Tải bản đầy đủ (.pdf) (203 trang)

Thơ quê hương và những lời bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 203 trang )

1

PHAN HUY DŨNG

KẾT CẤU THƠ TRỮ TÌNH

Tai Lieu Chat Luong

(Nhìn từ góc độ loại hình)

1999


2


3

MỞ ĐẦU
Kết cấu là một phạm trù phổ quát cả trong đời sống xã hội lẫn trong
văn học. ở đâu có sự chế tác sản phẩm mới từ những vật liệu, chất liệu khác
nhau, ở đó người ta thấy vai trò của kết cấu. Trong xây dựng, kiến trúc, vai
trò của kết cấu càng nổi bật và dễ nhận ra. Không phải ngẫu nhiên mà thuật
ngữ kết cấu xuất hiện đầu tiên trong lĩnh vực hoạt động này của con người.
Sáng tác văn học, xét theo một phương diện nào đó cũng chính là kết cấu.
Trong một tác phẩm văn học bao giờ cũng có sự dung hợp, quyện hồ giữa
những yếu tố khác loại như tinh thần và vật chất, chủ quan và khách quan,
tĩnh tại và vận động, vơ hạn và hữu hạn... ở đó, chúng ta tìm thấy mối liên
hệ giữa các không gian khác nhau và điểm gặp gỡ của những thời gian
khác nhau. Chính kết cấu chứ khơng phải cái gì khác là phương tiện đảm
bảo cho những mối quan hệ và liên hệ đó trở thành hiện thực- những mối


quan hệ và liên hệ có thể giúp nhà văn phát biểu được cách cảm thụ, cách
nhìn cuộc sống, con người của mình một cách sáng rõ nhất theo kiểu của
nghệ thuật. Do tầm quan trọng của nó, vấn đề kết cấu của tác phẩm văn học
đã từ lâu dành được sự quan tâm chú ý đặc biệt của giới nghiên cứu. Người
ta đã nghiên cứu nó từ góc độ lý luận chung cũng như đã đi sâu nghiên cứu
kết cấu của từng thể loại. Tuy nhiên, trong khi đã có những khám phá rất
quan trọng về kết cấu của kịch, của tự sự (đặc biệt là của tiểu thuyết hiện
đại), việc nghiên cứu kết cấu thơ trữ tình vẫn cịn dừng bước trước khơng ít
vấn đề cơ bản. Cịn ít những cơng trình thể hiện một cái nhìn tồn diện về
kết cấu của thơ trữ tình mà ở đó có sự phối hợp nghiên cứu kết cấu thơ trữ
tình cả về mặt hình tượng lẫn mặt tổ chức văn bản, cũng như còn thiếu
những cơng trình khái qt về sự phát triển tiếp nối của các loại hình kết
cấu thơ trữ tình xuất hiện trong lịch sử văn học. Bởi vậy, nghiên cứu kết
cấu thơ trữ tình vẫn cịn là một cơng việc nhiều ý nghĩa, hứa hẹn nhiều
khám phá mới.
Nói một cách khái quát, kết cấu tác phẩm văn học là toàn bộ tổ chức
độc đáo, sinh động gợi cảm của tác phẩm dưới sự chi phối của một quan


4
niệm nghệ thuật nhất định. Đề cập vấn đề kết cấu, lẽ dĩ nhiên là phải đề cập
hàng loạt yếu tố kết cấu từ nhỏ đến lớn như câu, đoạn, mở đầu, kết thúc,
hình tượng, cốt truyện... và các nguyên tắc, các quy luật liên kết những yếu
tố đó. Nói cách khác, khi nghiên cứu kết cấu, ta phải nghiên cứu hệ thống
tồn bộ phương diện hình thức của tác phẩm văn học (tất nhiên là trong
mối liên hệ với nội dung). Lâu nay, ở nước ta, các nghiên cứu cịn nghiêng
về phía khám phá phương diện nội dung của văn học, cịn phương diện
hình thức được đề cập tương đối ít . Thêm nữa, đơi khi sự nghiên cứu về
hình thức vẫn chưa thốt khỏi sự khống chế của quan niệm cho rằng nó chỉ
là cái bình chứa, là chiếc áo khốc ngồi của nội dung, có thể ngay chính

lúc người ta khơng ngớt nói về mối quan hệ biện chứng giữa hai phạm trù
này. Đặt vấn đề nghiên cứu kết cấu thơ trữ tình ở đây chính là nhằm mục
đích góp phần vào việc khắc phục những bất cập vừa nói, tiến tới xây dựng
một cách nhìn hiện đại hơn về hình thức văn học, phá bỏ quan niệm nhị
phân hình thức và nội dung tồn tại quá lâu dài của thi pháp học truyền
thống. Rõ ràng, đã đến lúc những nghiên cứu về hình thức thơ trữ tình theo
quan niệm của thi pháp học hiện đại cần phải được đẩy mạnh, song song
với những nghiên cứu thơ trữ tình trên bình diện tư tưởng, bình diện ý thức
hệ, và trong khi nghiên cứu hình thức thơ trữ tình, khái niệm kết cấu thơ trữ
tình lẽ dĩ nhiên phải được xem là một khái niệm trung tâm, một khái niệm
có khả năng lý giải được tính độc đáo và ý nghĩa cách tân thi pháp của
nhiều hiện tượng thơ trong lịch sử văn học.
Hiện nay, văn học Việt Nam nói chung và thơ trữ tình Việt Nam nói
riêng đang đứng trước một thời kỳ phát triển mới. Yêu cầu đổi mới cái
nhìn, cách cảm xúc và hình thức thể hiện được đặt ra một cách riết róng.
Những tìm tịi được mở ra nhiều hướng, nhưng vì có lẽ chưa có điều kiện
đẩy tới độ cần thiết mà thành quả xem ra có vẻ dở dang, bừa bộn. Từ đây,
người sáng tác và người nghiên cứu có nhu cầu soi ngắm lại các thành tựu
văn học đã có, đánh giá chúng một cách toàn diện, mong rút ra những bài
học có ý nghĩa cho sự phát triển, đổi mới . Đặt vấn đề nghiên cứu kết cấu


5
thơ trữ tình (nhìn từ góc độ loại hình và gắn liền với việc đánh giá cuộc
cách tân về hình thức nghệ thuật của phong trào Thơ mới 1932 - 1945) vào
lúc này là một việc làm khơng chỉ có ý nghĩa lý luận mà cịn có ý nghĩa
thực tiễn. ít nhất nó cho thấy những thể nghiệm mới về thơ bây giờ đang
xuất phát từ truyền thống nào. Nó cũng chỉ rõ con đường phát triển của thơ
là con đường của sự phủ định biện chứng đối với những hệ thống thi pháp
cũ đã từng đóng một vai trị tích cực trong lịch sử văn học. Bao trùm hơn,

nó có ý nghĩa nêu thêm những tiêu chí đánh giá mới đối với các loại hình
thơ: dù thế nào cũng khơng thể bỏ qua tiêu chí kết cấu (với tồn bộ tính
chất sâu sắc và phức tạp của nó).
Trong các cơng trình nghiên cứu lý luận hiện đại về thơ ca, vấn đề
kết cấu thơ trữ tình rất được chú ý đề cập. Có sự chú ý đó bởi theo một cái
nhìn chung thơng thường, một trong những yếu tố cơ bản quy định tính đặc
thù của một thể loại văn học là đặc điểm kết cấu của nó. Khơng nghiên cứu
kết cấu thể loại thì cũng gần như là chưa bắt đầu nghiên cứu bản thân thể
loại đó. Nhưng kết cấu là một phạm trù rất rộng, có khi được nhìn nhận như
là tồn bộ đặc điểm hình thức của một thể loại, có khi lại được đánh đồng
với một số thủ pháp tổ chức tác phẩm, lại có khi được nghiên cứu như một
cấu trúc ổn định, bất biến của một thể loại hay loại hình sáng tác nào
đó. Những kết quả nghiên cứu khác nhau về kết cấu có mối quan hệ hữu cơ
với những quan niệm không hẳn giống nhau về văn học, về thơ ca. Nhiều
khi chúng là những điều được rút ra từ việc khẳng định, đề cao một mẫu
hình sáng tác nhất định xuất hiện trong lịch sử tiến hố khơng ngừng của
hình thức nghệ thuật.
Trong nền lý luận văn học cổ điển Trung Hoa khó tìm thấy một cơng
trình nào tập trung bàn về kết cấu thơ trữ tình. Nhưng nếu tổng hợp các ý
kiến được phát biểu rải rác đây đó (nhiều nhất là trong các thi thoại), có thể
thấy, người xưa đã tìm hiểu khá kỹ các nguyên tắc tổ chức một tác phẩm thơ
trữ tình, đặc biệt là chương pháp thơ Đường luật. Các khái niệm khai, thừa,
chuyển, hợp hay tiền giải, hậu giải trở thành những khái niệm cơng cụ rất có


