Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Bàn về cơ chế bảo hiến ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.17 KB, 29 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
LỚP TM32B
----------

BÀN VỀ CƠ CHẾ BẢO HIẾN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

NHÓM THỰC HIỆN:
1. Kiều Anh Vũ
2. Nguyễn Thị Hồng Ngự
3. Trần Việt Tuấn
4. Kim Sum

MSSV:
3220226
3220236
3220214
3220245

1


NĂM 2008

2


PHẦN MỞ ĐẦU
Ngày nay, chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Điều này đã được Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) ghi nhận :
”Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ


nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” (Điều 2). Những đặc trưng cơ bản nhất
của một Nhà nước pháp quyền nói chung là tính thượng tơn pháp luật và bảo đảm dân
chủ. Trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện
nay, chúng ta cần phải tạo dựng và phải tiếp tục hồn thiện, đảm bảo có được hai đặc
trưng đó. Tuy nhiên, đây là một bài tóan khó mà muốn giải được nó địi hỏi chúng ta
phải có nhiều bước giải khác nhau với các quy trình và thủ thuật thích hợp. Ở đây,
chúng tơi muốn nói rằng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đòi hỏi phải đầu tư rất nhiều “chất xám” và công sức. Chúng ta phải thực hiện rất
nhiều việc trong thời gian lâu dài mới có thể xây dựng được. Trong bài nghiên cứu
này, chúng tôi sẽ đề cập đến một trong những việc đó. Đó chính là xây dựng “cơ chế
bảo hiến”.
Bảo hiến là vấn đề đặc biệt được coi trọng ở hầu hết các quốc gia trên thế giới,
đặc biệt là đối với các nước xây dựng mô hình Nhà nước pháp quyền. Hiện nay, chúng
ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền cho nên việc nghiên cứu về vấn đề bảo hiến
trở nên hết sức cần thiết. Chúng ta đã có cơ chế bảo hiến hay chưa? Cơ chế bảo hiến
hiện nay như thế nào? Hiệu quả chưa? Nếu chưa thì cơ chế bảo hiến nào là hiệu quả?
Chúng ta phải nghiên cứu để có được câu trả lời hợp lí nhất cho những câu hỏi đó.
Chúng ta phải nghiên cứu để xây dựng, để có được cơ chế bảo hiến hữu hiệu trong nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về vấn
đề này nhưng vẫn có nhiều ý kiến khác nhau. Và thực tiễn ở Việt Nam cho thấy nghiên
cứu về vấn đề bảo hiến là một vấn đề khơng kém tính thời sự. Việc nghiên cứu này
đang diễn ra thường xuyên ở các diễn đàn khoa học. Chúng tôi, với tư cách là những
người đang học tập, nghiên cứu về khoa học pháp lý cũng muốn tìm hiểu về vấn đề
này.
Nghiên cứu về cơ chế bảo hiến ở Việt Nam hiện nay, trước hết, chúng tôi muốn
nâng cao trình độ hiểu biết của mình. Qua quá trình nghiên cứu, chúng tơi muốn xây
dựng cho mình góc nhìn pháp lý, cách tiếp cận vấn đề pháp lý một cách khoa học. Bên
cạnh đó, chúng tơi hy vọng kết quả từ sự nghiên cứu của chúng tôi sẽ mang lại những
lợi ích nhất định. Chúng tơi mong muốn bài viết này là tài liệu tham khảo cần thiết và
hữu ích cho những ai quan tâm, tìm hiểu về vấn đề bảo hiến ở Việt Nam hiện nay. Đối

tượng mà chúng tôi hướng đến chủ yếu là các bạn sinh viên như chúng tôi. “Bàn về cơ
chế bảo hiến ở Việt Nam hiện nay”, chúng tôi mong muốn được góp ý kiến trao đổi về
vấn đề này, để cùng nhau đi đến một sự đồng thuận, cùng đi tìm và xây dựng cơ chế
bảo hiến thích hợp nhất ở nước ta.
Để có được sản phẩm thực sự khoa học, chúng tôi đã bỏ ra thời gian tập trung
nghiên cứu nhất định. Mong muốn có được kết quả tốt nhất, trên cơ sở khả năng của
mình, chúng tơi đã vận dụng, kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau. Về cơ
3


sở phương pháp luận, đó là phương pháp chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử. Về phương pháp nghiên cứu cụ thể, đó là các phương pháp: tổng hợp,
phân tích, tổng-phân-hợp, so sánh, quy nạp, diễn dịch…
“Bàn về cơ chế bảo hiến ở Việt Nam hiện nay” thì có rất nhiều vấn đề để “bàn”.
Có những vấn đề đòi hỏi sự nghiên cứu chuyên sâu, lâu dài. Với kiến thức cịn hạn hẹp
của mình, chúng tơi chỉ có thể nghiên cứu một vài vấn đề nhất định mang tính cơ bản,
dễ tiếp cận mà thơi. Trên tinh thần đó, bài viết này nghiên cứu về các vấn đề sau đây,
cũng là cấu trúc của bài viết:
1. Cơ chế bảo hiến – nhu cầu tất yếu
2. Cơ chế bảo hiến ở Việt Nam
2.1. Khái lược lịch sử lập hiến Việt Nam
2.2. Cơ chế bảo hiến ở Việt Nam
2.2.1. Cơ chế bảo hiến ở Việt Nam qua Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959
và Hiến pháp 1980
2.2.2. Cơ chế bảo hiến ở Việt Nam qua Hiến pháp 1992 – cơ chế bảo
hiến hiện nay
3. Tòa án Hiến pháp – cơ chế bảo hiến cần được lựa chọn ở Việt Nam hiện nay
3.1. Các cơ chế bảo hiến trên thế giới
3.2. Tòa án Hiến pháp - Cơ chế bảo hiến cần được lựa chọn ở Việt Nam
hiện nay


4


PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ chế bảo hiến - nhu cầu tất yếu
Tại Hội nghị đại biểu tòan quốc giữa nhiệm kỳ, khóa VII, năm 1994, Đảng
cộng sản Việt Nam đã chính thức đề cập đến vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Tại Hội nghị, Đảng ta nêu ra nhiệm vụ: “Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng trên cơ sở
tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giữa giai cấp công nhân
với nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng ta lãnh đạo”. Từ đó, xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trở thành một trong những nhiệm vụ
trọng tâm, xuyên suốt, trường kỳ. Tư tưởng đó được phát triển tại các kỳ Đại hội Đảng
tiếp theo và chính thức trở thành một vấn đề Hiến định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân” 1. Như phần mở đầu chúng tơi đã có đề cập, một trong
những đặc trưng chung nhất của Nhà nước pháp quyền là tính tối cao của Hiến pháp,
pháp lụât, trước hết là vị trí tối thượng của Hiến pháp. Hiến pháp và Nhà nước pháp
quyền, đó là hai yếu tố khơng thể tách rời nhau, khơng thể có cái này mà khơng có cái
kia. “Lý thuyết về Hiến pháp (Chủ nghĩa lập hiến) đồng thời cũng là lý thuyết về Nhà
nước pháp quyền. Nội dung, yêu cầu của Hiến pháp cũng chính là nội dung, yêu cầu
của Nhà nước pháp quyền...Nói cách khác, nội dung của Hiến pháp điều chỉnh những
vấn đề thuộc về nội dung, yêu cầu của Nhà nước pháp quyền” 2. Vì vậy, Hiến pháp,
tính tối thượng của Hiến pháp trở thành một địi hỏi khơng thể tách rời Nhà nước pháp
quyền.”Nhưng sự hiện diện của Hiến pháp chỉ là yếu tố cần chứ chưa phải là đủ của
một chế độ dân chủ, của một Nhà nước pháp quyền, nếu như các cơ quan công quyền
thực thi quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp vượt quyền, lạm quyền, vi phạm thẩm

quyền được Hiến pháp ghi nhận, ban hành các văn bản họăc thực hiện các hành vi trái
Hiến pháp có khả năng hoặc thật sự đã gây thiệt hại cho công dân, cho các tổ chức xã
hội. Vì vậy, để chế độ Hiến pháp được tơn trọng và bảo đảm trên thực tế, cần phải có
cơ chế hữu hiệu bảo vệ và khôi phục trật tự hiến định” 3. Để đảm bảo tính tối thượng
của Hiến pháp thì nó cần phải được bảo vệ. Hiến pháp, tính tối thượng của Hiến pháp
khơng thể bị xâm phạm vì bất kỳ lí do gì. Do đó, chúng ta cần phải có một cơ chế bảo
hiến - cơ chế bảo vệ Hiến pháp. Chúng ta xây dựng Nhà nước pháp quyền cho nên cơ
chế bảo hiến trở thành một đòi hỏi tất yếu. Nếu khơng có cơ chế bảo hiến hoặc có
nhưng cơ chế khơng hiệu quả thì sẽ dẫn đến tính hiệu lực của Hiến pháp bị xâm hại,
1

