Tải bản đầy đủ (.docx) (61 trang)

Các bài viết trọng tâm kiến thức văn 12 năm 2022

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (448.85 KB, 61 trang )

TÂY TIẾN – Quang Dũng
Đề 3:
“Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
(Trích: Tây Tiến – Quang Dũng)
Anh/chị hãy cảm nhận vẻ đẹp hình tượng người lính trong đoạn thơ trên. Từ đó
nhận xét về sự quyện hịa giữa chất hiện thực và lãng mạn trong thơ Quang Dũng.
BÀI LÀM
Quang Dũng là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ông là
một nghệ sĩ đa tài làm thơ, vẽ tranh, viết văn, soạn nhạc nhưng thành công nhất là thơ.
Với tâm hồn lãng mạn, tài hoa của một người con “xứ Đoài mây trắng”, Quang Dũng đã
sáng tác những bài thơ giàu chất nhạc, chất họa, như: “ Mây đầu ơ”, “Thơ văn Quang
Dũng”… Trong đó tiêu biểu là bài thơ “Tây Tiến”. Bài thơ không là dòng cảm xúc nhớ
nhung của Quang Dũng về mảnh đất Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội với biết bao kỉ
niệm gắn bó. Ấn tượng sâu đậm nhất trong dịng cảm xúc ấy là hình ảnh những người
lính Tây Tiến thật oai phong lẫm liệt, thật sang trọng hào hoa:
Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc
Qn xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Tây Tiến là tên một đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ


phối hợp với bộ đội Lào, đánh tiêu hao sinh lực địch, bảo vệ biên giới Việt –Lào. Chiến
sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên, học sinh, trí thức Hà Nội, những chàng trai hào hoa
thanh lịch, lãng mạn yêu đời. Lên với chiến trường Tây Bắc, họ phải đối mặt với bao
khó khăn thử thách, nhưng vẫn ln ngời sáng một ý chí, một tinh thần chiến đấu dũng
cảm kiên cường. Quang Dũng gắn bó cùng đồn qn Tây Tiến từ những ngày đầu thành
|

1


lập trên cương vị Đại đội trưởng, anh yêu thương và cảm phục sâu sắc những chiến sĩ trẻ
đầy quả cảm của đoàn quân. Cuối năm 1948, khi rời đơn vị cũ chưa lâu, tại Phù Lưu
Chanh, vì rất nhớ đoàn quân, Quang Dũng đã viết bài thơ “Nhớ Tây Tiến, sau đổi tên
thành “Tây Tiến” (in trong tập thơ “Mây đầu ô”).
Hai tiếng thân thương “Tây Tiến” được nhắc đến trong bài với thật nhiều cảm
xúc, khi thì đầy nuối tiếc, luyến lưu “Tây Tiến ơi!”, lúc lại da diết cồn cào: “nhớ ôi Tây
Tiến”, và cái tên “Tây Tiến” lúc này được gọi lên đầy kiêu hãnh tự hào:
“ Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc
Qn xanh màu lá dữ oai hùm
Những vần thơ ngồn ngộn chất hiện thực, nửa thế kỷ sau mà người đọc vẫn cảm
thấy trong khói lửa, trong âm vang của tiếng súng, những gương mặt kiêu hùng của đoàn
dũng sĩ Tây Tiến. “ Đồn binh khơng mọc tóc”, “ Qn xanh màu lá”, tương phản với “
dữ oai hùm”. Cả ba nét vẻ đều sắc, góc cạnh hình ảnh những “ Vệ túm”, “Vệ trọc” một
thời gian khổ đươc nói đến một cách hồn nhiên. Quân phục xanh màu lá, nước da xanh
và đầu khơng mọc tóc vì sốt rét rừng, thế mà quắc thước hiên ngang, xung trận đánh
giáp lá cà “ dữ oai hùm” làm cho giặc Pháp kinh hồn bạt vía “ Tam qn tì hổ khí thơn
Ngưu” là hình ảnh các tráng sĩ “ Sát Thát”, đời Trần. “ Quân xanh màu lá dữ oai hùm” là
chí khí lẫm liệt hiên ngang của anh bộ đội cụ hồ trong chín năm kháng chiến chống
Pháp.
Gian khổ và ác liệt thế, nhưng họ vẫn mộng vẫn mơ.

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Lí tưởng sống của những chàng lính thật đẹp. Họ ln biết dung hòa giưa mộng
và mơ. Mộng giết giặc, đánh tan lũ xâm lăng để giữ bình n cho xóm làng. Tâm thế
luôn sẵn sàng chiến đấu và lập công, “ mắt trừng” . Cịn mỗi đêm khuya, lại đắm mình
trong những ước mơ thật đẹp :“Hà Nội dáng kiều thơm”. Ba chữ “dáng kiều thơm” đã
diễn tả thật “ đắt” cái phong độ hào hoa, đa tình của những chiến binh Tây Tiến, những
chàng trai của đất nghìn năm văn hiến, giữa khói lửa chiến trường vẫn mơ, vẫn nhớ về
một mái trường xưa, một góc phố cũ, một tà áo trắng, một “dáng kiều thơm”. Ngòi bút
của Quang Dũng biến hố, lúc bình dị mộc mạc, lúc lại mộng ảo nên thơ, và đó chính là
vẻ đẹp vừa hào hùng vừa hào hoa của một hồn thơ chiến sĩ.
Bốn câu thơ tiếp theo ở cuối phần 3, một lần nữa nhà thơ nói về sự hy sinh tráng
liệt của những anh hùng vơ danh trong đồn qn Tây Tiến.
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

|

2


Có biết bao chiến sĩ đã ngã xuống nơi góc rừng, bên bờ dốc vì độc lập, tự do của Tổ
quốc. Đó là những cái chết lặng thầm, đơn độc và lạnh lẽo vô cùng. Bởi đồng đội vẫn
tiếp tục hành quân, còn các anh nằm lại nơi biên cương, miền viễn xứ - đất khách quê
người. Cả câu thơ sử dụng nhiều từ Hán Việt khiến giọng điệu thơ trang trọng cổ kính,
khiến những nấm mồ hoang dại, đơn độc trở nên thiêng liêng, nhưng cũng không tránh
khỏi nỗi xót xa, thương cảm trong lịng người đọc.
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sơng Mã gầm lên khúc độc hành
Hình ảnh “áo bào” xuất hiện trong câu thơ khiến cái chết của các anh trở nên oai