6
ý nghĩa đối với việc phân tích, thưởng thức thơ luật. Thậm chí, người xưa
cịn đi sâu tìm hiểu cách tổ chức thơ Đường luật ở các biến thể của nó như
hồi văn, điệp tự, bằng trắc lưỡng vận, thủ vĩ ngâm, bình đầu… Họ cũng đã
có ý thức nhận diện cách tổ chức riêng biệt của một số bài thơ trữ tình thuộc

những đề tài như vịnh sử, vịnh vật, nghĩ tác, đại tác… Ngồi ra, người xưa
cịn rất chú ý tìm hiểu những vấn đề khác thuộc phạm trù kết cấu như vần,
đối ngẫu, thanh điệu, mối quan hệ giữa câu với câu, giữa câu với cả bài, vai
trò của câu mở đầu và câu kết thúc… Tuy nhiên, có thể nói những kết quả
nghiên cứu nêu trên vẫn chỉ mới dừng lại ở kết cấu bề mặt, dừng lại ở những
kiểu tổ chức thơ trữ tình có tính chất kỹ thuật thuần tuý hoặc quy phạm. Đặc
biệt, vấn đề loại hình lịch sử của kết cấu hồn toàn chưa được người xưa
nghĩ tới.
Những nhà nghiên cứu ngữ văn học thuộc trường phái hình thức Nga
vào đầu thế kỷ XX đã có những khám phá quan trọng về kết cấu của thơ trữ
tình. Tồn bộ những hiện tượng xác định tính đặc thù của thơ trong sự phân
biệt với văn xi như âm luật, vần, những hình thức cố định (như sonnet,
triolet, rondeau...) đã được khảo sát, toàn bộ những đơn vị cấu thành một bài
thơ như câu thơ, đoạn thơ đã được mổ xẻ tường tận, tường tận tới mức để
bàn về câu thơ chẳng hạn, R. Jakobson đã đưa ra bốn thuật ngữ khác nhau
nhưng có quan hệ tương liên: mơ hình thơ, ví dụ về câu thơ, mơ hình thực
hiện, ví dụ thực hiện 1. Đặc biệt, các nhà Hình thức chủ nghĩa Nga đã rất chú
ý nghiên cứu các mối quan hệ trong bài thơ, đã đi sâu vào nghiên cứu nhịp
điệu như là cái cơ sở có tính chất xây dựng của thơ,và từ đó mở rộng khái
niệm nhịp điệu đến một loạt yếu tố ngôn ngữ tham dự vào việc cấu tạo câu
thơ, đoạn thơ, bài thơ 2. Trong cơng trình Kết cấu những tác phẩm thơ trữ
tình (1921), V. Zhirmunski đi sâu khảo sát các thủ pháp kết cấu đã trở thành
điển phạm trong nghệ thuật trữ tình và đề xuất cách phân loại chúng theo các
tiêu chí như đề tài, hình thức kết cấu, phương thức biểu đạt, truyền đạt. Ông
1

O. Ducrot, T. Todorov, Từ điển bách khoa về các khoa học ngôn ngữ, Viện Thông tin KHXH dịch và
phát hành, HN, 1977.
2
B. Eikhenbaum, Lý luận về “phương pháp hình thức”, V.C. dịch, TCVH 4/1997, 64 – 73.



7
cho rằng sự xuất hiện của một loạt thủ pháp kết cấu ít nhiều xác định kia là
kết quả của những nỗ lực muốn đạt tới sự hồn thiện hình thức của tác
phẩm1. Nhìn chung, những nghiên cứu về kết cấu thơ trữ tình của trường
phái hình thức Nga cịn nghiêng về phía ngơn ngữ học, và ở đây, ta vẫn thấy
thiếu những cơng trình bao qt, trong khi số lượng cơng trình nghiên cứu
từng mặt, từng cấp độ của kết cấu thì rất phong phú. Sự thiếu bao quát đó,
xét cho cùng, có lẽ là hệ quả của định hướng nghiên cứu gạt ra bên ngoài
những sự kiện thuộc về lịch sử văn hoá hoặc đời sống xã hội và tâm lý, chỉ
coi trọng tính độc lập, tự chủ của văn bản. Hiển nhiên, một quan điểm
nghiên cứu như thế là cực đoan và phiến diện, bởi trên vấn đề được bàn ở
đây, thơ không phải là một hiện tượng thuần tuý ngôn ngữ mà chủ yếu là
một phát ngôn, một mặt mang những thông điệp hướng ra bên ngoài và kêu
gọi sự đối thoại, mặt khác, bao giờ cũng xuất hiện trên nền một bối cảnh,
một truyền thống nào đó.
Trong số những cơng trình nghiên cứu về thơ theo quan niệm ( của
chủ nghĩa cấu trúc hay quan điểm cấu trúc luân?-ái) cấu trúc chủ nghĩa, bài
viết "Những con mèo" của Ch. Baudelaire của hai tác giả R. Jakobson và L.
Strauss (1962) có một vị trí đặc biệt. Có thể xem đây là một ví dụ điển hình
của việc phân tích chức năng thơ (fonction ptique) của ngơn ngữ và
làm sáng tỏ cấu trúc hình thức của thơ ca. Các mơ hình âm luật, cú pháp, các
quan hệ song hành, đối chọi của bài thơ đã được hai nhà nghiên cứu mổ xẻ
một cách tỉ mỉ 2. Tuy nhiên, theo cảm nhận của nhiều người (trong đó có các
nhà cấu trúc chủ nghĩa) một sự phân tích như thế cịn chứa đựng khơng ít
điều khiên cưỡng (như sự mặc nhiên thừa nhận nhân tố thi pháp giống đực
trong thi luật học lại có một hàm nghĩa tính dục nào đó ...), đặc biệt là chưa
chú ý đúng mức tới ý nghĩa của bài thơ 3. Từ ví dụ cụ thể về việc phân tích
kết cấu một bài thơ trữ tình như thế, có thể nhận diện được phần nào khuynh


1

Theo lược thuật của V. Ivanisenko trong Thơ ca, cuộc sống và con người, NXB Nhà văn Xô viết, M.,
1962 (tiếng Nga).
2
R. Jakobson – Lévi Strauss, “Những con mèo” của Charles Baudelaire, MH và TBĐ dịch, TCVH
7/1997, 69- 75.
3
Chủ nghĩa cấu trúc: “ủng hộ” và “phản đối”, NXB Tiến bộ, M., 1975 (tiếng Nga).