Điều 2, Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)
Nguyễn Đăng Dung (chủ biên), Hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng, 2008, trang
211
3
Trương Đắc Linh, Bàn về tài phán Hiến pháp và thẩm quyền của cơ quan Tài phán Hiến pháp ở Việt Nam, Tạp
chí Khoa học pháp lý, Trường đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, số tháng 3/2007
2

5


đặc trưng của Nhà nước pháp quyền không được đảm bảo và chúng ta sẽ khơng có
được Nhà nước pháp quyền!
Hơn nữa, ngày nay, trong hệ thống pháp luật của các quốc gia trên thế giới đều
công nhận rằng Hiến pháp là đạo luật cơ bản của quốc gia. Bởi vì Hiến pháp xác lập
một cách tập trung nhất, đầy đủ nhất và cao nhất ý chí của nhân dân, sự lựa chọn chính
trị của nhân dân.Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước do cơ quan đại diện có
thẩm quyền thơng qua hoặc do nhân dân trực tiếp thơng qua; trong đó quy định những
vấn đề cơ bản, quan trọng nhất của chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quyền và

nghĩa vụ cơ bản của công dân, tổ chức và họat động của các cơ quan Nhà nước then
chốt, thể hiện một cách tập nhất, mạnh mẽ nhất ý chí và lợi ích của lực lượng cầm
quyền trong xã hội - ở nước ta, đó là tồn thể nhân dân vì nhân dân là chủ thể của
quyền lực Nhà nước. Sự hiện diện của Hiến pháp là điều kiện quan trọng nhất bảo đảm
sự ổn định xã hội và sự an tòan của người dân. Hiến pháp quy định những vấn đề cơ
bản nhất của một đất nước, nó bao gồm các chế định về chế độ chính trị, chế độ kinh
tế, quyền và nghĩa vụ cơ bản của cơng dân. Vì lẽ đó, Hiến pháp cần phải ở vị trí tối
thượng vì nó là ý chí phổ biến và đầy đủ nhất của nhân dân. Bảo vệ Hiến pháp là bảo
vệ chủ quyền Nhà nước, bảo vệ ý chí nhân dân.Chính vì điều này mà chúng ta cần
thiết phải có một cơ chế bảo hiến hồn chỉnh vì có liên quan mật thiết đến tính dân chủ
của một Nhà nước, một chế độ, một xã hội và đến sự tồn vong của một thể chế. Tính
tối cao của Hiến pháp được quy định trong Hiến pháp nước ta như sau (Điều 146, Hiến
pháp 1992): “Hiến pháp nước Cộng Hòa xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là đạo luật cơ
bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lí cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù
hợp với Hiến pháp”. Tính tối cao (tối thượng) của Hiến pháp không phải chỉ được
khẳng định trên văn bản bằng những con chữ mà chúng ta cần phải có cơ chế đảm bảo
nó được thực hiện trong thực tế. Do đó, địi hỏi tất yếu ở đây là cần có cơ chế bảo vệ.
Khơng những vậy, cơ chế bảo hiến còn là một đòi hỏi, một nhu cầu mang tính
ngun tắc. Đó chính là ngun tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. “Pháp chế xã hội chủ
nghĩa được hiểu là chế độ tuân thủ nghiêm chỉnh, chính xác hiến pháp và luật của mọi
chủ thể của các quan hệ pháp luật. “Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 1992” quy định tại điều 12 “Nhà nước quản lí xã hội bằng pháp luật và
không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Nguyên tắc này cũng được coi là
một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ở
Việt Nam. Trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp, cần triệt để tôn trọng, thi
hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
đòi hỏi phải bảo đảm tính thống nhất của pháp chế, bảo đảm tính tối cao của hiến
pháp và luật, bảo đảm và bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của công dân đã được pháp
luật quy định, ngăn chặn kịp thời và xử lí nhanh chóng, cơng minh mọi hành vi vi
phạm pháp luật, bảo đảm sự thống nhất giữa pháp chế và tính hợp lí, cơng bằng” 4. Như

vậy, nguyên tắc này đã khẳng định tính tối cao của Hiến pháp. Đã là nguyên tắc thì
4

Từ điển Bách khoa tòan thư Việt Nam, />param=1B5BaWQ9MjEzOTEmZ3JvdXBpZD0ma2luZD0ma2V5d29yZD14JWMzJWEzK2glZTElYmIlOTlp&
page=1

6


phải được tuân thủ nghiêm ngặt. Nhưng trên thực tế, khó tránh khỏi nguyên tắc này bị
vi phạm. Do đó, để ngăn ngừa và xử lí việc vi phạm, một nhu cầu tất yếu là phải có
biện pháp bảo vệ. Cơ chế bảo hiến đáp ứng được nhu cầu đó.
Trên đây là một vài lý do để có một cơ chế bảo hiến. Chúng tơi cho rằng đó là
những lý do hết sức thuyết phục để có một cơ chế bảo hiến hữu hiệu ở nước ta. Và
những lý do đó cũng là những địi hỏi khách quan, tất yếu về một cơ chế bảo hiến. Bản
chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng là lý do
để có cơ chế bảo hiến. Đến lượt mình, cơ chế bảo hiến trở thành địi hỏi tất yếu của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vì nó đảm bảo đặc trưng của mơ
hình Nhà nước này, đảm bảo được dân chủ.
Tuy nhiên, chúng ta cũng lưu ý rằng, cơ chế bảo hiến chỉ đặt ra đối với Hiến
pháp cương tính. Vì Hiến pháp cương tính mới địi hỏi hiến pháp ở vị trí tối thượng, có
hiệu lực pháp lý cao nhất và thủ tục sửa đổi phải tuân thủ nghiêm ngặt những trình tự
phức tạp. Đối với Hiến pháp nhu tính thì khơng có địi hổi đó, Hiến pháp nhu tính chỉ
có vị trí như thường luật và thủ tục sửa đổi dễ dàng. Nếu một đạo luật được ban hành
trái với Hiến pháp (nhu tính), thì nó được xem là sửa đổi điều khỏan của Hiến pháp.
Chính vì vậy, khơng đặt ra cơ chế bảo hiến đối vơi Hiến pháp nhu tính. Có thể nói,
Hiến pháp cương tính là cơ sở để có cơ chế bảo hiến5.
2. Cơ chế bảo hiến ở Việt Nam
2.1. Khái lược lịch sử lập hiến Việt Nam6
Trước khi tìm hiểu cơ chế bảo hiến ở Việt Nam. Thiết nghĩ, chúng ta nên nhìn

lại sơ lược về lịch sử lập hiến Việt Nam. Chúng ta phải có một nền lập hiến, có Hiến
pháp thì mới đặt vấn đề bảo hiến. Tư tưởng lập hiến Việt Nam xuất hiện vào những
năm đầu của thế kỷ XX. Trong quá trình đấu tranh u nước, nhiều sĩ phu, trí thức tiến
bộ có cơ hội tiếp xúc tư tưởng của “đại cách mạng” Pháp 1789, ảnh hửơng của cách
mạng Tân Hợi (Trung Hoa) 1911 và chính sách Duy tân mà Thiên hòang Minh Trị áp
dụng ở Nhật Bản…Tư tưởng lập hiến Việt Nam đã xuất hiện từ những ảnh hưởng đó.
Tư tưởng lập hiến lúc đó chia thành hai khuynh hướng:
Khuynh hướng thứ nhất: thiết lập chế độ quân chủ lập hiến ở Việt Nam
dưới sự bảo hộ của Pháp, cầu xin Pháp ban bố cho Việt Nam một bản Hiến pháp trong
đó bảo đảm : quyền của thực dân Pháp vẫn được duy trì, quyền của Hồng đế Việt
Nam cần hạn chế và quyền của “dân An nam” về tự do, dân chủ được mở rộng. Đại
diện cho xu hướng này là Bùi Quang Chiêu (người sáng lập ra Đảng lập hiến năm
1923) và Phạm Quỳnh.
Khuynh hướng thứ hai: chủ trương đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân
5

Xem Bùi Ngọc Sơn, Góp phần nghiên cứu về Hiến pháp và Nhà nước pháp quyền, NXB Tư pháp, Hà Nội,
2005.
6
Phần này có tham khảo, viện dẫn từ bài viết “Khái quát về Hiến Pháp và lịch sử lập hiến Việt Nam” c ủa
PGS.TS. Trương Đắc Linh, giảng viên khoa Luật Hành Chính, Trường đại học Luật TP.Hồ Chí Minh.

