hội Hàn Quốc.
Báo cáo năm 2021 của Ủy ban Nhân quyền quốc gia Hàn Quốc cho biết có 4/10
người ngoại quốc lấy chồng Hàn là nạn nhân của bạo hành trong gia đình. Trong
vịng 10 năm trước, khi báo cáo được tổng kết, có 9 trường hợp người vợ ngoại
quốc bị giết hại tại Hàn Quốc với hung thủ đa phần chính là người chồng.
Thậm chí, một cựu lãnh đạo cấp cao của Hàn Quốc từng nhận xét, bạo lực
gia đình là một trong những căn bệnh dẫn đến trầm cảm của xã hội nước này bên
cạnh bạo lực tình dục, bạo lực học đường và thực phẩm không bảo đảm an toàn

vệ sinh.
Đối với một số người, bạo lực gia đình ở Hàn Quốc là vấn đề riêng tư,
khơng cần cơ quan thực thi pháp luật phải giải quyết. Theo luật hiện hành, nếu
nạn nhân của bạo lực (thông thường là người vợ) không muốn tố cáo, quyền
buộc tội sẽ bị xóa. Tuy nhiên, với các luật mới, ngay cả khi nạn nhân bị mất
quyền buộc tội, người bị kết án vẫn phải trải qua 20 đến 40 giờ tư vấn tại Trung
tâm Tư vấn bạo hành gia đình sau khi được giáo dục từ 8 đến 16 giờ tại Văn
phòng Quản chế. Hơn nữa, những người mang vũ khí có thể gây chết người hoặc
dụng cụ nguy hiểm sẽ bị bắt nếu bị nghi ngờ gây tổn hại cho gia đình của họ.


Ngay cả những trường hợp bạo lực hoặc đe dọa nhỏ cũng sẽ bị cảnh sát gửi đến
Tòa án Quan hệ đối nội. Đối với các gia đình đa chủng tộc, cảnh sát lên kế hoạch
cung cấp người phiên dịch và luật sư cho các nạn nhân thông qua các trung tâm
hỗ trợ đa văn hóa…
Luật Phịng chống bạo lực gia đình và bảo vệ nạn nhân Hàn Quốc ra đời
năm 1997 và sửa đổi gần nhất năm 2008 quy định rất rõ trách nhiệm của Nhà
nước và chính quyền địa phương. Trong đó có việc thiết lập và vận hành hệ
thống báo cáo về các hành vi bạo lực gia đình; điều tra, nghiên cứu, giáo dục và
phổ biến các biện pháp ngăn chặn; thành lập và quản lý các cơ sở bảo vệ, hỗ trợ
nạn nhân; xây dựng hệ thống hợp tác giữa các cơ quan chức năng có liên quan để
tạo điều kiện dễ dàng hơn cho việc bảo vệ, giúp đỡ các nạn nhân; phân bổ ngân
sách cho các mục đích trên…
Bộ trưởng Bộ Bình đẳng giới có trách nhiệm điều tra tình trạng bạo lực gia
đình thực tế trên cơ sở ba năm, cơng bố kết quả và sử dụng những phát hiện đó
như những tài liệu cơ bản trong hoạch định chính sách ngăn chặn bạo lực gia
đình.
Nhà nước và các chính quyền địa phương cũng cần thiết lập và điều hành
trung tâm tư vấn liên quan đến bạo lực gia đình cũng như các cơ sở bảo vệ nạn
nhân. Đó có thể là các cơ sở bảo vệ ngắn hạn không quá 6 tháng hoặc các cơ sở

bảo vệ dài hạn, trong đó cung cấp nơi cư trú thuận tiện cho các nạn nhân để họ tự
sinh sống trong khoảng thời gian không q 2 năm. Ngồi ra cịn có các cơ sở
bảo vệ cho các nạn nhân là người nước ngồi có vợ hoặc chồng là công dân Hàn
Quốc và các nạn nhân là người khuyết tật trong thời gian cũng không quá 2 năm.


Chính quyền từ Trung ương đến địa phương sẽ trợ cấp một phần chi phí cho
việc thành lập và điều hành các trung tâm tư vấn và cơ sở bảo vệ nói trên. Đặc
biệt đối với các cơ sở bảo vệ nạn nhân là người khuyết tật, chính quyền sẽ hỗ trợ
tài chính nhằm bảo đảm lắp đặt các thiết bị đạt tiêu chuẩn mà Bộ Bình đẳng giới
đưa ra…
Tương tự như Luật Phịng chống bạo lực gia đình và bảo vệ nạn nhân, Luật
về xử phạt tội phạm bạo lực gia đình năm 1997 cũng quy định nhà nước và các
cơ quan quản lý địa phương phải có biện pháp ngăn chặn bạo lực gia đình và bảo
vệ nạn nhân; cho phép người phạm tội có thể tự thú hoặc có thể bị tố cáo bởi
những người có quan hệ huyết thống. Để có thể nhanh chóng bảo vệ các nạn
nhân, luật quy định khi có vụ việc bạo lực gia đình, cảnh sát đến hiện trường có
quyền tạm thời cách ly hoặc cấm tiếp cận các đương sự. Luật cung cấp các
phương tiện để nạn nhân có thể tự bảo vệ an toàn của bản thân, cho phép họ trực
tiếp đến tòa án yêu cầu được bảo vệ. Những người vi phạm quy định bảo vệ,
không chấp hành lệnh bảo vệ nạn nhân hoặc lệnh bảo vệ tạm thời nạn nhân có
thể bị phạt nặng như phạt tù 3 năm hoặc nộp phạt với số tiền tương đương với
30.000 USD.
Tại Hàn Quốc, bạo lực gia đình (đặc biệt đối với phụ nữ) trước đây được
coi là bình thường và không phải là tội phạm. Đến năm 1983, tổ chức “Điện
thoại của phụ nữ Hàn Quốc” là tổ chức bảo vệ phụ nữ đầu tiên được thành lập tại
Hàn Quốc. Kể từ thời điểm này, vấn đề bạo lực gia đình đã được tồn xã hội
quan tâm. Theo tài liệu của tổ chức “Điện thoại của phụ nữ Hàn Quốc” trong 13
năm (từ năm 1990 đến 2002) có năm vụ giết người.