8
hướng nghiên cứu thơ (cũng như văn học nói chung) của trường phái cấu
trúc là đánh đồng những quy luật của thơ ca, của văn học với những quy luật
của ngơn ngữ, để trên cơ sở đó áp dụng những phương pháp chính xác vào
nghiên cứu hình tượng và dường như có tham vọng "đo lường hình tượng
bằng con số". ở đây cách nghiên cứu đồng đại đã đóng vai trò chủ chốt, một
mặt cho phép đi rất sâu vào những cắt đoạn của một hệ thống, nhưng mặt
khác, đã hạn chế những khám phá về chức năng của hệ thống, do vậy, chưa
thể xem là một cách phân tích tác phẩm thơ (một kết cấu, một hệ thống)
hoàn toàn hữu hiệu.
Năm 1973, nhà ngữ văn học thuộc trường phái cấu trúc ký hiệu học
Xô viết là Ju. Lotman cho ra đời cuốn Phân tích văn bản thơ. Trong tác
phẩm này, Ju. Lotman quán triệt quan điểm nghiên cứu văn bản thơ như
một kết cấu, một ký hiệu văn hoá hồn chỉnh có tính chất đa mã. Theo đó,
một sự phân tích tĩnh tại, cơ lập các thành tố của hệ thống và sự bỏ qua
những hình thái trước đây của chúng là khơng có triển vọng, khơng dẫn tới
sự khám phá ra ý nghĩa nghĩa đích thực của bản thân từng thành tố.
Ju. Lotman cũng dành những chương mục riêng cho việc nghiên cứu các

thành tố tổ chức của văn bản thơ như từ, dòng thơ, đoạn thơ, "từ xa lạ"...
nhưng với ý thức thường xuyên đưa chúng vào trạng thái đối lập, chẳng
hạn đối lập nghĩa của từ trong từ điển với nghĩa của từ trong thơ, đối lập
nghĩa của dòng thơ trong tư cách một tập hợp của nhiều từ hướng tới chức
năng thơng tin bình thường với nghĩa của dòng thơ trong tư cách siêu nghĩa
(như là nghĩa của một từ được cấu tạo đặc biệt) hướng tới chức năng thông
tin thẩm mỹ... Thao tác đối lập này sẽ giúp cho nhà nghiên cứu một mặt
khảo sát được kỹ lưỡng từng thành tố mang nghĩa cơ bản nhất của một kết
cấu (với những dấu hiệu riêng biệt của nó), mặt khác phát hiện ra được
nguyên tắc kết hợp của chúng vào những thành tố mang nghĩa phức tạp,
tồn diện hơn, từ đó nhìn ra cách mơ hình thế giới (cách hay các? Nếu cách
thì phải là cách mơ hình hố?-ái) của tác giả 1. Rõ ràng, bằng cơng trình
1

Iu. Lotman, Phân tich văn bản thơ ca, NXB Giáo dục, 1972 (tiếng Nga).


9
này, Ju. Lotman đã phác ra một quan niệm mới về kết cấu văn bản văn học
nói chung và kết cấu văn bản thơ nói riêng trên cơ sở chú ý mối quan hệ
giữa chủ quan và khách quan trong sáng tạo nghệ thuật cũng như sự chuyển
hoá tác phẩm của nhà văn trong ý thức độc giả với các hình thức và quy
luật của nó.
ở nước ta, trong mấy chục năm qua, đã có một số chuyên luận về thơ
ca ít nhiều đề cập vấn đề kết cấu thơ trữ tình của các tác giả Bùi Văn
Nguyên, Hà Minh Đức, Bùi Cơng Hùng, Nguyễn Phan Cảnh, Trần Đình Sử,
Hữu Đạt... Do các tác giả không nhằm nghiên cứu riêng về kết cấu nên các
kết luận khoa học về vấn đề này còn tản mạn, chưa nổi bật. ở Thơ ca Việt
Nam (hình thức và thể loại) (1965), kế thừa những kết quả nghiên cứu rất
đáng quý về hình thức thơ ca dân tộc trong những tác phẩm như Việt Hán

văn khảo (1918) của Phan Kế Bính, Quốc văn cụ thể (1932) của Bùi Kỷ,
Việt Nam văn học sử yếu (1943) của Dương Quảng Hàm..., Bùi Văn Nguyên
và Hà Minh Đức đã nghiên cứu khá tồn diện hình thức thơ ca trong văn
học Việt Nam cùng đặc trưng hình thức của các thể thơ tiếng Việt. Tuy
nhiên trong cuốn sách này, khái niệm kết cấu vẫn chưa được xem như một
khái niệm trung tâm của việc nghiên cứu hình thức thơ ca. Vẫn còn thấy
thiếu những ý kiến khái quát về các loại hình kết cấu (một hiện tượng bao
trùm, rộng hơn hiện tượng kết cấu của một thể thơ cụ thể), trong khi bức
tranh thể loại của từng thời kỳ văn học, cũng như kết cấu bề mặt của các thể
thơ (nhất là các thể thơ cổ) đã được miêu tả một cách tỉ mỉ, chi tiết 1.
Trong Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại (1974), Hà
Minh Đức đã bắt đầu đặt vấn đề tìm hiểu kết cấu thơ trữ tình một cách tồn
diện hơn. Trong chương IV và VI của cuốn sách, tác giả đã cố gắng chỉ ra
những mạch ngầm chi phối cách tổ chức tác phẩm thơ do liên tưởng, do
mạch cảm xúc, do tứ thơ tạo nên. Đặc biệt ở chương VII là chương bàn về
Hình thức của thơ, tác giả đã có một phần viết riêng về Kết cấu trong thơ trữ
tình. ở đó tác giả đã có những nhận xét khái quát rất cơ bản về vai trò của kết
1

Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức, Thơ ca Việt Nam - hình thức và thể loại, NXB KHXH, HN, 1971.


10
cấu trong thơ trữ tình cũng như đã phác qua mấy nét về vị trí của tứ thơ, của
điểm sáng thẩm mỹ (tâm điểm của cảm xúc) của cách mở đầu và kết thúc bài
thơ trong kết cấu. Tuy nhiên, một quan niệm thực sự tồn diện và có hệ
thống về kết cấu thơ trữ tình vẫn chưa được xây dựng 1.
Năm 1983, với cuốn Góp phần tìm hiểu nghệ thuật thơ ca, tác giả
Bùi Cơng Hùng có mong muốn tìm hiểu tồn bộ vấn đề kết cấu thơ (dựa
vào tư liệu thơ Việt Nam hiện đại) trên cơ sở áp dụng lý thuyết hệ thống và

phương pháp tổng hợp. Nhưng trên thực tế , kết quả nghiên cứu còn chênh
so với nhiệm vụ đề ra. Quả là tác giả đã liệt kê khá đầy đủ các thành tố cấu
trúc của tác phẩm thơ, đã bước đầu phân loại chúng và mô tả khá chi tiết
đặc điểm của chúng, nhưng sự thực ông chưa làm rõ được sự tương tác
giữa các yếu tố tạo nên hệ thống, chẳng hạn chưa làm rõ được hệ thống tư
tưởng chủ đề đã chi phối hệ thống hình tượng, hệ thống cấu tạo, hệ thống
ngôn ngữ như thế nào. ở chương III và IV dù tác giả thu hẹp diện khảo sát
vào Các thành phần của câu thơ và Câu thơ trong bài thơ, các mối liên hệ
giữa từ ngữ với nhịp điệu, vần, ngữ điệu vẫn chưa được làm rõ và chức
năng của câu thơ, đoạn thơ trong chỉnh thể của tác phẩm vẫn còn bị lướt
qua. Tuy vậy, khi đề cập những đặc trưng của nhịp điệu, vần, ngữ điệu, tác
giả đã nêu được một số luận điểm về sự liên kết các yếu tố cấu tạo trong
bài thơ nhờ vào nhịp điệu, vần và ngữ điệu ấy 2.
Dựa vào lý thuyết của R. Jakobson về chức năng thi ca của ngôn
ngữ, Nguyễn Phan Cảnh trong Ngôn ngữ thơ (1987) đã triển khai nghiên
cứu về thơ một cách khá toàn diện dưới góc độ ngơn ngữ. Khi quan sát
cách tổ chức kép các lượng ngữ nghĩa, sự lắp ghép, nhạc thơ, nét dư trong
ngôn ngữ thơ, vận động tạo vần v.v..., tác giả đã đưa ra một số ý kiến đáng
chú ý liên quan đến vấn đề kết cấu tác phẩm thơ: các phương tiện ngôn ngữ
phải được tổ chức theo cách nào để ngơn ngữ thơ có được chất thơ, để
“ngơn ngữ thành nghệ thuật" 3.
1

Hà Minh Đức, Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, NXB KHXH, HN, 1974.
Bùi Cơng Hùng, Góp phần tìm hiểu nghệ tuật thơ ca, NXB KHXH,HN, 1983.
3
Nguyễn Phan Cảnh, Ngôn ngữ thơ, NXB ĐH và GDCN, HN, 1987.
2