7


tộc và sau khi giành được độc lập sẽ xây dựng bản Hiến pháp của Nhà nước độc lập
đó. Khơng có độc lập dân tộc thì khơng thể có Hiến pháp thực sự dân chủ. Đại diện
cho chủ trương này là cụ Phan Bội Châu, cụ Phan Chu Trinh, nhà yêu nước Nguyễn Ái
Quốc.Thực tiễn cách mạng Việt Nam và lịch sử lập hiến ở nước ta đã chứng minh chủ
trương thứ hai là hoàn toàn đúng đắn.

Hiến pháp đầu tiên của nước ta ra đời trong bối cảnh nước ta đã giành được độc
lập. sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành cơng, ngày 02/09/1945, Chủ tịch Hồ
Chí Minh thay mặt chính phủ lâm thời đọc bản "Tun ngơn độc lập" của nhân dân ta,
dân tộc ta, khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa - Nhà nước công nông đầu
tiên ở đông Nam châu Á. Ngày 03/09/1945, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Hồ
Chủ Tịch đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ, trong đó có nhiệm vụ lập ra
một Hiến pháp dân chủ: "Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ cai trị, rồi đến chế độ
thực dân không kém phần chun chế nên nước ta khơng có Hiến pháp, nhân dân ta
không được hưởng quyền tự do, dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ".
Ngày 20/9/1945 Chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh số 34 thành lập Ban dự thảo
Hiến pháp gồm 7 người, do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Tháng 11/1945 bản Dự
thảo Hiến pháp đầu tiên được công bố để nhân dân đóng góp ý kiến. Ngày 9/11/1946
tại kỳ họp thứ hai của Quốc hội khóa I (do cuộc tổng tuyển cử ngày 6/1/1946 bầu) đã
thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta.
Nền độc lập dân tộc vừa mới giành được lại bị đe dọa vì Thực dân pháp quay
lại xâm lược. Với niềm tin "Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi" dưới sự lãnh
đạo của đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc ta làm nên chiến thằng Điện Biên Phủ lịch
sử. Thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ (21/07/1954), miền Bắc được giải
phóng nhưng đất nước tạm thời chia cắt làm hai miền. Nhiệm vụ cách mạng trong giai
đoạn mới này là: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước
nhà. Hiến pháp năm 1946 “đã hoàn thành sứ mệnh của nó. Nhưng so với tình hình mới
và nhiệm vụ cách mạng mới hiện nay thì nó khơng thích hợp nữa. Vì vậy, chúng ta
phải sửa đổi Hiến pháp ấy”. (Hồ Chí Minh: Báo cáo về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi
năm 1959). Ngày 23/1/1957 tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa I đã ra nghị quyết về việc
sửa đổi Hiến pháp và thành lập Ban sửa đổi Hiến pháp đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Ngày 1/4/1959 Dự thảo Hiến pháp sửa đổi công bố để nhân dân thảo luận, đóng
góp ý kiến. Tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa I, ngày 31/12/1959 Hiến pháp sửa đổi
được thông qua và ngày 1/1/1960 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh cơng bố Hiến
pháp này.
Thắng lợi vĩ đại của chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân năm 1975 đã mở ra một

giai đoạn phát triển mới trong lịch sử cách mạng nước ta nói chung, lịch sử lập hiến
Việt Nam nói riêng. Đó là thời kỳ cả nước độc lập, thống nhất, cùng thực hiện hai
nhiệm vụ chiến lược chung là: xây dựng CNXH trong phạm vi cả nước và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam XHCN. Cuộc tổng tuyển cử ngày 25/4/1976 cử tri cả nước đã bầu ra
Quốc hội thống nhất. Tại kỳ họp đầu tiên của Quốc hội thống nhất (25/6/1976 đến
3/7/1976), Quốc hội đã thơng qua những nghị quyết quan trọng, trong đó có nghị
quyết về việc sửa đổi Hiến pháp 1959 và thành lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp gồm 36
vị do Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc hội Trường Chinh làm Chủ tịch. Sau hơn một
8


năm chuẩn bị khẩn trương, Dự thảo Hiến pháp đã được lấy ý kiến, thảo luận trong cán
bộ và nhân dân. Ngày 8/12/1980 tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa VI đã chính thức
thơng qua Hiến pháp mới. Hiến pháp 1980 được xây dựng và thơng qua trong hồn
cảnh đất nước chan hồ khí thế lạc quan, hào hùng của Đại thắng mùa xuân năm 1975,
đất nước ta sạch bóng quân xâm lược. Trên thế giới, Hiến pháp của các nước XHCN
được ban hành vào cuối những năm 60-70 đã khẳng định đây là thời kỳ xây dựng
CNXH phát triển, đang thịnh hành cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp và phổ
biến quan điểm giáo điều, giản đơn về CNXH. Điều này đã để lại dấu ấn trong nội
dung của Hiến pháp 1980 và là một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng
kinh tế-xã hội của đất nước. Để đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng, đi
dần vào thế ổn định và phát triển, Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã đề ra đường
lối đổi mới trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, chính sách đối ngoại…,
đặc biệt là đổi mới về kinh tế. Nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách về đổi mới chính sách
đối ngoại, tháng 12/1988 Quốc hội thông qua nghị quyết sửa đổi Lời nói đầu Hiến
pháp 1980, bỏ hết những câu chữ chỉ đích danh từng tên thực dân, từng tên đế quốc…
để thực hiện phương châm "khép lại quá khứ, hướng tới tương lai" với những nước
vốn là kẻ thù xâm lược và đã từng gây tội ác đối với nhân dân ta. Tiếp theo, để dân chủ
hóa đời sống chính trị, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường vị trí và vai
trị của các cơ quan dân cử ở địa phương, ngày 30 tháng 6/1989 tại kỳ họp thứ 5 nhiệm

kỳ khóa VIII, Quốc hội đã thông qua nghị quyết sửa đổi 7 điều Hiến pháp 1980 để quy
định thêm cơng dân có quyền tự ứng cử làm đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND; quy
định việc thành lập cơ quan thường trực HĐND từ cấp huyện trở lên. Cũng tại kỳ họp
này, Quốc hội ra nghị quyết thành lập Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp để sửa đổi một cách
cơ bản, toàn diện Hiến pháp 1980 nhằm đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng
mới. Ngày 15 tháng 4 năm 1992 tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa VIII đã thơng qua
Hiến pháp mới thay thế Hiến pháp 1980.
Sau gần một thập kỷ tồn tại, đất nước có nhiều đổi mới, phát triển. Để phù hợp
với tình hình mới, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa X (12/2001), Quốc hội đã thông
qua Nghị quyết 51/2001/QH10, sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992.
2.2. Cơ chế bảo hiến ở Việt Nam
Nhìn lại lịch sử lập hiến Việt Nam, chúng ta nhận thấy rằng dù chưa lâu
đời nhưng chúng ta đã có được một nền lập hiến dân chủ. Ngay từ đầu, ngay từ bản
Hiến pháp đầu tiên, chúng ta đã để cao vai trò của Hiến pháp. Trên thực tế, mặc dù
Hiến pháp 1946 không được ban hành rộng rãi trong nhân dân vì hồn cảnh chiến
tranh nhưng Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí
Minh ln làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.Chính vì ngay từ đầu chúng ta đã đề
cao tính tối cao của Hiến pháp nên đã sớm hình thành cơ chế bảo hiến. Tuy nhiên,
trong thời gian đầu cơ chế này khơng thể hồn thiện hay đầy đủ được cũng như chưa
đáp ứng trọn vẹn về mặt ngữ nghĩa của cụm từ này. Cơ chế là cách thức theo đó một
q trình được thực hiện. Theo nghĩa rộng: cơ chế bảo vệ hiến pháp là tổng thể những
cách thức và phương tiện pháp lý khác nhằm bảo đảm sự tuân thủ nghiêm chỉnh hiến
pháp của mọi cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân trong xã hội. Theo nghĩa hẹp: cơ
9


