Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Chớ dễ tính với thuốc "bổ não potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.39 KB, 6 trang )

Chớ dễ tính với thuốc "bổ
não"
Thuốc bổ thần kinh có tác dụng giảm mệt mỏi, tăng cư
ờng
sức khỏe, giúp ăn, ngủ được, tăng tập trung và giúp trí nh

tốt hơn. Tuy nhiên không thể vì đó là thuốc "bổ n
ão" mà
chúng ta lạm dụng. Và cũng không phải vì thuốc bổ

ngư
ời bệnh lại không quan tâm đến chống chỉ định trong
điều trị thiểu năng tuần hoàn não.
Dễ tính trong chẩn đoán
Thiểu năng tuần hoàn não là hiện tượng thiếu hụt lưu lư
ợng máu
tại não một cách có hồi phục đư
ợc biểu hiện bằng dấu hiệu mất
hoặc suy giảm chức năng não kéo dài dưới 1giờ mà thư
ờng gặp
là 2-15 phút. Đây là chứng bệnh khá thường gặp.
Biểu hiện của bệnh là bại yếu nửa ngư
ời, giảm hoặc mất sự phối
hợp điều hoà v
ận động, suy giảm thị lực, xuất hiện các dấu hiệu
như nhìn đôi, nuốt khó, nói ngọng kéo dài dư
ới 1giờ. Việc
chẩn đoán xác định thiếu máu não t
ạm thời hay thiểu năng tuần
hoàn não cần phải được khám xét cụ thể, tỉ mỉ. Tuy nhiên, vi
ệc


chẩn đoán chứng thiểu năng tuần hoàn não đang đư
ợc áp dụng
quá dễ dãi đến mức phổ cập. Nhiều khi, người b
ệnh chỉ than
phiền là đau đầu, mất ngủ đã đư
ợc cho ngay một chẩn đoán:
thiếu máu não.

Dễ dãi trong điều trị
Tuần hoàn não có đặc điểm là thay đ
ổi theo sự biến động của
huyết áp nhằm duy trì m
ột áp lực hằng định 100mmHg trong
mạch máu não. Hệ thống mạch này sẽ tự động giãn ra khi huy
ết
áp tụt và tự co lại khi huyết áp tăng. Cơ chế đư
ợc tự động điều
chỉnh khi huyết áp nằm trong khoảng 70-150mmHg hay n
ằm
trong giá trị 70% huyết áp ở những đối tư
ợng tăng huyết áp.
Nằm ngoài giá trị này, phản ứng điều chỉnh gi
ảm tác dụng, thậm
chí không còn tác dụng điều hoà. Vì th
ế, việc sử dụng những
thuốc can thiệp vào tuần hoàn não c
ần tính đến giới hạn tác dụng
của thuốc.
Những thuốc hay sử dụng trong lâm sàng đ
ể điều trị cho những

người bệnh chủ yếu dựa theo hai cơ chế: tăng cường tuần ho
àn
não và tăng cường vận chuyển ôxy cho não. Chúng có b
ản chất
là những thuốc giãn mạch nhằm tăng lưu lượng tuần ho
àn não
và các thuốc tăng trao đổi ôxy giữa máu và phổi, giữa máu v
à
mô, nhằm làm tăng khả năng hấp thụ ôxy của tế bào thần kinh.
Các thuốc thường dùng bao g
ồm: Nhóm cinnarizine (stugeron),
vinpocetin (cavinton), flunarizine (sibelium), ginko biloba
(tanakan), piracetam (nootropin) và nhóm meclofexonat
(lucidril), almitrine (duxil) Tuy nhiên có một điều lưu
ý là các
thuốc giãn mạch chỉ có tác dụng cải thiện lưu lượng tuần ho
àn
não khi và chỉ khi tình trạng các mạch máu bình thư
ờng. Nghĩa
là nếu mạch máu bị xơ cứng trầm trọng thì các thuốc n
ày không
hề có tác dụng.
Cần lưu ý là các thuốc có tác dụng cải thiện tuần hoàn n
ão
không nên được sử dụng quá dễ dãi theo quan ni
ệm không có
bệnh thì c
ũng chẳng sao. Sự thực, cần tuân theo những chỉ định
dược lý. Đối với những bệnh nhân thiếu máu não tạm thời th
ì

việc sử dụng thuốc tăng cường tuần hoàn não được coi là ch

định hàng đầu vì nó sẽ ngăn chặn tế bào bị tổn thương, nh
ững tế
bào mà khi đã bị tổn thương thì không có kh
ả năng tái tạo.
Ngoài những bệnh về thần kinh trung ương thì m
ột số bệnh khác
rất cần tới những thuốc này nh
ằm cải thiện sự hồi phục của tế
bào. Chúng bao gồm: nhiễm độc thần kinh ốc tai tiền đ
ình do
nhiễm độc kháng sinh trị bệnh lao như streptomycin, h
ội chứng
Meniere, suy như
ợc thần kinh, bệnh nhân sau đột qụy Tuy
nhiên, chúng ta không thể coi chúng như là một phương th
ức
"kê thêm" để bổ sung vào đơn thuốc cho những ngư
ời đau đầu,
mất ngủ chưa rõ nguyên nhân hay cho phòng ngừa.
Những chống chỉ định nghiêm ngặt
Không thể coi những thuốc làm tăng cường tuần ho
àn não là
những phương thuốc cứu cánh hay dự phòng. Bởi nó tuy l
à
thuốc bổ, đứng theo phương diện trị bệnh, nhưng
ở một khía
cạnh nào đó nó cũng có những chống chỉ định nghiêm ngặt.
Cinnarizine và flunarizine đều là nh

ững hoạt chất ức chế
histamin và có tác dụng ức chế canxi. Chính vì th
ế chúng có tác
dụng giãn mạch, đặc biệt là những mạch nhỏ của não. Nh
ưng nó
lại gây ra buồn ngủ không cưỡng được và gây ra tri
ệu chứng rối
loạn vận động tự động (như run tay, tăng phản xạ, giật cục ) m
à
y học gọi là ngoại tháp, gây ra trầm cảm. Vì v
ậy những thuốc
này không được sử dụng ở những ngư
ời phải điều khiển giao
thông, những bệnh nhân có triệu chứng ngoại tháp như b
ệnh
Parkinson, những bệnh nhân bị bệnh tâm thần kiểu trầm cảm.
Những thử nghiệm trên đ
ộng vật cho thấy dịch chiết ginko có
khả năng gây quái thai và có thể gây chết lưu thai. Vì v
ậy, ginko
được chống chỉ định cho phụ nữ có thai.
Tương tự, piracetam là một thuốc được coi như là thu
ốc có tác
dụng dưỡng chất trên hoạt động tâm thần, được cho là có c
ải
thiện với trí nhớ và khả năng học thuộc. Mặc dù cơ ch
ế thực sự
chưa rõ nhưng người ta giả thiết là do nó làm tăng ho
ạt động
tuần hoàn ở não và tăng t

ạo ra những chất trung gian thần kinh.
Tuy nhiên, thuốc này lại có kh
ả năng gây ra co giật ở những
bệnh nhân nhạy cảm nên nó tuyệt đối không đư
ợc sử dụng với
những bệnh nhân động kinh, những người mà tri
ệu chứng đau
đầu như là một yếu tố thường xuyên có.
Thế nên, không thể vì đó là thuốc "bổ" mà chúng ta nghi
ễm
nhiên sử d
ụng chúng, không quan tâm đến những chông chỉ định
trong điều trị

×