11
Trần Đình Sử trong một số chuyên luận như Thi pháp thơ Tố Hữu
(1987), Những thế giới nghệ thuật thơ (1995) đã khảo sát khá công phu đặc
điểm của các loại hình thơ xuất hiện trong lịch sử văn học. Tuy chưa đặt
vấn đề nghiên cứu riêng về kết cấu thơ trữ tình nhưng nhiều kết luận về các
loại hình thơ trong đó có khả năng gợi mở một cái nhìn mới về vấn đề kết
cấu, đặt kết cấu thành một phạm trù của thi pháp học lịch sử, gắn việc tìm
hiểu kết cấu thơ với việc tìm hiểu loại hình thơ 1.
Nhìn chung, chung quanh việc nghiên cứu kết cấu thơ trữ tình cịn có
một số vấn đề sau:
Khái niệm kết cấu và tiếp đó là khái niệm kết cấu thơ trữ tình chưa
có được sự phân biệt đúng mức với các khái niệm kề cận như cấu trúc, bố
cục, thủ pháp liên kết... Trong một số cơng trình nghiên cứu, nhiều khi các
khái niệm này được dùng như nhau. Chính sự thiếu phân hố đó tạo nên sự
nhùng nhằng nhất định trong một số kết quả nghiên cứu, chưa cho phép
người ta thực sự đi sâu vào vấn đề.
Kết cấu thơ trữ tình chưa được xem là một khái niệm trung tâm của
việc nghiên cứu hình thức thơ ca. Điều này ở mức độ nhất định dẫn đến
việc nhìn nhận khơng đúng mức vai trị của kết cấu, chưa làm rõ được các
thành tố, các cấp độ của kết cấu cùng những mối liên hệ giữa chúng. Sự
thực là việc khảo sát riêng biệt các thành tố, các cấp độ của kết cấu thơ trữ
tình như tứ thơ, nhịp, vần, câu thơ, khổ thơ... sẽ khó đi vào bề sâu, sẽ khó
vượt qua được giới hạn của sự phân tích ngơn ngữ học nếu tư duy người
nghiên cứu chưa nhận thức được đầy đủ về vai trò phối thuộc của chúng
trong một phạm trù bao quát hơn - phạm trù kết cấu thơ trữ tình .
Việc nghiên cứu loại hình kết cấu thơ trữ tình cịn chưa được chú ý
đúng mức. Kết cấu thơ trữ tình khơng chỉ là vấn đề của từng bài hay từng
thể loại cụ thể. Vả chăng, để nhận ra đặc sắc của kết cấu một bài, cần phải
đặt nó vào trong bối cảnh kết cấu của cả một loại hình thơ vốn là sản phẩm
1


Ttần Đình Sử, Thi pháp thơ Tố Hữu, NXB Tác phẩm mới, HN, 1987 và Những thế giới nghệ thật thơ,
NXB GD, HN,1995.


12
của một giai đoạn văn học, một trình độ tư duy văn học. Rõ ràng, ở đây,
phương pháp nghiên cứu của thi pháp học lịch sử vẫn cịn ít được vận
dụng.
Do có những vấn đề bị để ngỏ như trên, việc nghiên cứu kết cấu thơ
trữ tình vẫn cần phải được tiếp tục trên một quy mô lớn hơn và theo một
góc nhìn mới hơn.


13

Chương 1
Các Khái niệm cơ sở của nghiên cứu kết cấu thơ trữ tình
1.1 . Khái niệm kết cấu tác phẩm văn học
Khái niệm kết cấu tác phẩm văn học là một khái niệm cơ bản của
nghiên cứu văn học nói chung và của lý luận văn học nói riêng. Nó phản
ánh quy luật chỉnh thể của tác phẩm - đơn vị trung tâm của đời sống văn
học và là đối tượng nghiên cứu hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp của các bộ
mơn thuộc khoa nghiên cứu văn học. Chính vì vậy, hầu như trong tất cả các
bộ sách lý luận văn học và các cuốn từ điển thuật ngữ văn học, khái niệm
kết cấu tác phẩm văn học đã được luận giải khá kỹ lưỡng. Sau đây, xin đơn
cử một số giới thuyết mang tính chất giáo khoa thuộc loại tiêu biểu về khái
niệm này.
Từ điển bách khoa văn học của Viện hàn lâm khoa học Liên Xô, xuất
bản năm 1987 viết: "Kết cấu (từ tiếng Latinh compositio có nghĩa là sự sắp

xếp, sự liên kết), là sự xếp đặt và phân bố các yếu tố của hình thức tác
phẩm nghệ thuật, nói đúng hơn, là sự tổ chức tác phẩm trong một nội dung
và thể loại xác định (...). Kết cấu cố kết các yếu tố hình thức và chi phối ý
nghĩa của chúng. Các quy tắc kết cấu - đó là tổng số những tri thức mỹ học
phản ánh những mối liên hệ bên trong của thực tại. Kết cấu có một nội
dung ý nghĩa tự thân. Các phương thức và phương tiện kết cấu làm cải biến
và đào sâu ý nghĩa của sự mô tả (...). Kết cấu đưa lại cho tác phẩm sự hoàn
chỉnh, nhất quán và "sự hoàn mỹ của cái trật tự" (Horacius)"1. Trong đoạn
giới thuyết trên, có thể thấy rõ các vấn đề như những thành tố tham gia vào
kết cấu, chức năng và vai trò của kết cấu, các quy tắc kết cấu đã được đồng
thời đề cập.
Tiếp thu quan niệm về kết cấu được thể hiện trong các bộ sách như
Lý luận văn học của L.I. Timofeev, Dẫn luận nghiên cứu văn học của G.N.
1

Từ điển bách khoa văn học, “Bách khoa tồn thư xơ viết”, M., 1987, tr.164 (tiếng Nga).


14
Pospelov (chủ biên) v.v..., trong Lý luận văn học (giáo trình dành cho các
trường ĐHSP), Trần Đình Sử đã trình bày về kết cấu tác phẩm văn học qua
các tiểu mục như sau: 1) Kết cấu là toàn bộ tổ chức nghệ thuật sinh động
của tác phẩm; 2) Kết cấu là phương tiện khái quát nghệ thuật; 3) Các bình
diện và cấp độ kết cấu. Trong mục 3 này, tác giả đã chỉ rõ: "Khái niệm kết
cấu được mở rộng theo chiều ngang - được xem xét ở bình diện quy luật tổ
chức thể loại: kết cấu tự sự, kết cấu kịch, kết cấu trữ tình (...). Kết cấu cịn
được xem xét ở chiều dọc, tức là nghiên cứu mối quan hệ quy định và tùy
thuộc của các cấp độ tác phẩm như một chỉnh thể. Kết cấu tồn tại ở hai cấp
độ cơ bản: cấp độ hình tượng và cấp độ trần thuật" 1.
Để đi tới một nhận thức đầy đủ về kết cấu tác phẩm văn học, chúng

tôi nghĩ ngồi những điều đã được các sách trên nói tới, vẫn cần phải lưu ý
thêm vấn đề loại hình kết cấu. Trong các loại hình văn học khác nhau, việc
tổ chức tác phẩm được thực hiện theo những cách, những nguyên tắc khác
nhau. Nói cách khác, vấn đề kết cấu tuy phải xét trên đơn vị tác phẩm nhưng
nó không đơn giản chỉ là vấn đề của riêng tác phẩm, vấn đề của thể loại mà
còn là vấn đề của những loại hình sáng tác. Nếu khơng có ý thức rõ về điều
vừa nói, nhiều khi đi vào nghiên cứu, tìm hiểu kết cấu của một tác phẩm cụ
thể nào đó, ta sẽ khơng chỉ ra được những cách tân có thể có của nó trên
phương diện này, mà những cách tân như thế đơi khi có ý nghĩa báo hiệu cả
một thời đại văn học mới.
Khi tiến hành xác định khái niệm kết cấu tác phẩm văn học, thì theo
một logic tự nhiên, ta phải chú ý phân biệt khái niệm này với một số khái
niệm gần gũi, tương liên như bố cục, cấu trúc - những khái niệm đôi khi đã
được dùng để thay thế cho khái niệm kết cấu và ngược lại. Nhiều bộ sách
lý luận văn học và từ điển thuật ngữ văn học cũng đã ít nhiều chú ý vấn đề
này, ở đây xin được tổng hợp lại và làm rõ thêm một số điểm.
Bố cục thực ra chỉ là một biểu hiện của kết cấu trên bề mặt của tác
phẩm. Ta có thể dễ dàng nhận ra bố cục của tác phẩm căn cứ vào sự phân
1

Trần Đình Sử, Phương Lựu, Nguyễn Xuân Nam, Lý luận văn học, tập II, NXB GD, HN, 1987, tr.95.