chế bảo hiến được hiểu là một thiết chế được tổ chức và hoạt động theo những nguyên
tắc xác định của pháp luật để thể hiện các biện pháp nhằm bảo đảm cho Hiến pháp
được tôn trọng, giữ đúng vai trị của nó trong đời sống nhà nước, đời sống xã hội và
chống lại mọi sự xâm phạm có thể xảy ra; được hiểu là hoạt động được thể hiện bởi

một cơ quan nhằm gìn giữ cho Hiến pháp khơng bị xâm phạm, đặc biệt là từ trong hoạt
động ban hành và thực thi các đạo luật, bảo vệ Hiến pháp thuờng gắn liền với việc cơ
quan có thẩm quyền xem xét và ra quyết định về tính hợp hiến của các đạo luật do cơ
quan lập pháp, hành pháp, tư pháp hoặc cũng có thể là cơ quan tư pháp ban hành đồng
thời xét xử các hành vi vi phạm hiến pháp của các cơ quan hành pháp quyết định. Cơ
chế bảo hiến ở nước ta trong thời gian đầu chính là được hiểu theo nghĩa rộng của từ
này. Nó đảm bảo Hiến pháp khơng bị xâm phạm, khơng được thay đổi tùy tiện.
Để hiểu rõ hơn về cơ chế bảo hiến ở nước ta, sau đây chúng tôi sẽ đề cập đến
vấn đề này lần lượt qua các bản Hiến pháp.
2.2.1. Cơ chế bảo hiến ở Việt Nam qua các bản Hiến pháp 1946, 1959 và 1980.
Nhìn chung, cơ chế bảo hiến được quy định trong các bản Hiến pháp chính là
cơ chế giám sát giữa các nhánh quyền lực trong lĩnh vực ban hành văn bản quy phạm
pháp luật. đó cịn là việc khẳng định vị trí tối thượng của Hiến pháp, khẳng định hiệu
lực pháp lý tối cao của Hiến pháp. Quy định cụ thể, nghiêm ngặt trình tự và yêu cầu,
sửa đổi Hiến pháp.
Trong bản Hiến pháp đầu tiên, Hiến pháp 1946, việc bảo hiến nói chung quy
định chưa nhiều, chỉ có một vài điều mà thơi. sở dĩ như vậy là vì đây là bản Hiến pháp
đầu tiên, là bản Hiến phá đi tiên phong cho nền lập hiến Việt Nam. Chính vì đầu tiên
cho nên vẫn có những hạn chế nhất định. Hơn nữa, Hiến pháp ra đời trong bối cảnh
nước ta mới giành được độc lập thì lại phải chống Thực dân Pháp quay lại xâm lược.
Rõ ràng, chúng ta khơng có điều kiện thật sự thuận lợi để chú ý xây dựng một bản hiến
pháp. Tuy nhiên, đây là bản Hiến pháp có nhiều điểm tiến bộ đáng quý, là bản Hiến
pháp dân chủ. về bảo hiến, Hiến pháp này có những ghi nhận sau:
Điều 21: “Nhân dân có quyền phúc quyết về hiến pháp và những việc quan hệ
đến vận mệnh quốc gia, theo điều 32 và 70”
Điều 32: “Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc
quyết, nếu hai phần ba tổng số nghị viên đồng ý. Cách thức phúc quyết sẽ do luật
định”
Điều 70: “Sửa đổi hiến pháp phải theo cách thức sau đây:
a)

Do hai phần ba tổng số nghị viên yêu cầu.
b)
Nghị viện bầu ra một ban dự thảo những điều thay đổi.
c)
Những điều thay đổi khi đã được Nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra
tồn dân phúc quyết.”
Vấn đề bảo hiến ở đây chính là vấn đề sửa đổi Hiến pháp. Hiến pháp ghi nhận một cơ
chế sửa đổi để bảo vệ Hiến pháp không bị xâm phạm, thay đổi tùy tiện. Ở đây, việc
sửa đổi Hiến pháp có thủ tục bắt buộc là đưa ra "tòan dân phúc quyết". đây là một
trong những đặc điểm thể hiện tính dân chủ của Hiến pháp này, và là một trong những
biện pháp nhằm mục đích bảo hiến, bảo vệ ý nguyện của nhân dân.
10


Cơ chế bảo hiến trong Hiến pháp 1959: Chúng ta thấy rằng, dù Hiến pháp
1946, có quy định việc sửa đổi Hiến pháp nhưng chưa khẳng định hiệu lực pháp lý của
Hiến pháp. Hiến pháp năm 1959 cũng chưa khẳng định điều này. Tuy nhiên, qua
những gì được ghi trong Hiến pháp này thì tính tối cao của Hiến pháp cũng đã gián
tiếp được thừa nhận. Hiến pháp này quy định:
- Điều 50: “Quốc hội có những quyền hạn sau:
1Làm hiến pháp sửa đổi hiến pháp
2Làm pháp luật
3Giám sát việc thi hành hiến pháp.
………………..”
Những điều trên đã hạn chế quyền lực của quốc hội trong một định khung, tức
là Hiến pháp đã gián tiếp thể hiện tính tối cao của mình đối với cơ quan quyền lực tối
cao nhất trong bộ máy nhà nước.
- Điều 112: “Chỉ có quốc hội mới có quyền sửa đổi hiến pháp.Việc sửa đổi
phải được ít nhất là hai phần ba tổng số đại biểu quốc hội biểu quyết tán thành”.
- Điều 73: “Hội đồng chính thể căn cứ vào hiến pháp, pháp luật và pháp lệnh

mà quy định những biện pháp hành chính, ban bố những nghị định, nghị quyết, chỉ thị
và kiểm tra việc thi hành những nghị định , nghị quyết và chỉ thị ấy”.
- Điều 105: “Viện kiểm sát nhân dân tối cao nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc hội đồng chính phủ, cơ quan
nhà nước và cơng dân.Các viện kiểm sát nhân dân địa phương và viện kiểm sát nhân
địa phương và viện kiểm sát quân sự có quyền kiểm sát trong phạm vi do luật định".
Như vậy, Hiến pháp 1959 đã đề cập đến vấn đề bảo hiến một cách đầy đủ hơn
Hiến pháp 1946. Đã có nhiều chủ thể tham gia bảo hiến, đã có cơ chế giám sát văn bản
quy phạm pháp lụât.
Cơ chế bảo hiến trong Hiến pháp 1980: Kế thừa nhứng gì đã quy định trong
hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 tiếp tục có được những quy định nhăm mục đích bảo
hiến. Một cơ chế bảo hiến theo mơ hình giám sát dần dần hình thành qua các bản Hiến
pháp Việt Nam. Hiến pháp này quy định chi tiết như sau:
- Điều 4: “Đảng cộng sản Việt nam, đội tiên phong và bộ tham mưu chiến đấu của giai
cấp công nhân Việt Nam, được vũ trang vào bằng học thuyết Mác-Lênin, là lực lượng
duy nhất lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo xã hội, là nhân tố chủ yếu quyết định mọi thắng
lợi của cách mạng Việt nam.
Đảng tồn tại và phấn đấu vì lợi ích của giai cấp cơng nhân và nhân dân Việt nam.
Các tổ chức của đảng hoạt động trong khuôn khổ của hiến pháp”
Ngay Điều 4 đã khẳng định tính tối cao của Hiến pháp. Dù đảng lãnh đạo Nhà nước và
xã hội nhưng đảng không lớn hơn Hiến pháp, không đứng trên Hiến pháp. Hiến pháp
là tối cao.
- Điều 82: “Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân,cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất của nước cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ
quan duy nhất quyền lập hiến và lập pháp.