Mười bốn năm sau, năm 1997, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, bảo vệ
người thiệt hại đã ra đời và được Quốc hội thông qua. Luật này đã được áp dụng
từ tháng 7 năm 1998. Từ đó đến nay đã qua 15 lần chỉnh sửa và bổ sung. Tháng
7 năm 1998, Luật Xử phạt tội phạm bạo lực gia đình ra đời. Và đến năm 2015,
luật này cũng đã được sửa đổi, bổ sung.
Nhưng cho đến nay, vấn đề bạo lực gia đình vẫn xảy ra với mỗi gia đình
Hàn Quốc. Luật Đặc biệt xử phạt tội phạm bạo lực gia đình ra đời vào tháng
12/1997 và được áp dụng vào tháng 7/1998. Trong luật này Khoản 29: Điều trị
tạm thời: Nạn nhân hoặc gia đình cách ly người gây ra bạo lực, cấm tiếp cận với
nạn nhân, luôn giữ khoảng cách không được đến gần trong phạm vi 100m (tính
từ nhà và cơ quan của người bị bạo lực). Cấm tiếp cận nạn nhân bằng các
phương tiện thông tin như: điện thoại, email, internet…Luật Hình sự căn cứ:
Điều 25 khoản 2: Gây ra tổn hại và bạo hành, Điều 28: Bỏ rơi và ngược đãi,
Điều 29: Bắt giữ và giam cầm, Điều 30: Đe dọa, Điều 32: Hiếp dâm…Tội phạm
bạo lực gia đình là tội phạm trong mối quan hệ gia đình nên bị xử phạt nặng hơn.
Theo căn cứ pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình và bảo vệ phụ nữ ở
Bộ Phụ nữ và Gia đình, 3 năm một lần tiến hành điều tra tình hình về bạo lực gia
đình. Kết quả điều tra năm 2007, trên 10.000 hộ gia đình (thực trạng bạo lực gia
đình cả nước), thì trong một năm bạo lực gia đình chiếm 50,4%. Cứ hai hộ gia
đình thì có một hộ xảy ra bạo lực gia đình.
Theo điều tra năm 2010, đối tượng điều tra trong độ tuổi từ 19 đến 65 trên
2.659 nam nữ đã có gia đình. Kết quả cho thấy trong một năm đã xảy ra bạo lực
giữa hai vợ chồng là 53,8%. Tỷ lệ này cao hơn 5 lần so với các quốc gia phát
triển khác. Theo số liệu điều tra của Bộ Phụ nữ và Gia đình năm 2010, đối tượng


nạn nhân nữ bị bạo hành là 213 người. Theo tài liệu của “Điện thoại của phụ nữ
Hàn Quốc” năm 2012 thì trong một năm phụ nữ chết do chồng và bạn trai giết là
120 người, có ý đồ giết nhưng không thành là 49 vụ. Cũng theo tài liệu của

“Điện thoại của phụ nữ Hàn Quốc” năm 2021, số phụ nữ bị giết bởi ông xã và
bạn trai là 123 người, giết nhưng không thành công là 75 người.
3.1.2. Nhật Bản
Theo thống kê cảnh sát Nhật Bản công bố ngày 4/3/2021, số trường hợp cần
tư vấn về bạo lực gia đình tại Nhật Bản đã lên tới con số 82.643 trong năm 2020,
trong bối cảnh người dân dành thời gian ở nhà nhiều hơn hơn do đại
dịch COVID-19 bùng phát. Đây là con số cao nhất kể từ khi luật chống bạo lực
hơn nhân tại nước này có hiệu lực năm 2001.
Số ca tư vấn về hành vi đeo bám ở Nhật Bản trong năm 2020 là 20.189 vụ,
giảm 723 vụ so với năm 2019, song là năm thứ 8 liên tiếp con số này ở mức trên
20.000 vụ kể từ năm 2013. Theo Cơ quan cảnh sát quốc gia Nhật Bản, số vụ bạo
lực gia đình cần tư vấn năm 2020 tăng 436 vụ so với năm 2019, trong số này
76,4% nạn nhân là phụ nữ. Xét theo độ tuổi, có 23,4% nạn nhân trong độ tuổi 20;
nạn nhân trong độ tuổi 30 chiếm 27% và độ tuổi 40 chiếm 22,9%. Nam giới
chiếm 75,9% trong số thủ phạm hành hung, trong đó 26,3% trong độ tuổi 30 và
23,9% trong độ tuổi 40.
Số liệu cũng cho thấy trong 8.778 vụ điều tra liên quan đến hành hung, có
5.183 vụ bạo lực gia đình, 2.626 vụ gây thương tích. Mặc dù khơng có vụ giết
người, nhưng có 110 trường hợp thủ phạm có ý định giết người và một vụ gây
thương tích dẫn đến tử vong.