15
chia chương, đoạn, phần, sự phân chia các khổ (đối với bài thơ) của tác giả.
Sự phân chia đó thường được thể hiện bằng những dấu hiệu có thể nhận
biết được bằng trực quan như số (chữ số La mã hoặc ả rập), dấu hoa thị,
những dòng để trống v.v... Những nghiên cứu về chương pháp trong lý
luận văn học cổ điển Trung Hoa và Việt Nam đã rất chú ý làm sáng rõ
phương diện này của kết cấu, tức bố cục. Trong Văn bản với tư cách đối

tượng nghiên cứu ngơn ngữ học, I.R. Galperin, khi nói tới cơ sở của tính
khả phân trong văn bản có nêu 4 điểm: 1) Quy mô các phần; 2) Thông tin
nội dung sự việc; 3) Mục đích thực tế của người tạo dựng văn bản; 4) Khả
năng chú ý đến đối tượng của con người trong một đơn vị thời gian1. Vận
dụng vào đây, có thể xem 4 điểm đó cũng chính là cơ sở của bố cục và là
những thông tin tối đa (đối với 3 điểm đầu) mà người đọc, người nghiên
cứu có thể tiếp nhận được thơng qua bố cục của tác phẩm (tất nhiên, thơng
tin về "mục đích thực tế của người tạo dựng văn bản" lúc này chỉ mới đạt
tới mức độ rất hạn chế). Như vậy, không thể đồng nhất bố cục với kết cấu.
Cấu trúc (structure) là khái niệm hay bị đồng nhất với khái niệm kết
cấu hơn cả. Thực ra, từ khi Chủ nghĩa cấu trúc kéo vấn đề kết cấu vào tầm
nhìn của mình thì khái niệm cấu trúc đã được cấp cho một nội hàm khá xác
định. Người ta dùng nó để chỉ những yếu tố và quan hệ hữu hạn, những liên
kết quen thuộc, phi cá tính trong tác phẩm văn học. Nó trở thành cơng cụ
hữu hiệu giúp các nhà nghiên cứu tìm ra cái bất biến trong những mối liên hệ
phức tạp giữa các yếu tố thuộc tác phẩm. Đặc biệt, nó có ý nghĩa đối với việc
tìm hiểu những sáng tác văn học dân gian và văn học trung đại (tức là những
sáng tác mà ở đó tính cơng thức và tính quy phạm nổi lên như một đặc trưng
thẩm mỹ quan trọng). Những cơng trình nghiên cứu có tiếng vang lớn của
V.Ja. Propp về hình thái học truyện cổ tích, của C. Lévi- Strauss về huyền
thoại đã chứng tỏ điều này. Thực tế vừa nêu cho thấy hiện nay việc phân biệt
hai khái niệm cấu trúc và kết cấu rất có ý nghĩa, rất cần thiết. Khái niệm kết
cấu rộng hơn khái niệm cấu trúc. Cấu trúc chỉ là phần ổn định, bất biến,
1

I.R. Galperin, Văn bản với tư cách là đối tượng của ngôn ngữ học, Hoàng Lộc dịch, NXB KHXH, HN,
1987, tr. 103.


16

vững bền của mối quan hệ giữa các yếu tố tham gia vào tổ chức tác phẩm.
Việc đánh đồng kết cấu với cấu trúc sẽ hạn chế khám phá của người nghiên
cứu về tính nghệ thuật sinh động của hình thức tác phẩm, không cho phép ta
cảm nhận được đầy đủ về tính tồn vẹn, đa dạng của nó. Sự thật thì ngay cả
khi sáng tác văn học chịu sự ràng buộc của những quy phạm thì giá trị của
sáng tác đó vẫn khơng thể bị đánh đồng vào một cấu trúc bất biến mang tính
phổ quát. Ví dụ, khi đi vào một bài thơ luật Đường tuyệt tác như bài Đăng
cao của Đỗ Phủ chẳng hạn, sự thẩm định giá trị của nó khơng thể chỉ dừng
lại ở việc ghi nhận về tính nhất khí, về cách khai, thừa, chuyển, kết, về đối
ngẫu... rất đúng phép theo đòi hỏi ngặt nghèo của thể thơ này. Dù sao, đó
mới chỉ là một phần (dù là phần khá quan trọng) làm nên cái hay của bài thơ
chứ chưa phải là tất cả bài thơ. Theo cái nhìn này, dễ dàng nhận thấy khám
phá của R. Ingarden về tính hai chiều, bốn tầng lớp của kết cấu tác phẩm văn
học thực ra mới chỉ hướng vào phương diện cấu trúc chung của tác phẩm mà
thơi.
Tóm lại, khái niệm kết cấu là một khái niệm thuộc phạm trù hình
thức của tác phẩm văn học. Tồn bộ các yếu tố thuộc về hình thức (tức là
các yếu tố biểu hiện nội dung có thể chỉ ra và phân tích được) nằm trong
hai nhóm gọi ước lệ là hình tượng và văn bản như hệ thống nhân vật, sự
kiện, không gian, thời gian, câu, đoạn, hệ thống điểm nhìn, mở đầu, kết
thúc v.v... đều tham gia vào kết cấu. Kết cấu đảm nhiệm vai trò tổ chức các
yếu tố trên thành một chỉnh thể theo phương thức: dùng một chuỗi phương
tiện ngôn từ kế tiếp nhau theo thời gian làm sống dậy thế giới hình tượng
trong mọi chiều kích và thiết lập một trật tự nghệ thuật cho nó. Cơ sở của
kết cấu là những khả năng to lớn, tiềm tàng của các phương tiện ngôn từ, là
quy luật thể loại và ý đồ nghệ thuật của nhà văn. Mục đích của kết cấu là
xây dựng nên một thế giới nghệ thuật bộc lộ rõ cảm quan của nhà văn về
đời sống, đồng thời vạch ra con đường giúp độc giả có thể theo đó mà nhận
ra ý nghĩa của thế giới nghệ thuật vừa được tạo nên và tự xác lập được một
cách nhìn đời mới theo gợi ý của tác giả. Trong kết cấu của mỗi một tác



17
phẩm văn học cụ thể có hai mặt gắn bó với nhau và chuyển hoá lẫn nhau.
Mặt thứ nhất là tính độc đáo, khơng lặp lại của những mối quan hệ và liên
kết giữa các yếu tố, bộc lộ tài năng sáng tạo của tác giả khi nhắm tới một
mục tiêu nghệ thuật nhất định. Mặt này sẽ tạo nên tính đơn nhất của tác
phẩm văn học. Mặt thứ hai là tính phổ biến của một kiểu tổ chức tác phẩm,
phản ánh đặc trưng thể loại, loại hình và phẩm chất dân tộc của chính tác
phẩm đó. Chính sự tồn tại của mặt thứ hai này trong kết cấu cho phép ta nói
tới các vấn đề như kết cấu thể loại, kết cấu của một loại hình sáng tác.
Khái niệm kết cấu được xác định như trên sẽ đặt cơ sở cho việc tìm
hiểu về khái niệm kết cấu thơ trữ tình - khái niệm cho phép ta tiến xa hơn
trong việc nắm bắt kiểu tổ chức nghệ thuật đặc thù của một thể loại văn học
quan trọng: thơ trữ tình.
1.2. Thơ trữ tình và kết cấu thơ trữ tình
1.2.1. Thơ trữ tình
Để tạo cơ sở cho việc xây dựng một khái niệm về thơ trữ tình và kết
cấu thơ trữ tình phù hợp với góc nhìn của chun luận này, trước hết xin đi
vào xác định một số yếu tố cơ bản tạo nên đặc trưng thể loại của thơ trữ
tình mà những nghiên cứu về thơ lâu nay không thể bỏ qua.
Cách nay khoảng 1.500 năm, trong Văn tâm điêu long, ở thiên Tình
thái, Lưu Hiệp đã đề xuất ba khái niệm quan trọng là hình văn, thanh văn và
tình văn có khả năng khái qt được ba phương diện cơ bản cấu thành nên
một bài thơ. Đến đời Đường, Bạch Cư Dị, trong Thư gửi Nguyên Chẩn đã đề
ra thuyết "cây thơ" nêu lên các yếu tố then chốt tạo thành điều kiện tồn tại
của thơ: "Cái cảm hố được lịng người chẳng gì trọng yếu bằng tình cảm,
chẳng gì đi trước được ngơn ngữ, chẳng gì gần gũi bằng âm thanh, chẳng gì
sâu sắc bằng ý nghĩa. Với thơ gốc là tình cảm, mầm lá là ngôn ngữ, hoa là
âm thanh, quả là ý nghĩa. Trên thì bậc thánh hiền, dưới là kẻ ngu si, nhỏ bé

như lợn cá, thần bí như quỷ thần, chủng loại bất đồng nhưng tinh thần tương
tự, hình trạng khác biệt nhưng tình cảm tương thơng, khơng một thứ gì nghe