11


Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, những mục tiêu

phát triển kinh tế và văn hoá, những quy tắc chủ yếu về tổ chức và hoat động của bộ
máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của nhân dân.
Quốc hôi thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt dộng của nhà nước.”
- Điều 83: "Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp.
2- Làm luật và sửa đổi luật.
3- Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật"
- Điều 98:"Hội đồng Nhà nước là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc
hội, là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hội đồng Nhà
nước thực hiện những nhiệm vụ và sử dụng những quyền hạn được Hiếp pháp, các luật
và nghị quyết của Quốc hội giao cho, quyết định những vấn đề quan trọng về xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, giám sát việc thi hành Hiếp pháp, các luật, pháp
lệnh, nghị quyết của Quốc hội và của Hội đồng Nhà nước, giám sát hoạt động của bộ
máy Nhà nước".
- Điều 100: "Hội đồng Nhà nước có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
...
3- Công bố luật.
4- Ra pháp lệnh.
5- Giải thích Hiến pháp, luật và pháp lệnh.
6- Quyết định việc trưng cầu ý kiến nhân dân.
7- Giám sát công tác của Hội đồng bộ trưởng, của Toà án nhân dân tối cao và của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
8- Đình chỉ việc thi hành và sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết, nghị định, quyết
định của Hội đồng bộ trưởng trái với Hiến pháp, luật và pháp lệnh.
...
10- Sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết khơng thích đáng của các Hội đồng nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương; giải tán các Hội đồng
nói trên trong trường hợp các Hội đồng đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến quyền lợi
của nhân dân.
...

16- Phê chuẩn hoặc bãi bỏ những hiệp ước quốc tế, trừ trường hợp xét thấy cần trình
Quốc hội quyết định".
- Điều 107: "Hội đồng bộ trưởng có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật.
...
22- Tổ chức và lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục Hiến pháp và pháp luật trong
nhân dân.
23- Đình chỉ việc thi hành và sửa đổi hoặc bãi bỏ những quyết định, chỉ thị, thơng tư
khơng thích đáng của các bộ và các cơ quan khác thuộc Hội đồng bộ trưởng.
24- Đình chỉ việc thi hành những nghị quyết khơng thích đáng của các Hội đồng nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương, đồng thời đề nghị Hội
đồng Nhà nước sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết đó.
12


25- Đình chỉ việc thi hành và sử đổi hoặc bãi bỏ những quyết định và chỉ thị khơng
thích đáng của Uỷ ban nhân dân các cấp".
- Điều 115: "Hội đồng nhân dân có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Bảo đảm cho Hiến pháp và pháp luật được tôn trọng và thi hành nghiêm chỉnh ở địa
phương; quyết định các biện pháp thi hành chính sách của Nhà nước và nhiệm vụ do
cấp trên giao cho.
...
10- Sửa đổi hoặc bãi bỏ những quyết định khơng thích đáng của Uỷ ban nhân dân cùng
cấp hoặc của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp".
Cơ chế bảo hiến ở đây chính là việc quy định các cơ quan nhà nước phải làm
việc theo hiến pháp và phát luật. Cơ chế bảo hiến theo hình thức giám sat đã hình
thành với nhiều chủ thể cùng giám sát lẫn nhau, để đảm bảo tính tối cao của Hiến
pháp. Tuy nhiên, trong nội tại bản Hiến pháp này vẫn có những điểm chưa hợp lí,
khơng đảm bảo được cơ chế bảo hiến đã định ra. Vì trong Hiến pháp có quy định Quốc
hội có quyền định ra quyền cho mình hay cho những cơ quan khác, khi thấy cần thiết.

Đây là một khiếm khuyết lớn của bản Hiến pháp này vì đã khơng trung thành với tính
tối cao của Hiến pháp.
2.2.2. Cơ chế bảo hiến ở Việt Nam qua Híên pháp 1992 7 - cơ chế bảo hiến hiện
nay
Cơ chế bảo hiến ở nước ta hiện nay được thể hiện cụ thể qua bản Hiến pháp
1992 hiện hành. Đó là cơ chế giám sát tương đối tòan diện. Người ta gọi cơ chế bảo
hiến theo việc giám sát như thế này là mơ hình Quốc hội vì Quốc hội thực hiện quyền
giám sát tối cao. Quốc hội thực hiện chức năng giám sát tối cao đối vơi toàn bộ họat
động của Nhà nước và giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của
Quốc hội. bên cạnh đó, các cơ quan khác cũng thực hiện chức năng giám sát việc tuân
theo Hiến pháp và giám sát các văn bản quy phạm pháp luật khác để nó khơng trái với
nội dung cũng như tinh thần của Hiến pháp. Cụ thể, cơ chế giám sát đó được thể hiện
chi tiết qua những quy định sau đây trong Hiến pháp:
- Điều 83:
"Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao
nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.
...
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước".
- Điều 84: "Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật; quyết định chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh;
2- Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của
Quốc hội; xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội,
Chính phủ, Tồ án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
...
7

Ở đây là Hiến pháp hiện hành, đã sửa đổi, bổ sung năm 2001


13


9- Bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với
Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội;
...
13- Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc
tế do Chủ tịch nước trực tiếp ký; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế khác đã
được ký kết hoặc gia nhập theo đề nghị của Chủ tịch nước;"
- Điều 91: "Uỷ ban thường vụ Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
...
3- Giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh;
...
5- Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị
quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, Tồ án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; đình chỉ việc thi hành các văn bản
của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tồ án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết
định việc huỷ bỏ các văn bản đó; huỷ bỏ các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ, Tồ án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với pháp lệnh, nghị
quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
6- Giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân; bãi bỏ các nghị quyết sai
trái của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; giải tán Hội đồng
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong trường hợp Hội đồng nhân dân
đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân"
- Điều 94, 95 quy định Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội giám sát việc thi
hành pháp luật trong lĩnh vực mà mình phụ trách.
- Trong các chế định Chủ tịch nước, chính phủ, tòa án nhân dân và viện kiểm sát nhân
dân, hiến pháp cũng quy định Chủ tịch nước, chính phủ, tòa án nhân dân, viện kiểm sát

nhân dân bảo vệ Hiến pháp thông qua việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Khơng những vậy, pháp luật hiện hành có quy định cơ chế giám sát và bảo vệ
Hiến pháp thơng qua việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm
pháp luật - một trong những nội dung quan trọng nhất của cơ chế bảo hiến. Theo đó,
Quốc hội thực hiện quyền giám sát văn bản quy phạm pháp luật của chủ tịch nước, Ủy
ban thường vụ Quốc hội, chính phủ, thủ tướng chính phủ, tòa án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao và có quyền bãi bỏ căn bản của các cơ quan này nếu
văn bản đó được ban hành trái với với Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của quốc hội. Ủy
ban thường vụ Quốc hội giám sát văn bản quy phạm pháp luật của chính phủ, thủ
tướng chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, viện kiểm sát nhân dân tối cao, nghị quyết
của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và có quyền đình chỉ văn bản của những cơ quan này
nếu trái Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội. Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của
quốc hội có trách nhiệm bảo đảm tính hợp Hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ
thống pháp luật đối với cá dự án luật, pháp lệnh khi trình Quốc hội, ủy ban thường vụ
Quốc hội thông qua. Thủ tướng có việc đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ văn bản của
Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân và chủ tịch Ủy ban nhân
14