hùng, bi tráng lạ thường, tưởng như đó là phút sa cơ của người dũng tướng của một thời
hào khí Đơng A. Nhưng sự thật đau lòng là khi nằm xuống, tấm quần manh áo cịn
khơng lành lặn huống chi là áo bào. Quấn thân các anh có thể chỉ là tấm vải dù che mưa
che gió. Các anh đã “về đất” một cách thanh thản, bình dị; n nghỉ trong lịng Mẹ, giấc
ngủ nghìn thu. Sự ra đi thật nhẹ nhàng mà lịng người ở lại trĩu nặng nỗi xót xa.
Cả đồn qn lặng đi, chỉ cịn nghe thác sơng Mã thay tiếng của hồn thiêng sông
núi, tiếng của đồng bào, của Tổ quốc “gầm lên” như một loạt đại bác nổ xé trời, vừa đau
đớn vừa uất nghẹn căm hờn. “Khúc độc hành” vừa là khúc hát tiễn đưa hồn tử sĩ, vừa là
khúc hát lên đường đầy thiêng liêng, bi tráng .
Có người cho rằng, Quang Dũng là một trong những nhà thơ đầu tiên của nền thơ
ca kháng chiến nói rất cảm động về sự hy sinh anh dũng của các chiến sĩ vơ danh. Quả
thực vậy, nếu Chính Hữu, qua bài “Đồng Chí” đã nói rất hay về người nơng dân mặc áo
lính, thì Quang Dũng, với bài thơ “Tây Tiến” đã dựng lên một tượng đài hùng vĩ uy
nghiêm và đầy bi tráng về những chàng trai Hà Nội “mang gươm đi mở cõi” dũng cảm,
can trường, trong gian khổ chiến đấu hy sinh vẫn lạc quan yêu đời. Đó là vẻ đẹp riêng
độc đáo làm nên huyền thoại về một đồn binh khơng mọc tóc thủa nào! Trong thơ
Quang Dũng, hiện thực khốc liệt của chiến tranh được nói đến thẳng thắn, khơng hề né
tránh, nhưng cách mà nhà thơ nhìn nhận và biểu đạt trong từng câu thơ dù có đau thương
chết chóc nhưng khơng khiến người đọc cảm thấy bi quan, buồn chán, mà trái lại, hiện
thực chỉ càng thổi bùng lên ý thức đấu tranh địi sự sống, cùng tình u và sự tơn vinh
đẹp đẽ hào hùng. Bởi vậy mà hình tượng tập thể anh hùng Tây Tiến hiện lên trong trang
thơ của Quang Dũng mang vẻ đẹp hào hùng, bi tráng, khơi gợi cảm xúc ngưỡng mộ, tự
hào nhiều hơn là cảm xúc xót đau, thương cảm.
Nhìn chung, đoạn thơ trên đã thể hiện thật rõ nét cốt cách và bút pháp lãng mạn,
hồn thơ tài hoa của Quang Dũng. Nếu “thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách
cao đẹp” thì đoạn thơ đã cho ta cảm nhận về ấn tượng ấy. “Tây Tiến” đã mang vẻ đẹp
độc đáo của một bài thơ viết về người lính – anh bộ đội cụ Hồ những năm đầu kháng

|


3


chiến chống Pháp. Bài thơ hội tụ mọi vẻ đẹp và bản sắc của thơ ca kháng chiến ca ngợi
chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.

VIỆT BẮC – Tố Hữu
Đề 4:
- Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ khơng?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sơng nhớ nguồn.
- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay...
(Trích: Việt Bắc – Tố Hữu)
Anh/chị hãy phân tích đoạn thơ trên. Từ đó nhận xét về chất trữ tình – chính trị
trong ngịi bút thơ Tố Hữu.
BÀI LÀM
Tố Hữu là nhà thơ lớn, là cánh chim đầu đàn của nền thơ ca cách mạng Việt
Nam. Các tác phẩm của ông luôn in đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn,
mang tính trữ tình chính trị và đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. “Việt Bắc” là một trong
những sáng tác hay nhất của đời thơ Tố Hữu, là đỉnh cao của thơ kháng chiến chống
Pháp. Đó được xem như một bản tổng kết bằng thơ cuộc kháng chiến trường kì, gian
khổ mà anh dũng kiên cường. Cả bài thơ cũng là dòng chảy cảm xúc dạt dào, tha thiết về
nỗi nhớ Việt Bắc. Tiêu biểu trong bài thơ là những dịng kí ức về giờ phút chia tay đầy
bịn rịn lưu luyến của kẻ ở người đi:
- Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

|

4


Mình về mình có nhớ khơng?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay...
Tố Hữu viết Việt Bắc nhân một sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc. Sau chiến
dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, tên giặc Pháp cuối cùng rời khỏi quê hương, cơ quan
trung ương chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về tiếp quản thủ đơ sau mười lăm năm gắn
bó. Trong giờ phút chia tay đầy lưu luyến bịn rị, Tố Hữu đã viết bài thơ này. Mạch thơ
tuôn trào theo dòng hồi tưởng của nhà thơ về những năm tháng gắn bó với mảnh đất và
con người Việt Bắc mà khởi nguồn là giây phút chia li thật xúc động nghẹn ngào.
Chúng ta đã từng có những áng văn chương lớn nói về những cuộc chia ly làm
não lịng nhiều thế hệ người đọc Việt Nam. Đó là giọt nước mắt chia li của người chinh
phụ tiễn chồng ra biên ải (Chinh phụ ngâm – Đặng Trần Cơn); đó là phút tử biệt “một
giã gia đình một rửng rưng” của người chiến sĩ bước vào khói lửa đạn bom (Tống biệt
hành – Thâm tâm); hay đó là cuộc chia li “chói ngời sắc đỏ” của người vợ xa chồng
trong khánh chiến chống Mĩ...Thế nhưng, có một cuộc chia li khơng thấm đẫm nước
mắt, không nhuốm màu tử biệt đã đi vào lịch sử, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng
của dân tộc. Không phải là cuộc chia li chồng vợ hay của đơi trai gái chung tình, mà
buổi tiễn chân bộ đội miền xuôi về với thủ đô vẫn nghe sao thật tình tứ, mặn nồng.
- Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Ngay từ câu thơ đầu tiên, người ở lại đã cất lên tiếng lịng đầy băn khoăn trăn trở về tình
cảm của người ra đi. Thật dễ hiểu, bởi trong mỗi cuộc chia li thì người ở lại ln có tâm

trạng nặng nề hơn, vừa phải đối diện với một không gian trống trải, thiếu vắng bóng
người, vừa luyến tiếc những năm tháng gắn bó, liệu người đi rồi có cịn nhớ ta chăng?
Câu hỏi tu từ mang âm hưởng ca dao “mình về có nhớ ta chăng? – Ta về ta nhớ
hàm răng mình cười”, với lối xưng hơ “mình – ta” ngọt ngào, đằm thắm như đôi trai gái
yêu nhau đã khơi gợi tình cảm gần gũi, tha thiết nhớ thương của người về xuôi: Người
về chốn thị thành phồn hoa, có cịn nhớ đến ta?
Vừa khơi gợi cảm xúc, câu hỏi tu từ vừa như nhắc nhớ về khoảng thời gian gắn bó mười
lăm năm, kể từ những ngày đầu mới xây dựng căn cứ địa Việt Bắc. Chỉ nhắc đến khoảng
thời gian đằng đẵng ấy thôi cũng đủ khơi dậy biết bao kỉ niệm về những gian khổ, thiếu
thốn “ta” và “mình” đã trải qua. Nó “ thiết tha, mặn nồng” bền chặt, keo sơn và luôn in
dấu trong lòng người ở lại.
|

5


Kỉ niệm không chỉ được nhắc nhớ qua thời gian “mười lăm năm” mà cịn được
nhắc nhớ qua khơng gian núi rừng Việt Bắc qua cấu trúc câu hỏi được lặp lại:
Mình về mình có nhớ khơng?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sơng nhớ nguồn.
Câu thơ vẽ lên khơng gian đặc trưng của núi rừng Việt Bắc, không gian đã từng gắn bó
một thời gian khổ hào hùng của người đi kẻ ở, giờ đây đã trở thành không gian của nỗi
nhớ. Nhà thơ đã sử dụng hai điệp từ lặp đi lặp lại ở hai vế “nhìn – nhớ” để nhấn mạnh và
khắc sâu những diễn biến sẽ có trong tâm trí người ra đi. Núi rừng, sơng suối nơi Việt
bắc sẽ trở thành một phần kí ức của bộ đội miền xuôi, để khi về lại thủ đô, mỗi lần nhìn
“cây” nhìn “sơng” ở nơi ấy sẽ gợi nhắc về không gian “núi”, “nguồn” chốn thượng ngàn.
Câu thơ bộc lộ sự thấu hiểu tâm trạng người đi và ngâmd ẩn một lời nhắc nhớ ngườ đi
gìn giữ tấm chân tình: đừng vì hồn cảnh sống thay đổi mà qn những ngày tháng đồng
cam cộng khổ ở Việt Bắc thân thương.
Qua hai cặp câu hỏi tu từ giãi bày nỗi lịng nhớ nhung, trăn trở của người ở lại, ta