Trong số các nạn nhân bị đeo bám, có 87,6% người là phụ nữ. Những người
trong độ tuổi 20 chiếm tỷ lệ cao nhất ở mức 34,7%, tiếp theo là độ tuổi 30 với
23,6%. Nam giới chiếm tới 80,7% số thủ phạm của các vụ đeo bám, trong đó
nhóm thủ phạm ở độ tuổi 40 chiếm tỷ lệ cao nhất là 19,4%. Báo cáo cũng chỉ ra
có một số thủ phạm trong độ tuổi vị thành niên hoặc từ 60 tuổi trở lên.
Về mối quan hệ giữa nạn nhân và thủ phạm, có 40,8% trường hợp là các
cặp đơi từng hẹn hò hoặc đang hẹn hò, trong khi 7,4% là các cặp đôi từng là vợ
chồng hoặc đang là vợ chồng, hoặc chung sống cùng nhau. Số vụ liên quan đến

người ngoài chiếm 7,8%.
Cảnh sát đã điều tra được 2.503 vụ đeo bám trong năm 2020, tăng 148 vụ
so với năm 2019. Trong số đó, 1.518 vụ tấn cơng và gây thương tích, 985 vụ vi
phạm luật chống đeo bám.
Nhật Bản đã xây dựng được khung pháp lý về phòng, chống bạo lực gia
đình khá hồn thiện. Nhiều đạo luật quan trọng liên quan đến phịng, chống bạo
lực gia đình đã được thông qua như: Luật về phúc lợi cho trẻ em (1947); Luật về
đảm bảo cuộc sống (1950); Luật về phúc lợi xã hội (1951); Luật về phúc lợi cho
bà mẹ, trẻ em và người goá (1964); Luật về cảnh sát; Bộ luật Hình sự; Luật về
phịng, ngừa bạo lực hôn nhân và bảo vệ nạn nhân năm 2001 và sửa đổi năm
2004 là đạo luật chính, là cơ sở phát lý để phịng, chống bạo lực gia đình. Đạo
luật này đã quy định một cách chặt chẽ các vấn đề về bạo lực gia đình như: khái
niệm về bạo lực gia đình; xử lý người có hành vi vi phạm pháp luật phịng, ngừa
bạo lực hơn nhân; quyền của nạn nhân bạo lực gia đình; trách nhiệm của Chính
phủ và chính quyền địa phương; chính sách và định hướng cơ bản của cơng tác
phịng, chống bạo lực gia đình... Cùng với hệ thống pháp luật khá hồn thiện,


Chính phủ Nhật Bản cịn thành lập các Trung tâm tư vấn và hỗ trợ về bạo lực
hôn nhân. Các trung tâm này có nhiệm vụ:
1. Tư vấn cho các nạn nhân về các vấn đề ảnh hưởng đến cuộc sống của họ
hoặc giới thiệu họ với các nhân viên tư vấn phụ nữ hoặc các tổ chức tư vấn thích
hợp;
2. Tư vấn hướng dẫn về y tế , tâm lý hoặc các vấn đề khác giúp họ phục hồi
về tinh thần và thể chất;
3. Cung cấp các biện pháp bảo vệ tạm thời cho nạn nhân và cả các thành
viên khác trong gia đình trong trường hợp có các thành viên khác trong gia đình;
4. Cung cấp thơng tin, tư vấn và thông tin cho các tổ chức liên quan, cùng
với các hình thức hỗ trợ khác có liên quan;
5. Cung cấp thông tin, tư vấn, hợp tác, liên kết với các tổ chức liên quan,

cũng như các hình thức trợ giúp khác liên quan đến các cơ sở mà nạn nhân có thể
sống và được bảo vệ ...
Như vậy, với một hệ thống pháp luật hoàn thiện cùng với các biện pháp tích
cực trong đó có biện pháp thành lập các trung tâm tư vấn và hỗ trợ về bạo lực
hôn nhân, Nhật Bản là một trong các nước ở khu vực Châu Á đạt được kết quả
cao trong việc phòng, chống vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình
đối với phụ nữ. Những kinh nghiệm quý báu này là bài học quý giá cho các nước
khác trong đó có Việt Nam trong việc ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng vi phạm
pháp luật phịng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ.
3.1.3. Thụy Điển