dân cấp tỉnh trái Hiến pháp, đình chỉ thi hành Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh nếu nó trái Hiến pháp. Hội đồng nhân dân giám sát văn bản quy phạm pháp luật
của Ủy ban nhân dân cùng cấp và Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực
tiếp và có quyền bãi bỏ nếu trái Hiến pháp. Chủ tịch ủy ban nhân dân có quyền đình
chỉ hoặc bãi bỏ văn bản trái pháp luật của cơ quan chun mơn thuộc Ủy ban nhân dân
cấp mình và văn bản trái pháp luật của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân
cấp dưới trực tiếp, đình chỉ việc thi hành nghị quyết trái pháp luật của Hội đồng nhân
dân cấp dưới trực tiếp8.
Như vậy, cơ chế bảo hiến ở nước ta hiện nay chính là giám sát theo mơ hình
Quốc hội vì Quốc hội giữ vai trò giám sát tối cao việc tuân thủ Hiến pháp. Đó cũng là
cơ chế bảo hiến với nhiều chủ thể cùng với những họat động, nhiệm vụ, quyền hạn cụ

thể. Tuy nhiên, mơ hình này cũng bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Quá nhiều chủ thể,
nhiều tầng nấc làm hạn chế và làm lu mờ vai trò giám sát tối cao của Quốc hội đồng
thời làm hạn chế, giảm đi tính tối cao, tính hiệu lực của các họat động đó. Việc giám
sat quá nhiều chủ thể dẫn đến tình trạng “lắm sãi khơng ai đóng cửa chùa”, “cha chung
khơng ai khóc”. Hơn nữa, Quốc hội vừa là cơ quan lập pháp, vừa là cơ quan thực hiện
quyền giám sát tối cao việc tuân thủ Hiến pháp. Theo đó, Quốc hội vừa làm luật, vừa
giám sát, quyết định về việc một đạo luật do chính Quốc hội ban hành là trái Hiến
pháp! Điều này là khơng khách quan. Bên cạnh đó, Quốc hội cịn có trách nhiệm giải
quyết việc tn thủ hiến pháp trong họat động xét xử của Tòa án (quyền tư pháp). Như
vậy “cịn có sự lẫn lộn giữa quyền lập pháp và quyền tư pháp trong họat động của
Quốc hội”9. Trong khi đó các đại biểu Quốc hội là chuyên gia pháp luật không nhiều,
đa số đại biểu họat động theo chế độ kiêm nhiệm, Quốc hội làm việc theo chế độ Hội
nghị và quyết định theo đa số. Cơ cấu như vậy không đảm bảo đươc hiệu quả của cơ
chế bảo hiến và thực tiễn cho thấy cơ chế này chưa hiệu quả. Trên thực tế, đã có các
trường hợp văn bản Luật trái hiến pháp và các văn bản luật cũng trái nhau nhưng
khơng có cơ quan nào đứng ra “phán quyết”, hay hủy bỏ văn bản pháp luật khơng hợp
hiến, hợp pháp. Đó là minh chứng cho sự không hiệu quả của cơ chế bảo hiến hiện
nay. Sau đây là những bằng chứng cụ thể cho tình trạng vi Hiến, vi pháp:
- Nghị định số 27-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ngày 9-3-1988
“Về kinh tế cá thể, kinh tế tư doanh sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp, xây
dựng, vận tải” đã thừa nhận thành phần kinh tế tư nhân, cơng nhận hình thức sở hữu tư
nhân, trong khi Hiến pháp năm 1980 không thừa nhận thành phần kinh tế và hình thức
sở hữu tư nhân. Vì vậy, phần mở đầu của Nghị định này không phải căn cứ vào Hiến
pháp năm 1980 mà căn cứ vào “Nghị quyết Đại hội lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt
Nam và Nghị quyết Hội nghị lần thứ II Ban Chấp hành Trung ương Đảng đối với kinh
tế cá thể, kinh tế tư doanh sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp, xây dựng, vận
tải”;
- Hay Luật đầu tư nước ngoài được Quốc hội thơng qua ngày 29/12/1987 cho phép tổ
8


Đào Trí Úc, Tài phán Hiến pháp và xây dựng Tài phán Hiến pháp ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, số 10/2006.
9
Đào Trí Úc (chủ biên), mơ hình tổ chức và họat động của Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
NXB Tư pháp, Hà Nội, 2007, trang 500.

15


chức, cá nhân nước ngồi được thành lập xí nghiệp 100% vốn nước ngồi; Luật cơng
ty, Luật doanh nghiệp tư nhân được Quốc hội thông qua ngày 21/12/1990 quy định:
“Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài và phát triển của doanh nghiệp tư nhân, thừa
nhận sự bình đẳng trước pháp luật của doanh nghiệp tư nhân với các doanh nghiệp
khác", "chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tự do kinh doanh” , trong khi Điều 18
Hiến pháp năm 1980 quy định: “Nhà nước tiến hành cách mạng về quan hệ sản xuất,
hướng dẫn, sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, thiết lập và
củng cố chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất nhằm thực hiện một nền
kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở
hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao
động” vẫn đang có hiệu lực, chưa hề được sửa đổi v.v.
Những văn bản pháp luật này thể chế hóa đường lối đổi mới của Đảng, có vai trị và
tác dụng to lớn trong việc chuyển đổi cơ chế, khai thác và phát huy mọi tiềm năng để
phát triển kinh tế của đất nước. Tác dụng và hiệu quả của những văn bản pháp luật này
là không thể phủ nhận được. Nhưng sẽ là hợp hiến và tốt hơn nếu trước khi ban hành
những văn bản pháp luật “có lợi cho dân, cho nước” này chúng ta cần phải sửa đổi, bãi
bỏ các quy định lỗi thời, lạc hậu của Hiến pháp năm 1980.
- Hay Chỉ thị số 406/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 08.8.1994 “Về cấm sản xuất,
kinh doanh và đốt pháo nổ”, mặc dù ý nghĩa, giá trị xã hội và hiệu quả kinh tế - xã hội
của Chỉ thị này là đặc biệt lớn lao, nhưng thời điểm ban hành chỉ thị này (1994), sản
xuất, kinh doanh (“SXKD”) pháo nổ vẫn là ngành nghề SXKD không bị pháp luật cấm

. Điều 9 Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 1990 quy định thuế tiêu thụ đặc biệt đối với
mặt hàng pháo với mức thuế suất là 70% và đến ngày 5/7/1993, Quốc hội thông qua
Luật sửa đổi, bổ sung Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 1990 còn nâng mức thuế suất đối
với mặt hàng pháo là 100%. Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ trái với Nghị định số
221-HĐBT và Nghị định số 222-HĐBT ngày 23/7/1991 của Chính phủ quy định chi
tiết, hướng dẫn thi hành Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty liên quan đến
SXKD các loại pháo và trái với Luật thuế tiêu thụ đặc biệt của Quốc hội, nhưng những
người, những cơ sở SXKD pháo nổ đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép
hành nghề SXKD pháo nổ vẫn nghiêm chỉnh chấp hành, khơng khiếu kiện gì và cũng
khơng biết khiếu kiện ở đâu, vì Tịa án nước ta cho đến nay cũng khơng có thẩm quyền
xét xử các khiếu kiện về VBQPPL bị cho là trái Hiến pháp, trái luật làm thiệt hại đến
quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân v.v.
Nếu như những văn bản trên đây tuy trái với Hiến pháp, luật nhưng phù hợp với thực
tiễn, phù hợp với lợi ích của Nhà nước, của nhân dân thì cũng có một số văn bản pháp
luật khác vừa trái với Hiến pháp hoặc Luật, vừa hạn chế, “cắt xén” quyền hiến định
của cơng dân. Ví dụ điển hình nhất là Thơng tư số 02/2003/TT-BCA ngày 13/1/2003
của Bộ Công an quy định mỗi người được đăng ký 1 môtô hoặc xe máy là trái với
quyền cơ bản của công dân được quy định tại Điều 58 của Hiến pháp năm 1992:
“Cơng dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh
hoạt (tác giả nhấn mạnh – T.Đ.L.), tư liệu sản xuất ...”. Phải 2 năm sau, khi người dân
ở thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh khốn khó vì quy định vi hiến nói trên đã