khơng chỉ thấy được tình cảm đậm đà sâu sắc của đồng bào Việt Bắc dành cho cán bộ
miền xuôi, mà còn thấy được sự trân trọng, nâng niu những kỉ niệm buồn vui suốt mười
lăm năm gắn bó của họ.
Để đáp lại những băn khoăn trăn trở của người ở lại, người ra đi đã khẳng định
tình cảm của mình bằng những câu thơ đầy xúc động:
- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay...
Nếu như Việt Bắc băn khoăn “mình về mình có nhớ…” thì đây chính là lời khẳng định
chắc chắn về nỗi nhớ, về tình cảm của người đi dành cho Việt Bắc trong sự đồng điệu
tâm hồn. Người đi khơng chỉ nhớ mà cịn khắc ghi sâu đậm trong tâm khảm “tiếng” và
“hình” của người ở lại. Đại từ phiếm chỉ “ai” khiến đối tượng của nỗi nhớ trở nên bao
quát hơn và thi vị hơn, bởi nó khiến câu thơ mang dáng dấp những câu dân ca ngọt ngào,
tình tứ: “ Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ/ Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai”. Bởi đã gắn bó rất lâu
nên tiếng nói của người Việt Bắc đã trở thành đối tượng sâu đậm đầu tiên của nỗi nhớ.
Thứ thanh âm “tha thiết” quen thuộc mang đặc trưng của vùng miền đã gieo vào lòng
người đi nỗi “bâng khuâng” vừa buồn vui, vừa luyến nhớ, khiến bước chân trở nên “bồn
chồn”, bởi lòng ngổn ngang nỗi nhớ, chùng chình nửa ở nửa đi! Trong hai câu thơ lục
bát, tác giả sử dụng đến ba từ láy “tha thiết”, bâng khuâng”, “bồn chồn” để diễn tả trạng
thái cảm xúc đang trào dân và luôn thường trực của người ra đi. Lời đáp phải chăng đã
giải đáp thỏa đáng nỗi niềm băn khoăn của đồng bào Việt Bắc?
Tiếp theo trong lời đáp ấy, nhịp thơ thay đổi, khiến câu thơ như bẻ đôi, chia li,
cách biệt:
|

6


Áo chàm đưa buổi phân ly

Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay...
Từ nhớ tiếng sang nhớ hình. Một nét ấn tượng nữa trong tâm trí người đi đó lại là hình
ảnh của chiếc áo chàm quen thuộc, đặc trưng cho lối ăn mặc của người Việt Bắc. Mượn
hình ảnh hoán dụ “áo chàm” để chỉ người dân Việt Bắc, người ra đi đã bộc lộ một nỗi
niềm thương nhớ và yêu mến cái chất phác, giản dị toát ra từ cái sắc trầm bền bỉ, sắc son
ấy. Cùng với hình ảnh đồng bào Việt Bắc, hành động “cầm tay” cũng để lại ấn tượng
thật sâu sắc. cái nắm tay thật giản đơn, mộc mạc thôi mà chất chứa bao ân tình, hơn ngàn
vạn lời nói. Qua cái nắm tay, người đi cảm nhận được hơi ấm, niềm tin yêu, cảm nhận
được tâm tư, tình cảm của người ra đi. Cách ngắt nhịp 3/3/2 của câu thơvà dấu chấm
lửng cuối dòng đã tạo nên những khoảng lặng trong cảm xúc người ở kẻ đi. Đó là những
giây phút nghẹn ngào khơng nói nên lời, chỉ biết nắm tay nhau thật chặt để níu lại những
thương yêu. Thật xúc động biết bao!
Bốn câu thơ đáp lời người ở lại của cán bộ miền xi bằng tình cảm chân thành và
sâu nặng đã thực sự làm yên lòng người ở lại. Dù không dùng đến một từ “nhớ”, nhưng
nỗi nhớ tràn ngập bốn dòng thơ và xâm lấn trong tâm hồn, trong chiều sâu cảm xúc của
người ra đi. Tình cảm ấy cũng thủy chung son sắt, đậm đà tha thiết lắm thay!
Nhiều nhà nghiên cứu nhận định rằng thơ Tố Hữu là thơ của thứ tình cảm lớn,
niềm vui lớn, cảm xúc thơ ln gắn liền với những sự kiện chính trị quan trọng có ý
nghĩa cộng đồng. Nhưng phải nhận thấy một điều rằng, dù là đề cập đến nội dung chính
trị nhưng rất gần gũi, giàu cảm xúc mà khơng hề khơ khan giáo điều. Đoạn thơ nói tái
hiện khung cảnh chia tay trong thời khắc lịc sử quan trọng của đất nước giữa đồng bào
Việt Bắc và bộ đội miền xuôi mà nghe như cuộc chia tay đầy lưu luyến bịn rịn của đôi
trai gái yêu nhau vậy. Thật lãng mạn và thắm thiết tình người.
Qua tám câu thơ đầu, bằng việc sử dụng cấu trúc đối đáp giao duyên “ta”- “mình”,
kết hợp với việc sử dụng những ngơn từ hình ảnh giàu sức gợi hình, gợi cảm mà mộc
mạc chân thành, nhà thơ đã làm nổi bật khung cảnh chia tay đầy lưu luyến giữa bộ đội
miền xi và Việt Bắc. Đoạn thơ cũng góp phần ngợi ca vẻ đẹp trong tâm hồn con người
Việt Bắc, ngợi ca tình nghĩa cách mạng thủy chung gắn bó. Bằng việc sử dụng khéo léo,
tài tình ngơn ngữ dân tộc, Tố Hữu đã trữ tình hóa mối quan hệ chính trị, khiến tình quân
dân trở nên thi vị và đầy ấn tượng. Đoạn thơ góp phần làm nên thành cơng của tác phẩm

và đem đến cho người đọc ấn tượng thật đẹp về một thời kì đau thương nhưng vĩ đại của
dân tộc.

|

7


Đề 5:
- Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lịng son?
Mình về, cịn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở cịn Việt Minh?
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
(Trích: Việt Bắc – Tố Hữu)
Anh/chị hãy phân tích đoạn thơ trên. Từ đó nhận xét về tính dân tộc trong thơ Tố
Hữu.
BÀI LÀM
Tố Hữu là nhà thơ lớn, là cánh chim đầu đàn của nền thơ ca cách mạng Việt
Nam. Các tác phẩm của ông luôn in đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn,
mang tính trữ tình chính trị và đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. “Việt Bắc” là một trong
những sáng tác hay nhất của đời thơ Tố Hữu, là đỉnh cao của thơ kháng chiến chống
Pháp. Đó được xem như một bản tổng kết bằng thơ cuộc kháng chiến trường kì, gian

khổ mà anh dũng kiên cường. Cả bài thơ cũng thể hiện một tấm lòng tri ân sâu nặng về
nghĩa tình cách mạng của nhà thơ nói riêng, của bộ đội miền xi nói chung với mảnh
đất và con người Việt Bắc. Lịch sử đã sang trang, mà mỗi lần đọc lại đều rưng rưng rưng
xúc động:
- Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lịng son?
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh?
|