18
được âm thanh mà không đáp ứng, không một thứ gì tiếp nhận được tình
cảm mà khơng rung động "1. Lý thuyết của Bạch Cư Dị có phần kế thừa
quan niệm của Lưu Hiệp. Nếu theo cái nhìn hiện đại thì có thể xem các yếu
tố tình (tình cảm), nghĩa (ý nghĩa) (cũng là yếu tố tình văn) tương đương với
phương diện nội dung của tác phẩm thơ, còn các yếu tố ngôn (ngôn ngữ)
(cũng là yếu tố tạo nên cái gọi là hình văn), thanh (âm thanh) (cũng là yếu tố
thanh văn) lại tương đương với phương diện hình thức. Nhưng điều đáng
chú ý là Bạch Cư Dị không chỉ dừng lại ở việc nêu lên các yếu tố cấu thành
tác phẩm mà còn chỉ ra mối quan hệ gắn bó giữa chúng, giống như gốc rễ,
mầm lá, hoa, quả gắn liền với nhau trong một "cây thơ" hoàn chỉnh và sống
động.
Nhà nghiên cứu người Hoa Lương Xuân Phương trong Cựu thi lược
luận đã giải thích cặn kẽ về lý thuyết thơ của Bạch Cư Dị như sau: "Cái gọi
là "Căn tình" đó chính là cái "nhân tâm" trong câu "Nhân tâm chi cảm vật"
của Chu Hy (bài tựa Kinh Thi), cũng là, vẫn theo Chu Hy cái "dục" do
nhân tâm cảm ứng với vật giới mà sinh ra, đó là nói chung tất cả những cái
tư tưởng, cảm tình, tưởng tượng trong đời sống nội giới con người. Mà cái
đối tượng làm cho con người cảm ứng ấy chẳng phải chỉ giới hạn ở hiện
tượng chính trị, luân lý, mà cịn tồn thể những gì tự nhiên hay nhân vi bao
quanh con người, tạo ra cái hoàn cảnh, đủ khiến cho nhà thơ rung cảm khởi
hứng. Cái gọi là "Miêu ngơn"đó tức cũng như bài tựa Kinh Thi nói: "Tại
tâm vi chí, phát ngơn vi thi". Cái gọi là "Hoa thanh" đó cũng tức như bài
tựa Kinh Thi nói: "Tình phát ư thanh, thanh thành văn", hoặc thêm nữa:
"Tất hữu tự nhiên chi âm hưởng tiết tấu". Sau hết, cái gọi là "Thực nghĩa"
đó cũng tựa như nay ta nói cái nội dung, mà nội dung đó khơng nhất định

chỉ là những ý khuyên răn, giáo huấn về chính trị, luân lý"2. Trong lời giải
thích trên, một mặt Lương Xuân Phương đã chỉ ra được nguồn mạch quan
niệm của Bạch Cư Dị, mặt khác, đã nói lên được tính chất tồn diện và cởi
mở của quan niệm này, nhưng ở một mức độ nào đó, nhà nghiên cứu đã hơi
1
2

Bạch Cư Dị, Thư gửi Nguyên Chẩn, Nguyễn Khắc Phi dịch, TCVH 5/1998, 71 – 80.
Lương Xuân Phương, Cựu thi lược luận, Phạm Thế Ngũ dịch và xuất bản, Sài Gòn, 1968.


19
hiện đại hoá hoặc đã mở rộng ý kiến của cổ nhân. Thực ra, cái mà Bạch Cư
Dị gọi là thực nghĩa trong thơ vẫn còn nằm trong vòng khống chế của quan
niệm Nho gia là thơ phải có chức năng giáo hố. Cũng như thế, cái gọi là
căn tình trong quan niệm của Bạch Cư Dị chưa phản ánh được hết khả
năng nội cảm hoá thế giới to lớn của cái tơi trữ tình, một khi như chính
Bạch Cư Dị đã nói rõ: "Chí của tơi là ở chỗ kiêm tế, hành của tôi là ở nơi
độc thiện. Giữ chí nguyện và hành động đó đến cùng là đạo, dùng lời để
nói rõ ra là thơ"1.
Dù sao, trong nền lý luận văn học cổ điển Trung Hoa, quan niệm về
thơ nói trên của Bạch Cư Dị thuộc loại tồn diện và sâu sắc nhất, đã cho ta
thấy những nỗ lực nhằm khái quát lại tất cả những gì tạo nên chất thơ của
một bài thơ.
Trong các cơng trình nghiên cứu của nhiều nhà Cấu trúc chủ nghĩa,
câu hỏi trực diện thơ là gì đã được thay thế bằng một câu hỏi khác: tính thơ
(pticité) là gì và nó được thể hiện ra như thế nào? Để trả lời được câu hỏi
mới này, tức cũng để xác định được đâu là "yếu tố xác định chủng loại" của
thơ, các nhà nghiên cứu hầu hết hướng sự tìm tịi vào đặc trưng cấu trúc
của ngôn ngữ thơ. Thao tác phổ biến của họ là phân biệt, đối lập ngôn ngữ

thông thường với ngơn ngữ mang tính thơ. R. Jakobson viết: "Nhưng tính
thơ được thể hiện ra như thế nào? Theo cái cách từ ngữ được cảm nhận như
là từ ngữ chứ không phải như vật thay thế đơn giản của đối tượng được chỉ
định, theo cách những từ, những cú pháp, những ngữ nghĩa của chúng, hình
thức bên trong và bên ngồi của chúng khơng phải là các dấu hiệu vơ hồn
của hiện thực mà cịn có trọng lượng riêng, giá trị riêng của chúng"2. Quan
niệm này của R. Jakobson cũng gần như trùng hợp với quan niệm của một
số nhà thơ, nhà văn khác như P. Valéry, A. Breton, J. P. Sartre khi họ đối
sánh ngôn ngữ văn xuôi (hay là văn xuôi) với ngôn ngữ thơ (hay là thơ)...
Tiếp tục triển khai lý thuyết về tính tự quy chiếu của ngơn ngữ thơ nói trên,
trong tiểu luận Ngơn ngữ và thi ca, R. Jakobson, sau khi nhắc lại về hai
1
2

Bạch Cư Dị, Thư gửi Nguyên Chẩn, Nguyễn Khắc Phi dịch, TCVH 5/1998, 71 – 80.
R. Jakobson, Thơ là gì?, Trịnh Bá Đĩnh dịch, TCVH 12/1996, 70 – 74.