16


kêu ca, phàn nàn và báo chí đồng loạt lên tiếng… Bộ Công an mới ban hành Thông tư
số 17/2005/TT-BCA ngày 21/11/2005 bãi bỏ quy định trái Hiến pháp này v.v.10
- Gần đây, xáy ra tình trạng Tồ án và trọng tài kinh tế “giành nhau” xử kiện do chưa
có sự thống nhất về luật, do có sự chênh nhau giữa pháp lệnh và Nghị quyết. Cụ thể là
Điều 5 pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 quy định trong trường hợp các bên có

thỏa thuận trọng tài thì tịa án phải từ chối thụ lý tranh chấp, trừ trường hợp thỏa thuận
đó vơ hiệu. Tuy nhiên, Điểm b Tiểu mục 1.2 Mục 1 Nghị quyết 05 của Hội đồng thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao lại đưa ra một tình huống mới khơng có trong pháp lệnh:
Nếu ngun đơn thông báo cho bị đơn biết về việc kiện ra tịa mà bị đơn khơng phản
đối trong bảy ngày thì coi như hai bên đã có sự lựa chọn mới là để tòa giải quyết tranh
chấp thay cho trọng tài. Vụ này hiện nay vẫn đang trong quá trình tranh luận để chọn
cơ quan thẩm quyền xử án!11
- Hay như tình trạng thơng tư “đá” nghị định về thẩm quyền công chứng như sau:
Theo điểm c khoản 1 Điều 119 Nghị định 181 ngày 29-10-2004 của Chính phủ, đối
với những hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa tổ chức với cá nhân, các
bên có quyền chọn lựa hoặc đến phịng cơng chứng để chứng nhận hoặc đến UBND
cấp xã (nơi có đất) để chứng thực. Quy định này vẫn được giữ nguyên khi Chính phủ
ban hành Nghị định 17 năm 2006 để sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 181.
Cho đến ngày 13-6-2006, khi Bộ Tư pháp cùng Bộ Tài nguyên và Môi trường ban
hành Thông tư liên tịch số 04 hướng dẫn thẩm quyền cơng chứng, chứng thực các giao
dịch đất thì mọi sự đã thay đổi. Cụ thể, nếu bên có bất động sản là tổ chức trong nước
thì hợp đồng phải được cơng chứng tại phịng cơng chứng, khơng được đến UBND cấp
xã12. Thông tư này rõ ràng và dễ áp dụng nhưng ngặt nỗi lại “đá” nghị định lại trở
thành làm khổ dân. Dân đang đứng “giữa hai con đường” không biết theo ai. Hồ sơ
nộp đến cơ quan chức năng thì vẫn nằm đấy do cơ quan khơng bíêt áp dụng văn bản
nào và khơng dám chứng vì sợ mình khơng có thẩm quyền! Tuy nhiên, vụ việc vẫn
chưa có cơ quan chức năng nào lên tiếng!
Đó là một thực tế bất cập về việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật: trái
Hiến pháp, “đá” nhau…Đó là những minh chứng cho thấy cơ chế giám sát hiện nay
chưa hiệu quả! Đó là một cơ chế bảo hiến chưa hữu hiệu. Vấn đề đặt ra lúc này là tìm
một mơ hình bảo hiến hữu hiệu cho Việt Nam. Chúng ta phải xây dựng một mơ hình
bảo hiến như thế nào, có thể áp dụng mơ hình bảo hiến của thế giới vào Việt Nam hay
không? Để trả lời cho những câu hỏi này, chúng ta cần thiết phải tìm hiểu các mơ hình
bảo hiến của thế giới để học tập kinh nghiệm và xây dựng mơ hình, xây dựng cơ chế
bảo hiến phù hợp với mình. Phần tiếp theo dưới đây, chứng tôi sẽ luận bàn về vấn đề

này.
3.Tòa án Hiến pháp – cơ chế bảo hiến cần được lựa chọn ở Việt Nam hiện nay

10

Trương Đắc Linh, Bàn về Tài phán Hiến pháp vè thẩm quyền của cơ quan Tài phán Hiến pháp ở Việt Nam,
Tạp chí Khoa học pháp lý, Trường đại Học Luật TP. Hồ Chí Minh, số tháng 03/2007
11
Bài phản ánh trên báo Pháp Luật TP. Hồ Chí Minh, số ra ngày 5/6/2008
12
Bài phản ánh trên báo Pháp luật TP. Hồ Chí Minh, số ra ngày 8/6/2008

17


3.1. Các cơ chế bảo hiến trên thế giới13
Các cơ chế bảo hiến trên thế giới hiện nay được thể hiện qua các mơ hình sau
đây: mơ hình Mỹ, mơ hình Châu Âu và mơ hình hỗn hợp Âu-Mỹ.
Mơ hình Mỹ (mơ hình phi tập trung): Đây là mơ hình giám sát Hiến pháp với
Tài phán Hiến pháp không tách rời mà nằm trong hệ thống Tịa án. Mơ hình này thông
qua việc giải quyết các vụ việc cụ thể, dựa vào các đơn kiện của đương sự, các sự kiện
pháp lý cụ thể mà bảo vệ Hiến pháp. Mô hình này có ưu điểm là bảo hiến khơng trừu
tượng vì nó liên quan đến những vụ việc cụ thể nên bảo vệ Hiến pháp một cách cụ thể.
Nhược điểm của mơ hình này: phán quyết của Tịa án về tính hợp hiến chỉ có hiệu lực
ràng buộc đối với các bên tham gia tố tụng và khi một đạo luật được Tịa án xác định
là trái Hiến pháp thì đạo luật đó khơng cịn giá trị áp dụng và chỉ có hiệu lực bắt buộc
đối với các Tịa án cấp dưới, nếu là phán quyết của Tòa án tối cao thì có giá trị bắt
buộc đối với cả hệ thống tư pháp. Như vậy, Tịa án khơng có thẩm quyền hủy bỏ đạo
luật bị coi là trái với Hiến pháp và về hình thức đạo luật đó vẫn cịn hiệu lực nhưng
trên thực tế sẽ khơng được Tịa án áp dụng vì truyền thống án lệ.Ở Mỹ khơng có phân

biệt án cho các loại toà và đềi do một thẩm phán xét xử. đặc trưng của cơ chế tài phán
hệ thống Tồ án Mỹ: sự kiểm tra mang tính phổ biến (đạo luật, các văn bản quy phạm
pháp luật, các quy định hành chính), mỗi tồ án đều có chức năng kiểm tra, giám sát,
phán quyết về tính hợp hiến khi xem xét các vụ việc cụ thể, phán quyết của Tồ án
trong những trường hợp đó khơg mang tính phổ biến đối với mọi trường hợp trước đó
mà chỉ có giá trị đối với các bên đương sự. Tức là quy phạm pháp luật trong trường
hợp này không bị bãi bỏ. Tuy nhiên, với truyền thống án lệ thì nó gần như mất hiệu lực
trên thực tế.
Mơ hình Châu Âu (mơ hình tập trung): Theo mơ hình này các nước châu Âu
quyền giám sát Hiến pháp được trao cho các cơ quan bảo hiến chuyên trách (Tòa án
Hiến pháp hay Hội đồng bảo hiến…) có vị trí độc lập với quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp. Thẩm phán là những người có chun mơn nghiệp vụ cao, được bổ nhiệm hay
bầu theo một chế độ đặc biệt.
Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về Hiến pháp theo thỉnh cầu trực tiếp của các tổ
chức chính trị, các Tồ án thậm chí là của cá nhân. Quyết định của Tịa án Hiến pháp
hay Hội đồng bảo hiến có giá trị bắt buộc.
Giám sát Hiến pháp ở châu Âu kết hợp việc giải quyết các vụ việc cụ thể đồng thời
giải quyết cả những việc có tác dụng chung cho cả xã hội thông qua đề nghị của các cơ
quan có thẩm quyền.
Ở đây, rõ ràng là có sự khác biệt giữa hai mơ hình trên. Ngun nhân của sự
khác biệt đó là gì? Có rất nhiều ngun nhân. Chủ yếu là những nguyên nhân sau
đây14:
Một là, nhận thức về đạo lụât: đối với các nước châu Âu lục địa, luật thành văn có giá
13

Phần này có tham khảo, viện dẫn từ bài viết “Cơ chế bảo hiến trong Nhà nước pháp quyền” của tác giả Trần
Thị Hạnh Dung, />14
Đào Trí Úc, Tài phán Hiến pháp và xây dựng tài phán Hiến pháp ở Việt Nam hiện nay, tạp chí Nhà nước và
pháp luật, số tháng 10/2006