8


Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
Mười lăm năm đi hết cuộc đời trai trẻ, mười lăm năm gắn bó với thượng ngàn heo
hút, biết bao kỉ niệm vơi đầy, người thi sĩ - chiến sĩ ấy làm sao không lưu luyến khi rời
xa? “ Khi ta ở chỉ là nơi đất ở - Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”. Tháng 10 năm 1954, nhà
thơ theo cơ quan trung ương, chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về tiếp quản thủ đô sau
khoảng thời gian dài đã đồng cam cộng khổ cùng mảnh đất và con người Việt Bắc, trong
giây phút chia tay đầy lưu luyến và dạt dào xúc cảm, Tố Hữu đã viết bài thơ Việt Bắc.
Những kỉ niệm cứ ùa về như dịng thượng nguồn tn chảy qua lời đối đáp ngọt ngào
đằm thắm của kẻ ở - người đi mà khởi nguồn là phút nắm tay giã biệt bịn rịn đầy lưu
luyến. Nối tiếp là những lời gợi nhắc của người ở lại về những kỉ niệm không thể nào

quên.
Vẫn trong cấu trúc đối đáp “ta – mình” như lời giao dun tình tứ gợi về khơng
gian văn hóa làng Việt gần gũi thân thương, từng câu hỏi của người ở lại như xốy sâu
vào tâm trí người đi:
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Nhớ về Việt Bắc là nhớ về những ngày tháng cùng chung sống với những cơn mưa đầu
nguồn xối xả, với lũ suối thành sông, với âm u núi rừng mây mù giăng khắp. Thời tiết
khắc nghiệt mang đặc trưng của thiên nhiên nơi đây đã tôi luyện ý chí, nghị lực và tinh
thần thép cho những người chiến sĩ đến từ miền xi. Cách nói nhấn mạnh “những mây
cùng mù” càng tơ đậm những khó khăn gian khổ đã trở thành quen thuộc, đã trở thành
một phần cuộc sống suốt 15 năm rịng gắn bó. Người ở lại gợi nhắc đầy trăn trở: liệu
rằng người về xuôi có cịn nhớ chăng?
“Mình về có nhớ chiến khu,
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai?”
Vẫn là “mình” đó mà lúc lại là “mình đi”, lúc lại là “mình về”, dường như cảm
xúc của người ở lại chộn rộn quá, như chống chếnh, như chơi vơi, vừa nhớ tiếc, vừa
luyến lưu. Không chỉ nhớ về khung cảnh mưa lũ mây mù, có chút ảm đạm nhưng vẫn
mang đậm chất trữ tình, thơ mộng, phóng khống và hùng vĩ của thiên nhiên, mà người
ở lại còn gợi nhớ về cuộc sống sinh hoạt ở chiến khu với “miếng cơm chấm muối” đạm
bạc mà nghĩa tình. Câu thơ có vế sóng đơi “mối thù nặng vai” diễn tả ý chí quyết tâm
một lịng của qn và dân Việt Bắc. Những khó khắn thiếu thốn ấy càng thổi bùng lên
ngọn lửa hờn căm, càng nhắc nhở về mối thù quân xâm lược đang kết hình kết khối đè
nặng lên vai. Câu thơ cũng bộc lộ niềm tự hào của những con người đã từng trải qua
những ngày tháng gian khổ, kiên trì đấu tranh để giành lại độc lập tự do và đem đến cho
nhân dân cuộc sống hạnh phúc, ấm no.
Phút chia tay thật nhiều điều muốn nói! Những câu hỏi như khơi sâu người ở bộc
lộ nỗi trống trải, thiếu hụt trong lịng bằng hình ảnh nhân hóa:
|


9


Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Người về với thị thành tấp nập, để lại khoảng trống khó lấp đầy của khơng gian. Núi
rừng cũng như bần thần nhớ “ai”. Những món ăn đặc sản núi rừng “trám bùi”, “măng
mai” cũng để rụng, để già, khơng cịn người thu hái. Tất cả trở về với nguyên sơ, với sự
tĩnh lặng hiu hắt khi bộ đội về xuôi. Không buồn nhớ sao được!
Vẫn với tâm trạng băn khoăn luyến nhớ, người ở lại hỏi người ra đi:
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lịng son?
Hai câu thơ có hình ảnh tượng trưng và tương phản đầy ấn tượng. Những ngôi nhà sàn
thấp thoáng sau những vạt lau sậy hắt hiu, hoang vắng, đó là mái ấm của những con
người Việt bắc chân chất mộc mạc. Đó cũng là nơi ni dưỡng những tấm lòng son sắt
thủy chung với cách mạng trường kì. Vẫn trong mạch cảm xúc băn khoăn trăn trở, đồng
bào gợi nhớ những hình ảnh thân thương ấy bằng một niềm kiêu hãnh về phẩm chất cách
mạng của mình. Sự tương phản hình ảnh “hắt hiu lau xám” và “đậm đà lịng son”, một
hình ảnh ẩn dụ rất đẹp ca ngợi tấm lòng son sắt thủy chung, càng khắc sâu ấn tượng về
những con người tuy còn nghèo khổ, thiếu thốn nhưng giàu tình u nước, gắn bó thủy
chung với cách mạng và kháng chiến.
Nhớ về Việt Bắc, không thể không nhớ đến những ngày tháng đấu tranh gian khổ:
Mình về, cịn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở cịn Việt Minh?
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
Cùng với những hình ảnh đặc trưng cho vùng cao Việt Bắc của quê hương, đại từ
mình xuất hiện đều đặn, nhịp nhàng và biến hóa linh hoạt suốt khổ thơ đã tạo nên sắc
điệu trữ tình thắm thiết, đậm đà tính dân tộc. Nếu đại từ “mình” được dùng để chỉ những
người bộ đội miền xi, người ra đi trong cuộc chia tay ấy thì sang đến câu thơ cuối khổ,

“mình” được điệp lại ba lần với ý nghĩa khác nhau mà lại quyện hòa, gắn bó khơng thể
rạch rịi phân định. Đó là cách xưng hơ ân tình, đằm thắm như lời lẽ tình tứ của đơi trai
gái xưa “ Mình về ta chẳng cho về - Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ”. Mình có trong ta mà
ta cũng ln hiện hữu trong trái tim mình.
Với tình cảm gắn bó tha thiết ấy, người ra đi hãy đừng quên những tháng ngày cùng
nhau chiến đấu “khi kháng Nhật – thủa còn Việt Minh”, và đừng quên những cái tên
thân thuộc Tân Trào, Hồng Thái, nơi khởi nguồn của những chiến công; đừng vội phai
nhịa những kí ức thiêng liêng về buổi lễ xuất quân dưới gốc đa cổ thụ bên mái đình Tân
Trào năm ấy.
Câu thơ cuối cùng có sự đổi chỗ thú vị: Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào được
hốn vị thành “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa” vừa nhấn mạnh cái tên đã đi vào
lịch sử vừa tạo nên tính chất mới mẻ, độc đáo cho câu thơ lục bát. Người Việt Bắc luôn

|

10


mong muốn người ra đi hãy khắc ghi và luôn gìn giữ những phẩm chất cách mạng vốn
có vẹn ngun như những ngày đầu!
Nói đên sự đóng góp của Tố Hữu trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại, không thể
khơng nói đến đóng góp quan trọng trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, tinh thần
dân tộc trong thơ. Thơ Tố Hữu bài nào cũng vậy, đều đậm đà sâu sắc phong vị quê
hương, từ ngôn từ giản dị, mộc mạc, cách xưng hơ ‘mình- ta” thân tình ấm áp; hình ảnh
của dưa cà mắm muối, của sân đình gốc đa, của dáng mẹ, dáng chị, dáng anh quen
thuộc, chân quê đến cách cảm, cách nghĩ và một tâm hồn dào dạt nghĩa tình trong thơ.
Tất cả điều đó đã làm nên nét rất riêng trong phong cách sáng tác của nhà thơ. Đó cũng
là lí do khiến thơ của Tố Hữu chyển tải những điều lớn lao mà rất tự nhiên thấm sâu vào
lòng người đọc nhiều thế hệ, làm nên sức sống lâu bền.
Với mười hai câu thơ lục bát Tố Hữu đã tạo thành sáu câu hỏi với kết cấu trùng