20
kiểu sắp xếp (hay là thao tác) cơ bản của hoạt động ngôn ngữ là tuyển chọn
và kết hợp (điều đã được F.de Saussure phát hiện từ trước), đã có một kết
luận rất trọng yếu: "Chức năng thi ca đem nguyên lý tương đương của trục
tuyển lựa chiếu lên trục kết hợp". Hoạt động của nguyên lý tương đương
này (le principe d' équivalence đôi khi được dịch là "nguyên tắc đồng đẳng"
hoặc "nguyên tắc tương đồng") chủ yếu được R. Jakobson quan sát từ
phương diện âm vận. Ơng viết: "Tính tương đương được đề lên hàng biện
pháp cấu thành của mỗi chuỗi ngữ ngôn. Trong thơ mỗi âm tiết đều được
xác lập một quan hệ tương đương với tất cả các âm tiết khác nhau trong
chuỗi: mọi trọng âm từ đều được coi như bình đẳng với mọi trọng âm từ
khác; và cũng vậy, khơng có trọng âm thì ngang với khơng có trọng âm; dài

(về phương diện điệu tính) thì ngang với dài, ngắn thì ngang với
ngắn;
biên giới từ thì ngang với biên giới từ; khơng có biên giới từ thì ngang với
khơng có biên giới từ; chỗ ngừng cú pháp thì ngang với chỗ ngừng cú
pháp, khơng có chỗ ngừng thì ngang với khơng có chỗ ngừng. Các âm tiết
được biến thành những đơn vị đo lường, và đối với các more và các trọng
âm cũng vậy"1. Tuy nhiên, R. Jakobson cũng đã có chú ý ít nhiều tới
nguyên lý tương đương về phương diện ý nghĩa: "Đương nhiên câu thơ bao
giờ trước hết vẫn là một hình tượng âm thanh được láy lại; nhưng nó khơng
phải chỉ là thế. Nếu quy những ước lệ thi ca như khổ thơ, sự điệp âm, vần
thơ vào mỗi một bình diện âm thanh thì sẽ rơi vào tình trạng suy lý tư biện
một cách khơng hề có căn cứ kinh nghiệm. Việc chiếu nguyên lý tương
đương lên chuỗi kế tiếp có ý nghĩa rộng và sâu hơn nhiều. Cái cơng thức
của P. Valéry -"Bài thơ là một sự phân vân kéo dài giữa âm thanh và ý
nghĩa" có cơ sở thực tế hơn nhiều và có tính khoa học hơn nhiều so với mọi
hình thái của chủ nghĩa biệt lập ngữ âm học"2. Mặc dù đã có lưu ý tới hoạt
động của nguyên lý tương đương về mặt ý nghĩa, nhưng trong tư duy
nghiên cứu của R. Jakobson, cái ý nghĩa ở đây chỉ là ý nghĩa đối tượng gọi
1
2

R. Jakobson, Ngôn ngữ và thi ca, Cao Xuân Hạo dịch (tài liệu riêng của dịch giả, chưa in).
Tldd.


21
tên và ý nghĩa ngữ pháp nảy sinh từ những mối quan hệ giữa các thành tố
cấu trúc có tính chất khép kín của văn bản (texte), điều đó cũng có nghĩa là
khái niệm ý nghĩa đã được hiểu một cách hạn hẹp. Trong khi đó, như ta
thấy trong thực tế, để thực sự hiểu được hoạt động của nguyên lý tương

đương trong thơ trữ tình, nhiều khi người nghiên cứu phải vượt qua giới
hạn của văn bản hay tiến đến một cách đọc "liên văn bản" (intertextualité),
cách đọc đặt văn bản trong một truyền thống nhất định. Rõ ràng, trước
những hiện tượng phổ biến của thơ ca như điển cố hay ẩn dụ (trong trường
hợp giữa cái dụ thể và cái dụ chỉ chỉ có quan hệ hàm ẩn) thì dứt khốt sự
nghiên cứu phương diện ý nghĩa của nguyên lý tương đương phải được mở
rộng ra ngoài văn bản. Những điểm bất cập này trong lý thuyết về thơ của
R. Jakobson, cụ thể là lý thuyết về nguyên lý tương đương như nguyên tắc
tổ chức cơ bản của thơ đã được phân tích một cách khá thuyết phục bởi
Cao Hữu Công và Mai Tổ Lân trong cuốn Sức hấp dẫn của thơ Đường 1.
Trong tiểu luận Thơ là gì?, nhà nghiên cứu Phan Ngọc đã viết: "Thơ
là một cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận phải
nhớ, phải cảm xúc và phải suy nghĩ do chính hình thức ngơn ngữ này"2.
Nhìn chung, định nghĩa mang tính hình thức hố này đã giúp người ta nhận
diện được ngay thơ, đồng thời đã chú ý thích đáng tới những mối liên hệ rất
cơ bản giữa thơ với đời sống, giữa thơ với độc giả (tức là những mối liên
hệ vẫn thường bị các nhà cấu trúc chủ nghĩa bỏ qua), trong khi vẫn xem
văn bản là điểm xuất phát của mọi nghiên cứu về thơ. Với định nghĩa này,
tác giả đã kế thừa được những khám phá quan trọng về thơ của nhiều nhà
nghiên cứu thuộc các trường phái khác nhau ở Tây Âu trong mấy chục năm
qua (Chủ nghĩa hình thức Nga, Cấu trúc luận, Phê bình mới...), đặc biệt đã
gợi ra một trường nghiên cứu thơ rộng rãi: thơ không chỉ là một hiện tượng
ngôn ngữ học thuần tuý, biệt lập, tĩnh tại, mà chủ yếu là một hiện tượng
giao tiếp nghệ thuật, một phát ngôn trong ý nghĩa đầy đủ của từ này.
1

Xem: Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử (biên soạn, dịch thuật), Về thi pháp thơ Đường, NXB Đà Nẵng,
1997, tr. 493 – 495.
2
Phan Ngọc, Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học, NXB Trẻ, TP HCM, 1995, tr. 23.



22
Những nghiên cứu đã có về bản chất, cấu trúc của thơ là hết sức
phong phú. Chúng tôi mới chỉ điểm qua một ít quan niệm vào loại tiêu
biểu. Qua chúng, ta đã có thể có được một ý niệm khá đúng đắn và tồn
diện về thơ trữ tình. Tuy vậy, để vượt qua cái nhìn tĩnh tại và siêu hình về
đối tượng này, thiết tưởng phải chú ý nhiều hơn đến vai trị của thơ trữ tình
trong việc bộc lộ cái nhìn độc đáo mang tính lịch sử về chính bản thân
mình của chủ thể sáng tạo. Đây chính là điều chúng tơi muốn nhấn mạnh
khi đi vào tìm hiểu khái niệm thơ trữ tình.
Thơ trữ tình là một "loại hình" thơ mà tuyệt đại bộ phận là những tác
phẩm có dung lượng nhỏ, những bài có số câu khơng nhiều lắm mà các yếu
tố cấu tạo của nó được tổ chức một cách chặt chẽ dựa trên hoạt động của
nguyên lý tương đương. Do được tổ chức một cách chặt chẽ như vậy, từng
yếu tố cấu tạo dù nhỏ nhất như nguyên âm, phụ âm, thanh, vần, ngắt câu,
ngắt đoạn v.v.. cũng có một đặc thù khác với chính nó trong các tổ chức lời
nói của hoạt động giao tiếp bình thường và của văn xi, có thể trở thành
một đối tượng nghiên cứu chuyên biệt với đầy đủ hai mặt nội dung và hình
thức của mình.
Kiểu tổ chức hình thức như trên của thơ trữ tình khơng mang tính
ngẫu nhiên. Đó là một sự lựa chọn hình thức tuyệt đối phù hợp giúp thơ trữ
tình bộc lộ tốt nhất dưới dạng trực tiếp những xúc cảm, cảm nhận của nhân
vật trữ tình trước mọi hiện tượng đời sống, đặc biệt là những xúc cảm nồng
cháy đang ở giai đoạn cao trào - những xúc cảm mà cách biểu đạt bình
thường của văn xi khơng đáp ứng được cũng như một sự diễn tả thiếu cô
đọng sẽ xuyên tạc độ căng hay bản chất, tính chất của nó. Khi nói đến tính
chủ quan của thơ trữ tình, khái niệm cái tơi trữ tình cần được xem là khái
niệm trung tâm, có khả năng cắt nghĩa được chiều sâu quan niệm của chủ
thể về chính mình, tức là cái có ý nghĩa chi phối tính đặc thù của nội dung

và hình thức thơ trữ tình cùng các hình thái phát triển của nó trong lịch sử.
Đến với thơ trữ tình, người đọc có một tâm thế tiếp nhận đặc biệt:
xem tiếng nói trữ tình trong thơ cũng là tiếng nói trữ tình của mình. Khi sự