Năm 1979, Thụy Điển là nước đầu tiên trên thế giới ban hành lệnh cấm
trừng phạt thân thể. Mặc dù vậy, hàng ngàn trẻ em bị lạm dụng ở Thụy Điển mỗi
năm và con số này đang tăng đều đặn. Bạo lực đối với trẻ em là một vấn đề ưu
tiên thấp đối với cảnh sát và văn phịng cơng tố viên và có những thiếu sót lớn
trong việc quản lý bạo lực đối với trẻ em.
Điều 19 của Công ước về Quyền trẻ em quy định rằng trẻ em phải được bảo
vệ chống lại “tất cả các hình thức bạo lực về thể chất hoặc tâm lý, gây tổn hại
hoặc lạm dụng, bỏ bê hoặc đối xử cẩu thả, lạm dụng hoặc bóc lột, bao gồm cả
lạm dụng tình dục”. Công ước về quyền trẻ em cũng rõ ràng rằng khơng có bạo
lực đối với trẻ em là hợp lý. Điều 19 đề cập đến các hình thức bạo lực trong đó
trẻ em phải chịu sự giám hộ của cha mẹ/người giám hộ hoặc người chăm sóc
khác. Ví dụ về những người chăm sóc khác có thể là cha mẹ nuôi, cha mẹ nuôi,
người giám hộ, nhân viên trường học và trường mầm non, nhân viên tại nhà trẻ
hoặc nhà ở và những người khác.
Ủy ban Liên Hợp Quốc về Quyền Trẻ em nhấn mạnh rằng bạo lực thường
liên quan đến tổn hại về thể chất hoặc cố ý gây tổn hại, nhưng điều quan trọng là
không bỏ qua những đau khổ và hậu quả mà ngay cả bạo lực phi thể chất cũng
có thể gây ra cho trẻ em. Ví dụ về bạo lực phi thể chất có thể là, ví dụ, lạm dụng

tâm lý, bỏ bê hoặc đứa trẻ nhìn thấy bạo lực trong gia đình.
Để bị trừng phạt vì đã khiến một đứa trẻ bị bạo lực, đứa trẻ phải nhận được
một số hình thức thương tích cơ thể, bệnh tật hoặc đau đớn. Nỗi đau đề cập đến
sự đau khổ về thể xác không quá đáng kể. Lệnh cấm trừng phạt thân thể bao gồm
nhiều hình thức bạo lực hơn các quy định của pháp luật hình sự về tấn cơng.
Điều này có nghĩa là một số loại hình phạt thể xác “nhẹ” khơng bị hình sự hóa -


nhưng vẫn bất hợp pháp. Việc bảo vệ hình sự trẻ em bị bạo lực chỉ bao gồm
những hình thức bạo lực có thể dẫn đến tội phạm nếu nhắm vào người lớn.
So với các quốc gia khác ở châu Âu, Thụy Điển còn chưa giải quyết tốt các
tội phạm liên quan đến bạo lực đối với trẻ em. Ngoài ra, số lượng các trường hợp
không được báo cáo là cao, vì nhiều trường hợp bạo lực đối với trẻ em không
bao giờ được báo cáo cho cảnh sát, đặc biệt là trong trường hợp trẻ nhỏ và một
số nhóm dễ bị tổn thương .
Trong cuộc khảo sát quốc gia gần đây nhất từ năm 2021, người ta thấy rằng
chỉ có 5% nạn nhân của bạo lực tâm lý hoặc thể chất đã báo với cảnh sát. Tổng
cộng, 45% đã nói với ai đó, thường là với anh chị em ruột hoặc với một người
bạn. Nghiên cứu cho thấy tổng cộng 44% sinh viên được khảo sát tại một số thời
điểm trong cuộc sống của họ đã tiếp xúc với lạm dụng trẻ em. Lạm dụng trẻ em
ở đây đề cập đến các loại bạo lực khác nhau như bạo lực thể xác, bạo lực tâm lý,
bỏ bê, lạm dụng tình dục và bạo lực kinh nghiệm giữa người lớn trong gia đình.
36% sinh viên được khảo sát đã bị phơi nhiễm bởi một người nào đó trong gia
đình. 9% sinh viên được khảo sát đã tiếp xúc nhiều lần, tức là tiếp xúc với các
loại bạo lực hoặc bạo lực khác nhau trong những dịp lặp đi lặp lại. Những đứa
trẻ này có nguy cơ bị tổn hại đặc biệt.
Cuộc khảo sát cho thấy Công ước về Quyền trẻ em đã khơng có tác động
như mong đợi. Lệnh cấm aga gửi một tín hiệu rõ ràng, nhưng khơng được thực
thi đầy đủ trong thực tế. Một hậu quả của điều này là việc cấm trừng phạt thân
thể bị suy yếu và cha mẹ có thể sử dụng bạo lực đối với con cái của họ mà khơng

có nhiều nguy cơ gây hậu quả.