điệp như khắc sâu vào kỉ niệm người đi về một miền đất hoang sơ mà nghĩa tình. Mỗi
câu đều gợi lại nét tiêu biểu trong chuỗi kỉ niệm về Việt Bắc: Việt Bắc gian khổ thiếu
thốn, Việt Bắc nghĩa tình sâu đậm, Việt Bắc gắn liền với những sự kiện lịch sử trọng đại
của cách mạng Việt Nam. Đọc đoạn thơ ta như thấy ngân vang khúc nhạc tình yêu êm ái
dịu dàng. Những câu hỏi là nỗi niềm băn khoăn của đồng bào Việt Bắc đấy nhưng thực
chất lại chính là những lời tự dặn lịng mình của nhà thơ: trở về xi rồi đừng qn
những năm tháng cơ hàn khốn khó ở Việt Bắc, đừng quên những con người mộc mạc mà
ân nghĩa thủy chung. Ta nhận thấy một tấm lòng biết ơn sâu nặng của nhà thơ với Việt
Bắc, thấy yêu mến và trân trọng hơn sự cống hiến của nhân dân mọi miền cho độc lập
hôm nay. Tôi chợt hỏi mình “ta đã làm gì cho Tổ quốc hơm nay?”
Đề 6:
- Ta với mình, mình với ta
Lịng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngịi Thia sơng Ðáy, suối Lê vơi đầy
(Trích: Việt Bắc – Tố Hữu)
Anh/chị hãy phân tích đoạn thơ trên. Từ đó nhận xét về sự kết hợp yếu tố nhạc và
họa trong thơ Tố Hữu.

|

11



BÀI LÀM
Nói về sức hấp dẫn trong thơ Tố Hữu, Xuân Diệu đã từng nhận xét rằng đó là
những vần thơ “từ trái tim vọt ra” vừa lãng mạn vừa tràn đầy “máu huyết”. Quả nhiên là
thế! Thơ Tố Hữu được khơi dẫn bởi mạch nguồn của tinh thần và ý chí cách mạng, của lí
tưởng đẹp đẽ và tình yêu đất nước sâu sắc. Đọc mỗi dòng thơ của ơng, ta đều thấy chất
chính trị quyện hịa nhuần nhuyễn với chất trữ tình đằm thắm ngọt ngào. “ Việt Bắc” là
một minh chứng tiêu biểu cho nét phong cách sáng tác đó của nhà thơ. Trong tác phẩm,
tình cảm nhớ nhung lưu luyến giữa đồng bào Việt Bắc với bộ đội miền xuôi được Tố
Hữu diễn đạt bằng những câu thơ tình tứ vơ cùng:
- Ta với mình, mình với ta
Lịng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sơng Ðáy, suối Lê vơi đầy
Nếu ai đó khơng biết rằng “Việt Bắc” là lời giã biệt, lời tri ân của cán bộ, bộ đội
miền xuôi với đồng bào Việt Bắc sau mười lăm năm gắn bó làm nên thắng lợi của trận
Điện Biên Phủ lừng lẫy thì hẳn sẽ nghĩ đó là những câu hát giao dun tình tứ của những
bậc liền anh liền chị ở một xứ Kinh Bắc nào. Sự kiện lịch sử quan trọng ấy được ghi
khắc khơng chỉ trong trí nhớ mà cịn khắc sâu trong trái tim của bao người yêu thơ. Đó là
sức mạnh của “một tiếng nói u thương ln ln chan hịa ánh sáng” (Hồi Thanh)
trong ngịi bút trữ tình - chính trị của Tố Hữu.
Có nhà phê bình từng nhận định “Người Tố Hữu là một thi sĩ, một chiến sĩ nhưng
chúng ta đừng quên cốt cách của nó là thi sĩ”. Tâm hồn của một thi sĩ làm cách mạng đã
khiến cho những điều khô khan, cứng nhắc cũng trở nên mềm mại trong thơ. Chẳng thế
mà,Tố Hữu đã thi vị hóa mối quan hệ quân - dân trở nên gần gũi, cởi mở và chân thành

biết mấy. Vốn dĩ, cách xưng hơ “mình – ta” đã rất quen thuộc trong đời sống người dân
lao động xưa, trong đối đáp giao duyên hay trong thơ ca dân gian. Ta dễ dàng bắt gặp
những câu ca dao ngọt ngào say đắm: “ Mình về ta chẳng cho về - ta nắm vạt áo, ta đề
câu thơ”. Hay “Mình về có nhớ ta chăng – Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”. Ở đây, Tố
Hữu thay lời bộ đội miền xi thân mật xưng hơ “ta-mình” với đồng bào Việt Bắc, khiến
tình cảm qn dân càng thêm khăng khít, mặn nồng.
Đoạn thơ là lời đáp lại tình cảm của người đi với người ở lại. Đồng bào Việt Bắc
vì nhớ nhung, lo lắng mà gặng hỏi người về xuôi có cịn nhớ những ngày “ Mưa nguồn
|

12


suối lũ những mây cùng mù?”. Đáp lại tình cảm sâu nặng ấy, người ra đi đã bộc lộ sự
thủy chung son sắt như một lời thề :
- Ta với mình, mình với ta
Lịng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Câu thơ điệp lại theo cấu trúc vòng tròn: “ta với mình” rồi lại “mình với ta” tạo
nên sự gắn bó quyện hịa như khơng thể tách rời, khơng gì chia cắt. Lại thêm câu khẳng
định tấm lịng, tình cảm trước sau như một của người ra đi, vẫn luôn “mặn mà đinh
ninh”, không bao giờ phai nhạt. Đọc câu thơ, ta ngỡ như đó là lời thề non hẹn biển của
đơi trai gái u nhau: “Thuyền về có nhớ bến chăng – Bến thì một dạ khăng khăng đợi
thuyền”. Hẳn rằng lời khẳng định chân thành ấy của bộ đội miền xi đã làm ấm lịng
người ở lại.
Dường như ngần ấy chưa đủ để nói hết những lưu luyến nhớ nhung của người ra
đi dành cho mảnh đất và con người Việt Bắc. Mười lăm năm gắn bó chứ đâu phải một
sớm một chiều, tất cả như còn vẹn ngun trong tâm trí người ra đi:
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Lúc này đại từ “mình” được sử dụng để chỉ cho cả hai đối tượng, “mình” là bộ đội

miền xi hay “mình” cũng chính là người Việt Bắc. Dường như cảm xúc nhớ nhung
dâng trào đến độ “ta – mình” đã hịa vào một, ta là mình và mình là ta. Đến đây, độc giả
lại bắt gặp một tứ trong ca dao xưa “Qua đình ngả nón trơng đình – Đình bao nhiêu ngói
thương mình bấy nhiêu”. Cách ví von “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” vừa
thân thuộc vừa mang đặc trưng lối nói của người vùng cao Việt Bắc : tình nghĩa con
người được ví với nước trong nguồn – một biểu tượng của thiên nhiên vô tận, vĩnh hằng.
Câu thơ vừa thể hiện nỗi nhớ, đồng thời cũng thể hiện tấm lòng biết ơn sâu nặng của
người cán bộ miền xuôi đối với Việt Bắc, nơi đã che chở, nuôi dưỡng cách mạng từ
trong trứng nước!
Nỗi nhớ được cụ thể hóa qua khơng gian, thời gian:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Tố Hữu đã lấy thước đo giá trị của nỗi nhớ trong tình yêu để cắt nghĩa, lý giải cho tình
cảm của người chiến sĩ miền xuôi với đồng bào Việt Bắc. Đó khơng phải là nỗi nhớ của
ý thức, của lí trí lạnh lùng mà là nỗi nhớ hằn in trong trái tim của người ra đi như nỗi
nhớ “người yêu” – một nỗi nhớ da diết, cồn cào, mãnh liệt. Câu thơ có từ để hỏi “nhớ
gì” vừa thể hiện sự ngỡ ngàng về một hiện thực trong trái tim mình, dường như bản thân
người đi cũng thực sự bất ngờ bởi nỗi nhớ đằm sâu mãnh liệt đến thế, vừa như khẳng
định sự hiện hữu một tình cảm đặc biệt dành cho Việt Bắc trong trái tim mình. Thật đáng
trân trọng!
|