18


trị to lớn, được coi là quy tắc thực định bắt buộc phổ biến. Nếu như ở Anh, Mỹ, Hiến
pháp và sau đó là thực tiễn xét xử của các Tồ án thì ở châu âu lục địa, thì Hiến pháp
rồi sau đó là đạo luật dựa trên Hiến pháp. Các đạo luật chỉ phải phù hợp với Hiến
pháp. Do đó, các Tồ án và các thủ tục khơng thể được coi là nguồn phn xét về tính
hợp pháp của cá đạo luật. Chức năng đó phải di những người có thẩm quyền cao hơn,
có tầm nhìn và uy tín thực hiện.
Hai là, Châu Âu lục địa quan niệm các Thẩm phán như các quan chức hành chính,
hưởng lương và các danh lợi. Cho nên, không thể cưỡng được sức mạnh của các cơ
quan lập pháp và hành pháp.
Ba là, Châu Âu thường có sự chun mơn hố các Thẩm phán theo loại vụ án và do đó
tầm nhìn của các Thẩm phán bị hạn chế bởi lĩnh vực chuyên mơn hẹp, khơng rộng như
Tài phán Anh-Mỹ. Mơ hình tài phán Hiến pháp kiểu Mỹ chỉ phù hợp khi không có sự
chun mơn hố kiểu châu Âu.
Bốn là, về cơ cấu thẩm quyền nếu như ở Mỹ, Quốc Hội không thể một mình thay đổi
luật mà cầb phải có cácchế định về quyền phủ quyết của Tổng thống và cả của Tồ án
tối cao thì ở các nước châu Âu, việc sửa một đạo luật đối với Quốc hội là điều đơn
giản khi chỉ cần một đa số bình thường của các nghị sĩ và với đa số đó, đạo luật có thể
phủ quyết ln cả phán quyết của tồ án nếu Tồ án tun bố đạo luật khơng hợp
Hiến.
Ngồi hai mơ hình bảo hiến nói trên, cịn có mơ hình bảo hiến kiểu hỗn hợp
Âu-Mỹ: Đây là mơ hình kết hợp những yếu tố của cả hai mơ hình kiểu châu Âu và
kiểu Mỹ. Theo mơ hình này, thẩm quyền bảo hiến được trao cho cả cơ quan bảo hiến
chuyên trách (tòa án Hiến pháp) và cà các Tòa án thuộc hệ thống tư pháp, trong đó
thẩm quyền của Tòa án Hiến pháp và Tòa án Tối cao đối với những vụ việc cụ thể
được quy định ngay trong Hiến pháp, các tòa án khác khi giải quyết một vụ việc cụ thể
có quyền xem xét tính hợp hiến của các đạo luật và được quyền không áp dụng các
đạo luật được cho là khơng phù hợp.

Nói tóm lại, các mơ hình bảo hiến chủ yếu trên thế giới dù có khác nhau nhưng
đều có chung mục đích là bảo vệ Hiến pháp, bảo vệ tính tối cao của Hiến pháp. Các
mơ hình đều có những ưu khuyết điểm riêng. Nhưng đó đều là mơ hình bảo hiến theo
cơ chế phán quyết của Toà án (cơ chế phán quyết). Cịn mơ hình bảo hiến của chúng ta
hiện nay là cơ chế giám sát, không phải là phán quyết. Chúng ta cũng chưa có một cơ
quan tài phán Hiến pháp, gọi là toà án Hiến pháp. Thiết nghĩ đây là một nhu cầu mang
tính thực tiễn hiện nay và chúng ta cần phải học hỏi kinh nghiệm của các mô hình nói
trên để xây dựng mơ hình Việt Nam.
3.2. Tồ án Hiến pháp – cơ chế bảo hiến cần dược lựa chọn ở Việt nam hiện
nay
Nhận thấy được yêu cầu của thực tiễn cũng như tầm quan trọng của cơ
chế bảo hiến hữu hiệu, tại Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng Sản
Việt Nam, báo cáo chính trị của ban chấp hành Trung ương Đảng khố IX (ngày
10/04/2006) đặt ra u cầu: “Xây dựng, hồn thiện cơ chế kiểm tra, giám xác tính hợp
hiến, hợp pháp của các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền; “xây
19


dựng cơ chế phán quyết về những hành vi vi phạm hiến pháp trong hoạt động lập
pháp, hành pháp và tư pháp”. Quan điểm của Đảng ta đã khẳng định chúng ta phải có
một cơ chế phán quyết. Đó là một định hướng tiến bộ và đúng đắn, phù hợp yêu cầu
thực tế. Đó là định hướng tài phán Hiến pháp. Đây là một định hướng để xây dựng
Nhà nước pháp quyền vì tài phán Hiến pháp được xem là “vương miện của Nhà nước
ph p quyền”.
Hiện nay, có 3 phương án khác nhau về cơ chế tài phán hiến pháp ở nước ta 15:
- Phương án 1: Quốc hội thành lập ủy ban giám sát hiến pháp trực thuộc Quốc hội để
giúp Quốc hội thực hiện việc bảo hiến đối với các văn bản pháp luật do Chủ tịch nước,
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tịa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, chính quyền địa phương ban hành. Thành viên của ủy ban giám sát hiến pháp phải
là các đại biểu Quốc hội được bầu theo thủ tục thông thường. Ủy ban giám sát hiến

pháp có trách nhiệm trình báo cáo kết quả giám sát của mình để Quốc hội xem xét và
quyết định.Với mơ hình ủy ban giám sát hiến pháp này, Quốc hội tiếp tục được khẳng
định là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Về thực chất ủy ban giám sát hiến pháp
chỉ là một cơ quan thuộc Quốc hội, một cơ cấu mang tính giúp việc chứ khơng thể trở
thành một cơ cấu có quyền quyết định về tính hợp hiến của các văn bản pháp luật được
giám sát. Đối tượng giám sát của ủy ban giám sát hiến pháp cũng chỉ là các văn bản
pháp luật từ pháp lệnh trở xuống. Như vậy các đạo luật vẫn nằm ngồi sự giám sát tính
hợp hiến của chúng. Do vậy hoạt động thực hiện quyền lập pháp của Quốc hội về cơ
bản vẫn không phải là đối tượng giám sát nhìn từ u cầu địi hỏi của ngun tắc về
tính tối cao và bất khả xâm phạm của hiến pháp.
- Phương án 2: Cơ cấu lại tổ chức và thẩm quyền của Tịa án nhân dân tối cao, theo đó
Tịa án nhân dân tối cao được trao quyền bảo vệ hiến pháp.Để thực hiện được thẩm
quyền bảo vệ hiến pháp, Tòa án nhân dân tối cao cần được quy định lại về vị trí, chức
năng trong bộ máy nhà nước, bỏ bớt một số chức năng hiện hành để tập trung vào
chức năng bảo vệ hiến pháp; cơ cấu lại số lượng, chất lượng, thành phần và phương
thức bổ nhiệm đặc biệt đối với các thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, để đảm bảo
năng lực, trình độ, phẩm chất chính trị và đạo đức nghề nghiệp của mỗi một thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao trong việc thực hiện nhiệm vụ, trách nhiệm thiêng liêng là bảo
vệ hiến pháp trước mọi sự xâm hại có thể xảy ra.Dù cơ quan bảo hiến sẽ được thiết lập
theo mô hình nào chăng nữa, thì việc xuất hiện một cơ quan bảo hiến sẽ làm thay đổi
nội dung và phương thức thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội trong nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân ở nước ta.
- Phương án 3: Thành lập cơ quan bảo hiến độc lập không thuộc Quốc hội, thực hiện
độc lập các hoạt động giám sát tính hợp hiến của các hoạt động nhà nước, cả hoạt động
lập pháp của Quốc hội. Đây là một phương án khá phổ biến trong nhiều mơ hình nhà
nước pháp quyền trên thế giới. Tính độc lập của cơ quan bảo vệ hiến pháp (có thể là
hội đồng bảo hiến, tòa án hiến pháp...) được đảm bảo bởi tính cân bằng trong quan hệ
15

/>

20



×