Trong các khuyến nghị mới nhất cho Thụy Điển, Ủy ban Liên Hợp Quốc về
Quyền Trẻ em bày tỏ lo ngại rằng ngày càng có nhiều trẻ em ở Thụy Điển bị bạo
lực và những đứa trẻ này không được hỗ trợ và giúp đỡ. Thụy Điển được khuyến
nghị tạo ra một hệ thống bảo vệ chặt chẽ và phối hợp cho trẻ em, đồng thời làm
việc để nâng cao kiến thức về bạo lực đối với trẻ em. Sự tham gia của trẻ em vào
công việc này là đặc biệt quan trọng. Ủy ban Liên Hợp Quốc về Quyền Trẻ em
chỉ ra rằng những người làm việc với trẻ em khơng có đủ kiến thức khi phát hiện
sớm các dấu hiệu dễ bị tổn thương, dẫn đến chỉ một vài trường hợp được báo cáo
cho các dịch vụ xã hội.
Chính phủ đã thực hiện một số biện pháp nhất định để tăng cường hệ thống
bảo vệ trẻ em ở Thụy Điển. Năm 2005, Chính phủ đã quyết định ủy quyền cho
Văn phịng Cơng tố viên, Ủy ban Cảnh sát Quốc gia, Ủy ban Y tế và Phúc lợi
Quốc gia và Hội đồng Pháp y Quốc gia để đóng góp vào việc thành lập một số
cái gọi là nhà trẻ em. Barnahusen tập hợp các nhà chức trách sẽ hợp tác khi một
đứa trẻ là nạn nhân của tội phạm dưới cùng một mái nhà, để giúp đứa trẻ dễ dàng
hơn. Môi trường tại nhà trẻ cần được điều chỉnh theo nhu cầu của trẻ em và tạo
ra một bầu khơng khí an tồn, thoải mái.
Năm 2012, một điều phối viên quốc gia được bổ nhiệm với nhiệm vụ chống
bạo lực gia đình. Nhiệm vụ cuối cùng đã được báo cáo vào tháng 7 năm 2014.
Theo kết quả của báo cáo, Chính phủ đã ủy quyền cho Đại học Linkưping thành
lập một trung tâm nghiên cứu quốc gia về bạo lực đối với trẻ em, với mục đích
thu thập và phổ biến kiến thức về bạo lực và các hành vi lạm dụng khác đối với
trẻ em. Cuộc điều tra đề xuất rằng Công ước về Quyền trẻ em nên trở thành luật
của Thụy Điển cũng đã xem xét làm thế nào để bảo vệ pháp lý trẻ em bị bạo lực
bởi người thân có thể được tăng cường.



Các mục tiêu toàn cầu đã được tất cả các quốc gia thành viên Liên Hợp
Quốc thông qua và bao gồm 17 mục tiêu toàn cầu và 169 mục tiêu phụ cho phát
triển kinh tế, xã hội và môi trường lâu dài và bền vững trên thế giới. Các mục
tiêu phải đạt được vào năm 2030. Các mục tiêu toàn cầu có giá trị cho tất cả các
quốc gia trên thế giới. Theo mục tiêu 16.2, tất cả trẻ em nên được phép lớn lên
mà không bị bạo lực và bóc lột. Do đó, tất cả các quốc gia trên thế giới đã tun
bố rằng khơng có trẻ em nào phải chịu bạo lực vào năm 2030, điều đó có nghĩa
là tất cả các quốc gia phải xem xét vấn đề này rất nghiêm túc và tích cực tham
gia vào công việc chống lại bạo lực đối với trẻ em dưới mọi hình thức.
Một quy định đặc biệt về bạo lực đối với trẻ em trong luật hình sự Thụy
Điển Bạo lực đối với trẻ em ngày nay được quy định trong cùng một điều khoản
hình sự như bạo lực đối với người lớn, mặc dù thực tế là cần phải phân biệt bạo
lực đối với trẻ em với các hình thức bạo lực khác, với mục đích làm nổi bật mức
độ nghiêm trọng của việc khiến trẻ em bị bạo lực. Điều tra quyền trẻ em đã đề
xuất đưa ra một điều khoản về lạm dụng trẻ em trong Bộ luật Hình sự. UNICEF
Thụy Điển đang tích cực làm việc để đưa ra một điều khoản như vậy.
Là một phần của cơng tác phịng ngừa bạo lực đối với trẻ em, điều quan
trọng là phải làm việc với các sáng kiến nâng cao kiến thức. Nhận thức của trẻ
em về quyền của chúng phải được tăng cường. Một phần để ảnh hưởng đến thái
độ có vẻ phịng ngừa, và một phần để trẻ em biết cách hành động nếu chúng bị
bạo lực. Trong công việc nâng cao kiến thức, điều quan trọng là phải chú ý đến
các nhóm rủi ro cụ thể. Điều quan trọng nữa là thông tin được điều chỉnh phù
hợp với các điều kiện khác nhau của trẻ em, chẳng hạn như tuổi tác và kỹ năng
của Thụy Điển.


Kiến thức giữa cha mẹ và những người thân khác cũng phải được nâng cao.
Tất cả những người đang ở Thụy Điển hoặc đến Thụy Điển cần phải có được
thơng tin về hệ thống pháp luật Thụy Điển, quyền trẻ em, các mục tiêu toàn cầu
và cấm trừng phạt thể xác trong Bộ luật Cha mẹ.