13


Trong xúc cảm của một tình yêu nồng nàn, khung cảnh thiên nhiên lãng mạn mở
ra “ Trăng lên đầu núi – nắng chiều lưng nương.” Một câu thơ phác họa hai thời điểm
khác nhau: vế đầu là hình ảnh gợi tả khơng gian hị hẹn lãng mạn với ánh trăng vừa hé lộ
dịu dàng e ấp, tình tứ; vế sau là hình ảnh gợi khơng gian của buổi chiều lao động trên
nương rẫy, những tia nắng còn trải vàng trên lưng chừng núi. Dường như, những khoảnh

khắc đẹp như tranh vẽ ấy đã lí giải tại sao nỗi nhớ đồng bào trong lòng người đi lại như
nỗi nhớ “người yêu”. Thiên nhiên và hình ảnh cuộc sống lao động của con người nơi đây
thật khiến lòng người xao xuyến, đắm say!
Và như một cuốn phim quay chậm, những hình ảnh thân thuộc hiện về nguyên
vẹn trong tâm trí người đi:
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngịi Thia sơng Ðáy, suối Lê vơi đầy
Kết thúc khổ thơ , tình cảm lại toả ra tràn ngập cả núi rừng Việt Bắc. Những kỷ
niệm chung và riêng đan xen nhau, lần lượt hiện ra rõ mồn một trong tâm trí của người
đi “từng bản khói cùng sương”, “từng rừng nứa bờ tre”... Nghệ thuật điệp từ “nhớ” nằm
trong cấu trúc điệp “nhớ từng”, kết hợp với biện pháp tu từ liệt kê những hình ảnh về
khơng gian sinh sống của đồng bào, nơi đi về ấm áp trong tình cảm gia đình, những địa
danh lịch sử người cán bộ đã từng đặt chân “Ngịi Thia, sơng Đáy, suối Lê…” làm cho
những kỷ niệm thân thương về những tháng ngày gian khổ mà kiên cường đấu tranh
chống giặc hiện lên tầng tầng lớp lớp, hết hình ảnh này, đến hình ảnh khác như suối
nguồn không bao giờ vơi cạn.
Nhà thơ Chế Lan Viên từng nói “Thơ Tố Hữu là thơ cách mạng, chứ khơng phải
thơ tình u, nhưng thơ anh là của một tình nhân, anh nói các vấn đề bằng trái tim của
một người say đắm. Cái sức mạnh lớn nhất của Tố Hữu là quả tim anh”. Điều này dễ
nhận thấy ở bài thơ Việt Bắc từ việc sử dụng thể thơ lục bát, ở cách đối đáp giao duyện
ngọt ngào thiết tha đến việc sử dụng linh hoạt, tài tình cặp đại từ nhân xưng “mình, ta”
nhịp nhàng sánh đơi để nói về tình cảm gắn bó giữa cán bộ với nhân dân. Chính lý tưởng
cộng sản là ngọn nguồn của mọi cảm hứng sáng tạo trong thơ Tố Hữu. Thơ ơng ln có
sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tình cảm yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội thuần túy với
một tình cảm cá nhân đằm thắm nhất. Nhờ thế, nhà thơ đã sáng tạo nên một thế giới
nghệ thuật độc đáo của thơ trữ tình chính trị, mang đậm đà bản sắc dân tộc và nâng nó
lên một trình độ mới.
Tóm lại, qua những lời thơ thủ thỉ tâm tình chân thành đằm thắm của người ra đi

với người ở lại trong đoạn thơ trên, ta không chỉ thấy những hồi ức đẹp đẽ về một Việt
Bắc thơ mộng nghĩa tình mà người đọc cịn cảm nhận một tình cảm cách mạng thiết tha,
sâu đậm trong tình quân dân cá nước. Đoạn thơ cũng tiêu biểu cho phong cách trữ tình |

14


chính trị của Tố Hữu, để lại dấu ấn khó phai trong lịng độc giả. Những vần thơ cũng
góp phần nhắc nhớ con người về lối sống ân nghĩa thủy chung, có được những ngày bình
n hạnh phúc, đừng vội quên những tháng ngày gian khổ đã qua! Phải chăng vì thế mà
thơ Tố Hữu bao giờ cũng mới, nó trở thành cách nhìn, thành nếp sống phổ biến của
những con người thời đại mới!”

Đề 7:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hịa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
(Trích: Việt Bắc – Tố Hữu)
Anh/chị hãy phân tích đoạn thơ trên. Từ đó nhận xét về sự kết hợp yếu tố nhạc và
họa trong thơ Tố Hữu.
BÀI LÀM
Tố Hữu là nhà thơ lớn, là cánh chim đầu đàn của nền thơ ca cách mạng Việt
Nam. Các tác phẩm của ông luôn in đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn,

mang tính trữ tình chính trị và đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. “Việt Bắc” là một trong
những sáng tác hay nhất của đời thơ Tố Hữu, là đỉnh cao của thơ kháng chiến chống
Pháp. Đó được xem như một bản tổng kết bằng thơ cuộc kháng chiến trường kì, gian
khổ mà anh dũng kiên cường. Cả bài thơ cũng là dòng chảy cảm xúc dạt dào, tha thiết về
nỗi nhớ Việt Bắc. Tiêu biểu trong bài thơ là những dòng kí ức về một bức tranh tứ bình
Việt Bắc thơ mộng, ân tình:
Ta về, mình có nhớ ta

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
|

15


Tố Hữu viết Việt Bắc nhân một sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc. Sau chiến
dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, tên giặc Pháp cuối cùng rời khỏi quê hương, cơ quan
trung ương chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về tiếp quản thủ đô sau mười lăm năm gắn
bó. Trong giờ phút chia tay đầy lưu luyến bịn rị, Tố Hữu đã viết bài thơ này. Mạch thơ
tn trào theo dịng hồi tưởng của nhà thơ về những năm tháng gắn bó với mảnh đất và
con người Việt Bắc. Nhớ về Việt Bắc, không chỉ là nỗi nhớ về những hi sinh, gian khổ
“bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng” mà còn là nỗi nhớ về một Việt Bắc đẹp như thơ,
làm say đắm lòng người.
Mở đầu đoạn thơ là câu hỏi tu từ. Nhưng hỏi chỉ là cái cớ để thể hiện tâm tư tình
cảm, nhấn mạnh nỗi nhớ da diết của người về Thủ đơ.
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Hai câu đầu là lời hỏi đáp của ta - người cán bộ kháng chiến về xuôi. Ta hỏi mình có nhớ
ta. Người cách mạng về xi hỏi người Việt Bắc để bộc lộ tâm trạng của mình là dù có ở
nơi xa xơi , dù có xa cách nhưng lịng ta vẫn gắn bó với Việt Bắc. Chữ "ta" và "nhớ"
được điệp đi điệp lại nhiều lần vừa nhấn mạnh chủ thể nỗi nhớ, vừa khẳng định một tình