23
đồng nhất giữa nhân vật trữ tình và người đọc thơ đã được thực hiện, thế
giới thơ trữ tình bỗng thành một thế giới mở, hiểu theo nghĩa thời gian,
không gian được nhắc tới trong đó bỗng trở thành biểu trưng mà ý nghĩa
của chúng khơng cịn bị đóng khn trong những hình thái q cá biệt, cụ
thể nữa. Chính sự lạ lùng này trong hoạt động tiếp nhận thơ trữ tình đã
cung cấp bằng chứng cho ta khẳng định trở lại cái áp lực mạnh mẽ mà mơ
hình tổ chức ngôn ngữ thơ đã gây cho người đọc, khi nó biểu hiện những
cảm nhận của cái tơi trữ tình trong trạng thái đang diễn tiến.
Từ những sự xác định về khái niệm kết cấu tác phẩm văn học và khái
niệm thơ trữ tình như trên, ta đã có những điều kiện tối thiếu để đi vào nhận
diện những đặc thù của kết cấu một bài thơ trữ tình.
1.2.2. Kết cấu thơ trữ tình
L.I. Timofeev, trong Nguyên lý lý luận văn học, khi bàn về kết cấu
của tác phẩm văn học đã rất chú ý vai trò thể hiện nội dung của nó. Ơng
viết: "Bất cứ một tác phẩm nào cũng đều có một kết cấu nhất định, tức nó
được tổ chức một cách nhất định, dựa trên cơ sở tính chất phức tạp của
hồn cảnh sống được phản ánh trong đó và của sự nhận thức những mối
quan hệ, những nguyên nhân và kết quả của cuộc sống, sự nhận thức này
thuộc riêng nhà văn đó và nó quyết định những những nguyên tắc kết cấu
của nhà văn đó1. Nhưng đơn vị cơ bản nói lên "tính chất phức tạp của hồn
cảnh sống" đó là gì? L.I. Timofeev xác định đó là tính cách: "Trong thơ trữ
tình (cũng như nói chung trong văn học) cái được thể hiện trước hết là các
tính cách; điều đó giải thích tính chất bền vững của nó"2. Như vậy theo nhà
nghiên cứu, việc thể hiện tính cách vừa là một nhiệm vụ vừa là một phương

tiện phản ánh đời sống của mọi tác phẩm văn học, không chỉ gắn với những
tác phẩm tự sự, cụ thể là những tác phẩm có cốt truyện mà cịn gắn với cả
thơ trữ tình. Tuy nhiên, khi đi vào nghiên cứu kết cấu thơ trữ tình, khái
niệm tính cách cần được xác định một cách cụ thể hơn nữa. Chúng ta hồn
1
2

Timơphêep, Ngun lý lý luận văn học, tập I, NXB Văn hóa, Viện văn học, HN, 1962, tr. 269.
Timôphêep, Nguyên lý lý luận văn học, tập II, NXB Văn hoá, Viện Văn học, HN, 1962, tr. 167.


24
tồn có thể thay khái niệm tính cách bằng khái niệm cái tơi trữ tình bởi
khái niệm sau vừa có mặt tương đồng với khái niệm trước lại vừa phản ánh
được đặc trưng nội dung của loại thơ trữ tình là tính chủ quan cũng như
chiều sâu quan niệm của chủ thể trữ tình về bản thân được thể hiện trong
đó. Như vậy, nhìn bao qt, sự hình thành của kết cấu thơ trữ tình cũng
như bề rộng và chiều sâu của nó gắn liền với sự biểu hiện cái tơi trữ tình,
gắn liền với q trình cái tơi trữ tình tự đào sâu vào mình, soi ngắm, quan
sát và tự thể nghiệm mình thơng qua các trạng huống cụ thể, cá biệt, cũng
có nghĩa là thơng qua một cách nhìn, tư thế, tâm thế, ứng xử riêng trước
khách thể bao quanh và đối diện với mình. Nói cách khác, kết cấu thơ trữ
tình là sự tổ chức bài thơ nương theo quá trình tự biểu hiện và bộc lộ của
cái tơi trữ tình. Khi nào q trình nhận thức của cái tơi trữ tình (trong một
điều kiện xác định) đã hồn tất, khi đó bài thơ dừng lại. Chính ở đây ta thấy
vai trò của kết cấu trong việc bộc lộ bản chất của chủ thể sáng tạo.
Thơ trữ tình là một "loại hình" sáng tác gắn liền với sự rung động,
với cảm xúc tươi mới, trực tiếp của cái tơi trữ tình trước mọi biểu hiện đa
dạng phức tạp của cuộc đời. Hơn thế, trong rất nhiều trường hợp, thơ trữ
tình là nơi gặp gỡ, trùng phùng của những cảm xúc đã lắng thành kỷ niệm

với những cảm xúc vừa mới nảy sinh trên nền kỷ niệm đó, đúng như W.
Wordsworth đã nói: "Tơi đã nói rằng thơ là sự tn trào bột phát những
tình cảm mãnh liệt: nó bắt nguồn từ trong cảm xúc được nhớ lại trong sự
bình tâm; cảm xúc được chiêm nghiệm cho tới lúc, do một thứ phản ứng
đặc biệt, sự bình tâm dần dần bị biến mất, và một cảm xúc khác thân thuộc
với cái trước đó là đối tượng của sự chiêm nghiệm lần lần nảy sinh và nó
thực sự tồn tại trong tâm tưởng"1. Trước một phức thể cảm xúc mang tính
chất khá mơ hồ và bất định như thế, kết cấu có vai trị to lớn trong việc
định hình nó lại, cấp cho nó một hình thể xác định làm tiền đề cho mối giao
cảm giữa cái tôi trữ tình của nhà thơ và độc giả, trong khi vẫn cố gắng bảo
tồn đặc tính "khói sương" của nó. Một khi kết cấu đã thực hiện được
1

S. Barnet, M. Berman, W. Burto, Nhập mơn văn học, Hồng Ngọc Hiến dịch, Trường viết văn Nguyễn
Du xuất bản, HN, 1992, tr. 36.


25
nhiệm vụ khó khăn phức tạp này thì điều đó cũng có nghĩa là nó đã phát
hiện ra trong đám
hỗn mang cái logic hay phép biện chứng của tình cảm, tức những cái cho
phép từ đó cái tơi trữ tình nhìn rõ mình hơn. Như vậy, kết cấu trong thơ trữ
tình khơng phải chỉ là phương tiện thể hiện nội dung mà bản thân nó cịn là
cái đích đi đến của nhà thơ nếu quả đúng anh ta là kẻ ln có khát vọng
khám phá mình và qua mình khám phá ra bản chất người tiềm tại trong đó.
Khơng ngẫu nhiên chút nào khi các nhà thơ đích thực ln đau khổ, vất vả
tìm tịi, thể nghiệm những cách nói mới. Đó khơng phải là một câu chuyện
hình thức chủ nghĩa, vơ bổ, vơ ích.
Rõ ràng thơ trữ tình với kết cấu đặc thù của nó là hình thức khơng
thể thay thế giúp con người nhận chân ra bản chất phong phú của mình và

giúp nhà thơ tìm thấy được sự đồng tình, xẻ chia trọn vẹn ở độc giả. Chính
chức năng này đã khẳng định vị trí cũng như ưu thế riêng của thơ trữ tình
bên cạnh văn xi (khái niệm mà các nhà cấu trúc chủ nghĩa hay đem đối
lập với thơ) hay nói chính xác hơn là bên cạnh các sáng tác văn học thuộc
loại tự sự. Trong đời sống hàng ngày, chúng ta bắt gặp hoặc trải qua biết
bao kiểu, dạng, hình thái rung động phong phú. Nhưng khơng phải bất cứ
rung động nào cũng có thể trở thành rung động thơ và được biểu hiện thành
thơ, nếu rung động đó khơng đạt tới một chiều sâu nhất định trong việc thể
hiện bản chất của chủ thể và đặc biệt là khơng được hố thân trong một tổ
chức ngơn từ phù hợp, hồn mỹ, để có thể từ đó làm lây lan đến hay thức
dậy trong lòng người đọc một trạng thái rung động tương ứng. Chính tại
điểm này, vai trị của kết cấu trong việc bộc lộ bản chất nghệ thuật của
sáng tác, cụ thể là bản chất nghệ thuật của thơ trữ tình đã được khẳng định.
Kết cấu không đơn giản chỉ thể hiện cái nhìn mà cịn sáng tạo ra một cái
nhìn mới chưa hề có trước đó, và đó là một cái nhìn "thơ".
Để có thể gánh vác được những nhiệm vụ quan trọng như thế, kết
cấu tự nó phải trở thành một hệ thống tổ chức riêng của hình thức tác
phẩm. Như kết cấu của mọi tác phẩm văn học khác, kết cấu thơ trữ tình


×