Tại lần theo dõi cuối cùng từ Ủy ban quyền trẻ em, Thụy Điển đã được đề
nghị tạo ra một hệ thống bảo vệ chặt chẽ và phối hợp cho trẻ em theo Điều 19
của Công ước về Quyền trẻ em. Phải rõ ràng ai chịu trách nhiệm cho đứa trẻ và
gia đình, từ thơng báo đến theo dõi. Kế hoạch quốc gia phải minh bạch và dựa
trên tư vấn, và trẻ em nên tham gia.
Ngồi ra, kế hoạch nên có thể truy cập và dễ hiểu cho cả người lớn và trẻ
em. Sự hợp tác giữa các cơ quan chức năng cần được cải thiện và hỗ trợ cho trẻ
em dễ bị tổn thương phải được đảm bảo chất lượng ở tất cả các thành phố của đất
nước. Ngoài các khuyến nghị của Ủy ban về Quyền trẻ em, Chính phủ cần lấy
làm cơ sở các khuyến nghị của điều phối viên quốc gia chống bạo lực gia đình.
Các sáng kiến như mơ hình trại trẻ mồ cơi là một cái gì đó có thể hoạt động như
một điểm khởi đầu và được sử dụng ở nhiều thành phố hơn với các quyền của trẻ
em tập trung.
Điều quan trọng là Thụy Điển thu thập số liệu thống kê tội phạm chính thức
cung cấp một bức tranh chính xác về tính dễ bị tổn thương của trẻ em đối với
bạo lực. Cũng nên tập trung vào số liệu thống kê về các yếu tố nguy cơ, để tăng
kiến thức về những điều này trong công tác phịng ngừa. Có những hệ thống
được thiết lập để thu thập số liệu thống kê tội phạm chính thức. Nhưng cần có
những thay đổi trong việc phân loại tội phạm, ví dụ, tội ác chống lại trẻ em trong
gia đình được phân biệt với các tội phạm khác. Các số liệu thống kê cũng nên


phân biệt bạo lực của những người chăm sóc khác được quy định trong Điều 19
của Công ước về Quyền trẻ em.
Để đánh giá những tiến bộ đạt được trong việc thực hiện Công ước về
Quyền trẻ em, điều quan trọng là phải có các hệ thống thu thập dữ liệu hoạt động
tại chỗ và các số liệu thống kê được thu thập cũng được đánh giá. Đây cũng là
một vấn đề quan trọng để thực hiện các mục tiêu tồn cầu.
Chấm dứt bạo lực của đàn ơng đối với phụ nữ là ưu tiên hàng đầu của chính
phủ. Cơng việc này bao gồm các nỗ lực chống lại bạo lực và áp bức liên quan

đến danh dự, bạo lực tình dục và mại dâm và bn người. Chính phủ đang làm
việc trên cơ sở một chiến lược quốc gia để ngăn chặn và chống lại bạo lực của
nam giới đối với phụ nữ. Cơng việc được cụ thể hóa thơng qua một chương trình
hành động với 99 biện pháp bao gồm cả nỗ lực ngăn chặn bạo lực và cung cấp
hỗ trợ và bảo vệ cho những người dễ bị tổn thương. Nó cũng bao gồm những nỗ
lực để thắt chặt luật pháp.
Vào thứ ba ngày 5 tháng 4 năm 2021, Bộ trưởng Việc làm Eva Nordmark
và Bộ trưởng Tư pháp và Nội vụ Morgan Johansson đã tổ chức một cuộc họp
báo. Các bộ trưởng đã trình bày một mục tin tức liên quan đến cơng việc của
Chính phủ để ngăn chặn và chống lại bạo lực của nam giới đối với phụ nữ.
3.2. Khả năng áp dụng bài học lập pháp của một số nước trên thế giới vào
việc hồn thiện pháp luật hình sự Việt Nam
Trước hết, Nhà nước cần xây dựng chương trình thực hiện Luật Phịng,
chống bạo lực gia đình hiệu quả; cần có cơ chế thực thi rõ ràng, chế tài nghiêm
khắc đối với kẻ gây bạo lực, có chính sách hỗ trợ và bảo vệ nạn nhân và có cơ


quan chuyên môn giám sát việc thi hành Luật tại địa phương; đưa cơng tác quản
lý bạo lực gia đình vào chiến lược quốc gia và đưa công tác tư vấn, trợ giúp các
nạn nhân bạo lực gia đình thành công việc thường xuyên và cấp bách đối với cán
bộ thực thi, coi cơng tác chăm sóc sức khỏe sinh sản như một khởi điểm để phát
hiện và giúp đỡ các nạn nhân của bạo lực.
Thứ hai, cần có chiến dịch dài hạn về truyền thông nhằm nâng cao nhận
thức, thay đổi hành vi cho cán bộ các cấp, các ngành và toàn thể nhân dân, đặc
biệt là lãnh đạo địa phương về bình đẳng giới và phịng chống bạo lực gia đình.
Chiến dịch này nên được lồng ghép trong giáo dục phổ thông, nhằm thay đổi
quan niệm về giới và các quan hệ quyền lực trong chương trình giáo dục kỹ năng
sống, chuẩn hóa các cơ chế giám sát để đánh giá tác động của những biện pháp
can thiệp và bổ sung kịp thời các biện pháp mới. Nên tăng cường phổ biến nhiều
hình thức truyền thơng, chú trọng nhiều đến sự tham gia của nam giới cũng như