cảm nhớ nhung đang chế ngự, tràn ngập trong tâm hồn người đi. Nỗi nhớ hướng về
"những hoa cùng người" hướng về thiên nhiên , núi rừng và con người Việt Bắc. "Hoa"
là sự kết tinh của hương sắc, cịn "người" là bơng hoa đẹp nhất giữa núi rừng. Xét cho
cùng, "người ta là hoa của đất". Hoa và người đồng hiện càng tôn lên vẻ đẹp cho nhau,
khiến khơng gian trở nên hài hịa, lãng mạn.
Nỗi nhớ hiện về trong tấm trí người đi theo mạch trình tự bốn mùa, mỗi mùa là
một bức tranh đẹp tồn bích, mà khởi đầu là bức tranh Việt Bắc trong mùa đông:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Không gian mở ra trước mắt người đi không phải là cảnh rừng ảm đạm lạnh lẽo mà là
một cánh rừng xanh bạt ngàn vô tận. Trên tấm thảm xanh đầy sức sống ấy là sắc đỏ rực
rỡ, tươi tắn của những bơng chuối rừng. Sự hài hịa giữa hai màu sắc tương phản “xanhđỏ” khiến lòng người cảm thấy ấm áp trước cái lạnh lẽo kahức nghiệt của thời tiết nơi
rừng thiêng nước độc ấy.
Giữa không gian hoang vu mà thơ mộng, xuất hiện hình ảnh những con người lao
động khỏe khoắn cheo leo trên những đỉnh đèo “nắng ánh” với “dao gài thắt lưng”.
Những ánh nắng rực rỡ của ngày mới chiếu rọi vào những chiếc dao gài ở thắt lưng tạo
nên phản quang lấp lánh làm đẹp thêm hình ảnh những con người Việt Bắc chủ động, tự
tin giữa đại ngàn.
Bức tranh mùa xuân hiện ra cũng mang nét rất riêng của thiên nhiên nơi đây. Đó
là thời điểm mà cả cánh rừng mênh mơng ngập tràn sắc trắng tinh khôi của hoa mơ nở
rộ:
|

16


Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Cách sử dụng kết hợp từ “mơ nở trắng rừng” khiến người đọc liên tưởng đến sự
chuyển biến của màu sắc, đồng loạt và nhất thể như nhuộn trắng cả không gian, khác với

sắc trắng điểm xuyết khiêm nhường trong những câu thơ miêu tả cảnh ngày xuân của đại
thi hào Nguyễn Du “Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Xuân ở núi rừng Việt Bắc là
thế, thật riêng, thật ấn tượng.
Giữa cái nền trắng của hoa mơ ấy, nổi bật lên hình ảnh con người lao động cần
mẫn, dịu dàng: "chuốt từng sợi giang". Con người đẹp một cách tự nhiên trong công việc
hàng ngày. Động từ "chuốt" kết hợp với trợ từ "từng" đã thể hiện bàn tay khéo léo, tỉ mĩ,
và tài hoa của người lao động. Đó cũng chính là những phẩm chất tốt đẹp của con người
Việt Bắc hào hùng nhưng cũng rất hào hoa.
Nếu như bức tranh mùa đông và mùa xuân được nhà thơ cảm nhận bằng thị giác
thì sang đến bức tranh mùa hè các giác quan quan của nhà thơ được mở rộng để đón
nhận những điều thú vị tuyệt vời chỉ có ở Việt Bắc:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cơ em gái hái măng một mình
Âm vang của tiếng ve làm lá phách đổ vàng. Đó là thứ âm thanh quen thuộc của mùa
hè. Khi tiếng ve cất lên cả không gian như bừng thức, cả cánh rừng phách đột ngột “đổ
vàng”. Động từ “đổ” được sử dụng độc đáo, tạo liên tưởng thú vị về sự chuyển biến thật
nhanh, thật đột ngột của màu sắc khu rừng từ xuân sang hạ. Tưởng như tấm voan trắng
tinh khơi của mùa xn vừa đuwọc trút bỏ thì lập tức bà mẹ thiên nhiên đã khoác lên
cách rừng một tấm hoàng bào lộng lẫy kiêu sa. Cảnh tượng thật kì vĩ và ấn tượng vơ
cùng. Câu thơ có nét tương đồng với ý thơ "Một tiếng chim kêu sáng cả rừng" của
Khương Hữu Dụng. Chỉ với một câu thơ mà các tác giả đã gợi lên cả sự vận động của
thời gian, của cuộc sống.
Và trên cái nền vàng của rừng phách ấy, hiện lên hình ảnh thật đáng yêu làm cho
bức tranh thêm nên thơ, trữ tình. Đó là hình ảnh: "cơ em gái hái măng một mình". Một
mình đấy nhưng khơng hề cơ đơn. Dường như thiên nhiên và con người đã hòa làm một,
như bạn thân như tri kỉ, tôn lên vẻ đẹp của nhau thật hài hòa, thơ mộng: thiên nhiên đẹp
lộng lẫy, lung linh , và con người lao động thì thật dịu dàng, duyên dáng. Câu thơ khéo
léo bộc lộ tấm lòng yêu mến trân trọng lối sống giản dị, lặng thầm của những con người
Việt Bắc thân thương.
Khép lại đoạn thơ là bức tranh về mùa thu ở Việt Bắc:

Rừng thu trăng rọi hồ bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Có lẽ ấn tượng nhất trong nỗi nhớ về hoa và người Việt Bắc đó là những đêm
trăng thu yên bình, lãng mạn. Bức tranh thu khơng có hoa rừng khoe sắc, mà đó là màu
|

17


sắc dịu dàng, êm ái ánh trăng thu chiếu tỏa. Câu thơ mở ra một không gian tràn ngập ánh
trăng thanh bình soi chiếu khắp núi rừng chiến khu . Ánh trăng ấy không chỉ mang vẻ
đẹp tự nhiên mà nó cịn gắn với niềm xúc động của những con người từng trải qua bao
năm khốc liệt , gian khổ của chiến tranh . Và trong giây phút sống trong hịa bình ấy,
lịng người chợt nhớ đến “tiếng hát ân tình” ngân vang, tha thiết .Tiếng hát bộc lộ lịng
người, bộc lộ ân tình thuỷ chung , tình nghĩa của con người Việt Bắc với cách mạng,
với bộ đội miền xuôi. Tiếng hát cũng nhắc nhớ người ra đi đừng vội quên quá khứ nghĩa
tình suốt mười lăm năm gắn bó. Bức tranh mùa thu Việt Bắc đã làm hồn chỉnh bức
tranh tuyệt mỹ của núi rừng và khép lại đoạn thơ bằng tiếng hát "ân tình thủy chung" ấy
cịn gợi cho người về và cả người đọc những rung động sâu xa của tình yêu quê hương
đất nước.
Tố Hữu đã diễn tả nỗi nhớ gắn với hình ảnh của núi rừng và bốn mùa hoà chung
sắc màu đa dạng làm nên vẻ hấp dẫn cho bức tranh tứ bình bằng thơ có họa và nhạc về
hoa và người Việt Bắc. Đọc thơ ông, người đọc như được huy động tất cả các giác quan
để cảm nhận: Thị giác được chiêm ngưỡng những khoảnh khắc trong ngần của rừng mơ
mùa xn, sự chói chang huy hồng của rừng phách mùa hè, sự tươi tắn, ấm áp của hoa
chuối mùa đông. Thính giác lắng nghe âm thanh tiếng ve quen thuộc của mùa hè, lắng
nghe tiếng hát thân thương nghĩa tình của con người Việt Bắc và trái tim rung động biết
bao! Đó là thi trung hữu họa, thi trung hữu nhạc. Từng dòng thơ như ngân nga, như
khảm vẽ vào tâm trí người đọc vẻ đẹp của thiên nhiên, tình người. Thời gian trong đoạn
thơ được diễn tả tuần tự bốn mùa bắt đầu từ mùa đông và khép lại là mùa thu lịch sử,