của trẻ em. Hoạt động đào tạo các kỹ năng truyền thơng cần được tăng cường và
phổ biến rộng, có tài liệu dành cho từng nhóm xã hội riêng.
Thứ ba, cần xây dựng cơ chế chính sách cho các cơ quan thực thi và bảo vệ
pháp luật, bồi dưỡng nâng cao năng lực, trang bị các kỹ năng làm việc cho cán
bộ thực thi, như cứu giúp nạn nhân và hướng dẫn họ kỹ năng tự bảo vệ mình
trước khi có sự trợ giúp của cộng đồng, cách ly kẻ phạm tội và nạn nhân, ổn định
trật tự công cộng. Cần sự hợp tác và phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức đoàn thể
ở cơ sở và người dân, đặc biệt là các nhóm phụ nữ nhằm hỗ trợ và bảo vệ các
nạn nhân. Các tổ chức đoàn thể địa phương nên thành lập các đội can thiệp, các
tổ hòa giải, tổ tư vấn cơ sở và có chế độ phối hợp trong việc tuyên truyền về bình
đẳng giới, về phịng chống bạo lực gia đình, các hoạt động này cũng cần được
kiểm tra giám sát và rút kinh nghiệm thường xuyên, nên tác động cả với những


nạn nhân và những kẻ gây bạo lực. Đưa vấn đề giới và phịng chống bạo lực gia
đình vào các chương trình phát triển ở cơ sở, khuyến khích nhân dân tham gia.
Tổ chức các hoạt động tuyên truyền, thành lập các câu lạc bộ. Đưa vấn đề phòng
chống bạo lực gia đình vào hương ước và giám sát việc thực hiện tại địa phương.
Đẩy mạnh phong trào xây dựng làng văn hóa, khu phố văn hóa…
Thứ tư, cần tuyên truyền nâng cao nhận thức về bình đẳng giới và phịng
chống bạo lực gia đình nhằm xóa bỏ tư tưởng cổ hủ trọng nam khinh nữ trong
các gia đình, dịng họ, đặc biệt là chủ gia đình, trưởng họ. Ký cam kết với các
dịng họ về xây dựng gia đình văn hóa, dịng họ văn hóa và coi đây là một tiêu
chuẩn để đánh giá gia đình văn hóa. Các cá nhân, đặc biệt là nam giới cần tích
cực chủ động tham gia các phong trào xã hội ở địa phương, sinh hoạt câu lạc bộ,
học tập kiến thức về gia đình, về bình đẳng giới, các quyền của phụ nữ và phịng
chống bạo lực trong gia đình thơng qua truyền thông. Bản thân người phụ nữ cần
hiểu được quyền và trách nhiệm của mình trong cơng tác bình đẳng giới và
phịng chống bạo lực gia đình. Cần có kiến thức cũng như kỹ năng phịng tránh,
tự bảo vệ mình và các con trước khi có sự trợ giúp từ phía các đồn thể xã hội.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội vừa cho ý kiến về dự án Luật Phòng, chống
bạo lực gia đình (sửa đổi) tại phiên họp thứ 10. Tại Phiên họp, Bộ trưởng Bộ
Văn hóa-Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng đã đề cập những cam kết quốc
tế mà Việt Nam tham gia và bài học kinh nghiệm quốc tế trong phịng, chống
bạo lực gia đình.
Theo đó, Việt Nam đã tham gia các cam kết quốc tế trong nhiều lĩnh vực,
trong đó có quyền con người, vấn đề bạo lực gia đình. Đáng chú ý là Cơng ước
Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR), Cơng ước về xóa bỏ mọi hình


thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) và các khuyến nghị của Ủy ban các
Công ước Nhân quyền. Cơng ước CEDAW có hiệu lực ở Việt Nam từ ngày
19/3/1982. Ngay sau khi tham gia các cam kết quốc tế liên quan đến bạo lực gia
đình, Việt Nam đã có những bước đi quan trọng để cụ thể hóa về mặt pháp lý
như ban hành Luật Bình đẳng giới (2006), Luật Phịng, chống bạo lực gia đình
năm 2007, Luật Hơn nhân và Gia đình (2014).
Ở khu vực ASEAN, Việt Nam là quốc gia chủ động đưa ra nhiều sáng kiến
và tham gia các tuyên bố chung liên quan đến bình đẳng giới, xóa bỏ bạo lực
giới và bạo lực gia đình. Tương tự như nhiều quốc gia khác, Luật Phịng, chống
bạo lực gia đình của Việt Nam dựa trên tiếp cận đa ngành và toàn diện nhằm giải
quyết bạo lực gia đình.
Chia sẻ về kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới khi giải quyết vấn
đề bạo lực gia đình, Bộ trưởng Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn
Hùng cho biết, tại một số nước khi áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc thì người có
hành vi bạo lực gia đình là người phải ra khỏi nhà trong trường hợp người bị bạo
lực gia đình lựa chọn chỗ ở là chính ngơi nhà của họ (ví dụ như Úc, Hàn Quốc,
…). Luật Phịng, chống bạo lực gia đình của nước ta hiện nay chưa quy định rõ
điều này dẫn đến quá trình thực thi luật, người phải ra khỏi nhà lại chính là người
bị bạo lực gia đình.
Tại Hàn Quốc, sau khi cơ quan có thẩm quyền nhận được tin báo, tố giác về

hành vi bạo lực, cán bộ điều tra sẽ lập tức đến hiện trường vụ việc bạo lực gia
đình. Trong quá trình điều tra, xác minh vụ việc cán bộ điều tra có trách nhiệm
thực hiện các biện pháp cần thiết, bao gồm tách người bị bạo lực gia đình, người
cung cấp tin báo, tố giác, nhân chứng… khỏi đối tượng có hành vi bạo lực vì


mục đích điều tra để họ có thể thoải mái cung cấp lời khai. Luật của Hàn Quốc
cũng quy định không ai được phép từ chối hợp tác với cán bộ điều tra được phái
cử đến hiện trường vụ bạo lực gia đình hoặc can thiệp vào các hoạt động của cán
bộ điều tra này mà khơng có lý do chính đáng.
Tại Nhật Bản: Thành lập các tổ chức chuyên tập trung vào BLGĐ, phòng
chống bằng nâng cao nhận thức, tăng cường chiến lược cộng đồng để phòng
ngừa và can thiệp nhanh. Đồng thời thúc đẩy nghiên cứu, cải thiện các chính
sách hỗ trợ, bảo vệ phụ nữ và trẻ em, truy tố, kết án và giám sát các thủ phạm
của BLGĐ.
Cịn tại Thụy Điển, Chính phủ coi bạo lực gia đình là trở ngại cấp bách nhất
đối với bình đẳng giới. Việc đẩy mạnh cơng tác phịng, chống bạo lực gia đình
được coi là một trong những giải pháp thực hiện bình đẳng giới. Thụy Điển đã
phát triển mạng lưới hỗ trợ người bị bạo lực gia đình thơng qua địa chỉ tin cậy ở
cộng đồng, thực hiện giáo dục người có hành vi bạo lực gia đình hay sử dụng
hình ảnh của người nổi tiếng, hoạt động thể thao để tuyên truyền vận động cho
phòng, chống bạo lực gia đình. Để phịng ngừa, ứng phó với BLGĐ, Thụy Điển
có một mơ hình rất nổi bật là Trung tâm khủng hoảng dành riêng cho nam giới.
Trung tâm này cung cấp kiến thức, kỹ năng, các chương trình đào tạo cho nam
giới để xử lý cơn nóng giận, khủng hoảng, xây dựng mối quan hệ lành mạnh, nói
khơng bạo lực. Với những nam giới gây bạo lực đã bị kết án, các nhà tù cũng kết
nối với nhiều đơn vị nhằm chữa trị, đào tạo bắt buộc, giám sát chặt chẽ để người
đó khơng lặp lại các hành vi bạo lực khi hết hạn tù…
Bộ trưởng Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng cho rằng,
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình được Quốc hội khóa XII thơng qua ngày



21/11/ 2007, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2008. Luật Phịng, chống bạo lực
gia đình được ban hành đã thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong
việc giải quyết vấn nạn bạo lực gia đình, hướng tới xây dựng gia đình Việt Nam
no ấm, bình đẳng, hạnh phúc cũng như sự nghiêm túc, chủ động của Việt Nam
trong việc thực hiện các điều ước và cam kết quốc tế đã tham gia.
Sau gần 15 năm thực hiện, Luật Phịng, chống bạo lực gia đình đã tạo
chuyển biến tích cực về nhận thức trong phịng, chống bạo lực gia đình, góp
phần bảo vệ người bị bạo lực gia đình, xử lý các hành vi bạo lực gia đình, vi
phạm pháp luật trong phịng, chống bạo lực gia đình, nâng cao bình đẳng giới
trong gia đình. Các cấp ủy, tổ chức Đảng và lãnh đạo chính quyền các cấp đã
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo triển khai các giải pháp phịng, chống bạo lực gia
đình. Nhiều địa phương tổ chức triển khai các mơ hình phịng, chống bạo lực gia
đình sáng tạo, năng động, phát huy hiệu quả tốt cũng như huy động nguồn lực xã
hội tham gia cơng tác phịng, chống bạo lực gia đình.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, bạo lực gia đình vẫn còn là
một vấn đề nhức nhối, nan giải ở Việt Nam. Nhiều vụ việc xuất hiện những hành
vi bạo lực gia đình có mức độ gây hại nghiêm trọng, diễn biến phức tạp, tinh vi,
khó lường và khó xử lý bằng các quy định pháp luật hiện hành. Vấn nạn bạo lực
gia đình có xu hướng trầm trọng hơn, đa dạng hơn, phức tạp hơn đã và đang để
lại những hậu quả thương tâm, đau xót cho nhiều gia đình, tạo ra những thiệt hại
to lớn cho tồn xã hội. Nếu không được giải quyết kịp thời, bạo lực gia đình sẽ
đe doạ đến sự phát triển bền vững của gia đình, làm xói mịn các giá trị văn hoá
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, làm suy yếu động lực phát triển và là rào cản
đối với tiến trình phát triển bền vững của đất nước.




×