mùa của thắng lợi tròn đầy, mùa của bình n lắng đọng, nhưng có một thứ bất biến,
khơng hề đổi thay, đó là nỗi nhớ, là tình yêu nhà thơ dành cho Việt Bắc. Thời gian trôi đi
càng làm nỗi nhớ thêm tha thiết, sâu lắng. Đó là tình u đích thực, rung động chân
thành của trái tim nhà thơ, cũng là mạch nguồn làm nên chất trữ tình chính trị sâu sắc và
tính dân tộc đậm đà ở mỗi vần thơ Tố Hữu.
Qua mười câu thơ tuyệt bút , bằng việc sử dụng cấu trúc đối đáp giao duyên “ta”“mình”, kết hợp với việc sử dụng những ngơn từ hình ảnh giàu sức gợi hình, gợi cảm mà
mộc mạc chân thành, nhà thơ đã làm nổi bật cảnh đẹp thiên nhiên bốn mùa ở núi rừng
trong sự hài hòa với cốt cách và tâm hồn người Việt Bắc. Qua đó, tác giả đặc biệt ngợi
ca vẻ đẹp trong tâm hồn con người Việt Bắc, ngợi ca tình nghĩa cách mạng thủy chung
gắn bó bằng tấm lòng trân trọng và biết ơn sâu nặng. Với việc sử dụng khéo léo, tài tình
ngơn ngữ dân tộc, Tố Hữu đã trữ tình hóa mối quan hệ chính trị,lãng mạn hóa khơng
gian kháng chiến khiến tình qn dân trở nên thi vị và đầy ấn tượng. Đoạn thơ góp phần
làm nên thành công của tác phẩm và đem đến cho người đọc ấn tượng thật đẹp về một
thời kì đau thương nhưng vĩ đại của dân tộc.
ĐẤT NƯỚC – Nguyễn Khoa Điềm
|

18


Đề 9:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay
kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng

Đất nước có từ ngày đó...
(Trích: Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm)
Anh/chị hãy phân tích đoạn thơ trên. Từ đó nhận xét về nét độc đáo trong ngịi bút
thơ Nguyễn Khoa Điềm.
BÀI LÀM
Q hương là gì hở mẹ
Mà cơ giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ
Mà ai đi xa cũng nhớ nhiều
Quê Hương, Đất Nước , hai tiếng giản đơn thân thuộc mà luôn chạm vào đáy sâu
tâm hồn con người mỗi khi nhắc đến. Mỗi vần thơ ngợi ca đất nước – quê hương đều
khiến trái tim ta ngân lên những giai điệu tự hào, phấn chấn. Đó là một đất nước mang
« hình tia chớp » trong thơ Trần Mạnh Hảo, một Đất nước bền gang bất khuất « rũ bùn
đứng dậy sáng lịa » trong thơ Nguyễn Đình Thi, một đất nước « Sống vững chãi bốn
ngàn năm sừng sững - Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa » trong cái nhìn của
Huy Cận. Có thể nói rằng , muốn viết những vần thơ tuyệt vời về Đất nước không chỉ
đơn thuần là nhà thơ biết rung động trước một vầng trăng, một tia nắng, một điệu dân ca
hay một tiếng thơ cổ điển... Mà trên hết, đó là một tình u chân thật, nồng nàn và một
ý thức tự tôn dân tộc, gắn sứ mệnh của mình với vận mệnh của non sông. Cùng viết về
đề tài này, ở đoạn thơ “Đất Nước” (trích trong chương V trường ca “Mặt đường khát
vọng”), Nguyễn Khoa Điềm đã chọn một lối đi riêng đem đến cho người đọc những trải
nghiệm mới mẻ, độc đáo trong cách lí giải về đất nước. Điều đó thể hiện rõ nét qua đoạn
thơ sau :
“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi

Đất Nước có từ ngày đó…”

|

19



Tác phẩm được trích từ Trường ca “Mặt đường khát vọng” viết năm 1971 tại
chiến khu Trị - Thiên giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đang ở giai đoạn
cam go, ác liệt nhất. Với giọng thơ thủ thỉ tâm tình vừa nồng nàn tha thiết vừa suy tư sâu
lắng, thi sĩ đã lí giải về Đất Nước thật giản dị, mộc mạc, gần gũi mà thú vị, đầy bất ngờ.
Từng dòng thơ như thức tỉnh ý thức trách nhiệm của thế hệ trẻ về tinh thần yêu nước,
sẵn sàng đứng dậy đấu tranh để bảo vệ tổ quốc.
Nếu hai tiếng « quê hương » gợi trong ta những xúc cảm dịu dàng, gợi về miền
nhớ miền thương với sự gần gũi quê mùa như những câu thơ đậm chất đồng nội của nhà
thơ Đỗ Trung Quân : Quê hương là chùm khế ngọt, Quê hương là vàng hoa bí/ Là hồng
tím giậu mồng tơi/ Là đỏ đơi bờ dâm bụt… thì hai từ Đất Nước lại gợi ra cái thâm
nghiêm, kì vĩ, cái hồnh tráng , kiêu hùng trong lịng người. Nhưng thật lạ kì khi ta bắt
gặp những vần thơ trong « Đất Nước » của Nguyễn Khoa Điềm, cái cảm giác gần gũi
thân thuộc của mùi rơm rạ, của sắc áo nông dân, của bờ tre giếng nước quê hương cứ ăm
ắp đầy lên, mơn man và dịu ngọt biết mấy.
Bằng giọng thơ thủ thỉ trò chuyện trong vai trò của lớp người anh đi trước,
Nguyễn Khoa Điềm đã khéo léo « giác ngộ » cho người em về ý thức trách nhiệm với
Đất Nước. Từng lời giải thích nhẹ nhàng tự nhiên như lời ăn tiếng nói thường ngày mà
gợi nhiều suy tư sâu lắng. Hẳn người em sẽ không cảm thấy nặng nề khó hiểu :
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Có lẽ em chưa hiểu rằng đất nước có từ bao giờ, hoặc cũng có thể câu hỏi đó là
điểm xuất phát mà Nguyễn Khoa Điềm chọn để bắt đầu cho một câu chuyện dài về Đất
Nước. Theo cách giải thích của Nguyễn Khoa Điềm thì “Đất nước là một giá trị lâu
bền, vĩnh hằng; đất nước được tạo dựng, được bồi đắp qua nhiều thế hệ, được truyền
nối từ đời này sang đời khác. Cho nên “khi ta lớn lên đất nước đã có rồi!” (Nguyễn
Khoa Điềm – Tác giả và Tác phẩm). Cách nói ấy đã thể hiện niềm tự hào mãnh liệt
về sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử. Đất Nước cũng như Trời và
Đất, khi ta sinh ra Đất đã ở dưới chân, Trời đã ở trên đầu. Hiểu Đất Nước phải đi từ cội
nguồn của bốn nghìn năm trước. Nhưng khác với tư duy thông thường, câu trả lời của

nhà thơ không phải là một mốc thời gian cụ thể nào mà đưa em vào không gian cổ xưa
huyền thoại, để rồi tự em sẽ cảm nhận được cả chiều dài lịch sử và bề dày của văn hóa
quê hương :
Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Các mốc thời gian hình thành nên Đất Nước như thời điểm ra đời, bắt đầu xây
dựng và lớn lên, tất cả đều được nhà thơ hình ảnh hóa, cổ tích hóa bởi những thứ thật
gần gũi, thân thương. Tác giả mượn chất liệu văn học dân gian để giải thích sự ra đời
của Đất Nước bằng một cách diễn đạt thật lạ. «Đất Nước có trong những cái ngày xửa
ngày xưa mẹ thường hay kể ». Đối với trẻ thơ, Đất Nước thân thương qua lời kể “Ngày
xửa ngày xưa” của bà của mẹ…Có nghĩa là Đất Nước đã có từ lâu đời; Đất Nước có từ
|

20



×