1
Tập bài giảng
Luật tài chính
2
CHƯƠNG I
LUẬT TÀI CHÍNH TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
I. KHÁI NIỆM TÀI CHÍNH VÀ HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH
1.Khái niệm tài chính, hệ thống tài chính:
1.1 Khái niệm tài chính:
Tài chính là một phạm trù kinh tế, tồn tại khách quan và mang tính lịch sử. Tài chính chỉ ra
đời và tồn tại trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Những điều kiện kinh tế xã hội này
là những tiền đề khách quan cho sự ra đời và phát triển của tài chính. Những tiền đề đó là nền
kinh tế hàng hóa-tiền tệ và nhà nước.
Lịch sử phát triển xã hội loài người đã chứng minh rằng, vào thời kỳ cuối của chế độ công xã
nguyên thủy, sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện chế độ tư hữu, sự ra
đời của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Hàng hoá sản xuất ra không chỉ nhằm mục đích tự cấp mà
còn được đem trao đổi nhằm thỏa mãn các nhu cầu khác nhau trong tiêu dùng. Lúc đầu là hàng
đổi hàng, sau đó, do yêu cầu trao đổi và phạm vi trao đổi được mở rộng, tiền tệ xuất hiện đóng
vai trò như một loại hàng hoá đặc biệt mang tính chất là vật ngang giá chung. Thông qua đồng
tiền, các thành viên trong xã hội có thể sử dụng để đổi lấy bất kỳ loại hàng hóa theo nhu cầu.
Những hình thái đầu tiên của tiền tệ có thể được quy ước là vỏ sò, lông thú, kim loại Về sau, để
thuận tiện hơn cho việc cất giữ, mang theo, trao đổi, tiền tệ dần dần đưọc chuyển sang hình thức
tín tệ. Các bên trong mối quan hệ mua bán, trao đổi hàng hóa có thể quy ước vật ngang giá chung
có giá trị là tiền. Cùng với với quá trình phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá và sự ra đời
của tiền tệ, chế độ tư hữu đã nảy sinh và kéo theo những hệ quả xã hội như tình trạng phân chia
giai cấp, phân biệt giữa giàu nghèo Trên cơ sở của những hệ quả đó, xã hội bắt đầu xuất hiện
hiện tượng cho vay nặng lãi-biểu hiện của hình thức phân phối lại của cải xã hội theo ý chí chủ
quan. Các nhà nghiên cứu đã chứng minh rằng, với dấu hiệu của hành vi phân phối của cải xã hội
dưới hình thức giá trị là tiền, hoạt động cho vay nặng lãi là một trong những hiện tượng kinh tế
tất yếu của thời kỳ này và được coi là những hình thức, mầm mống đầu tiên của các quan hệ tài
chính, tiền tệ ra đời.
Song song đó, cũng do sự xuất hiện của chế độ tư hữu dẫn đến việc xã hội phân chia giai cấp
được thể hiện bằng những nhóm người có lợi ích cơ bản đối lập nhau. Sự đấu tranh giữa các giai
cấp trong thời kỳ cuối của xã hội công xã nguyên thủy đã dẫn đến sự ra đời tất yếu của nhà nước,
một tổ chức mang quyền lực chính trị cao nhất do giai cấp thống trị nắm giữ. Để tồn tại nhà nước
cần phải đảm bảo được các chức năng, nhiệm vụ của mình bằng nguồn lực tài chính nhất định.
Do vậy, Nhà nước bắt buộc phải huy động được tiền tệ trong xã hội nhằm hình thành nên nguồn
lực tài chính phục vụ cho việc duy trì sự tồn tại của mình. Nhà nước đã sử dụng quyền lực chính
trị của mình như một công cụ để có thể tham gia vào quá trình phân phối của cải trong xã hội mà
biểu hiện rõ ràng nhất là việc nhà nước quy định các khoản thuế và tiến hành thu thuế trong xã
hội, trên cơ sở đó huy động nguồn tài chính. Nói cách khác, hoạt động phân phối mà nhà nước
tham gia trước hết là nhằm tập trung vào tay nhà nước những nguồn của cải nhất định dùng để tài
3
trợ cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, trên cơ sở đó, duy trì được sự tồn
tại của bộ máy nhà nước.
Như vậy, nền sản xuất hàng hóa, chế độ tư hữu là những tiền đề thúc đẩy sự ra đời của nhà
nước. Đến lượt mình, nhà nước đã tác động tích cực trở lại đối với sự phát triển của các quan hệ
sản xuất hàng hóa-tiền tệ, làm cho những quan hệ này ngày càng mở rộng. Khi phạm vi của các
quan hệ hàng hóa-tiền tệ ngày càng được mở rộng thì các quan hệ mang tính chất phân phối, biểu
hiện của hoạt động tài chính cũng ngày càng phát triển.
Từ đó, có thể hình dung rằng, hiện tượng tài chính chứa đựng trong đó những quan hệ xã hội
được hình thành trong quá trình nhà nước và các chủ thể khác trong xã hội thực hiện các hoạt
động mang tính chất phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị trên nền tảng của mối quan
hệ hàng hoá-tiền tệ và sự cần thiết phải phân phối (hoặc phân phối lại của cải trong xã hội).
Về khái niệm tài chính, các sách báo kinh tế, pháp lý thường lý giải theo những phương diện
khác nhau:
-Tài chính bao gồm các quỹ tiền tệ được hình thành bởi nhà nước nhằm thực hiện những chức
năng và nhiệm vụ của nhà nước. Đây là cách hiểu trực quan lên hiện tượng tài chính. Cần phải
phân biệt rõ, tài chính không phải là tiền tệ, nhưng các quỹ tiền tệ được hình thành bởi Nhà nước
chính là những biểu hiện bên ngoài của tài chính. Cụ thể hơn các quỹ tiền tệ chính là biểu hiện về
mặt vật chất của tài chính để qua đó mà tài chính tồn tại thực trong đời sống kinh tế-xã hội.
-Tài chính là tổng hợp các quan hệ kinh tế, hình thành trong quá trình thành lập, phân phối và
sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định của Nhà nước, để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà
nước. Đây là cách hiểu tài chính trừu tượng, xuất phát từ bản chất bên trong của tài chính - vốn
là các quan hệ phân phối của tài chính là phân phối tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân -
kết quả của các hoạt động kinh tế.
Một cách khái quát, tài chính được xác định như sau: tài chính là hiện tượng đặc trưng bằng
sự vận động độc lập tương đối của tiền tệ với chức năng phương tiện thanh toán và phương tiện
cất trữ trong quá trình tạo lập hay sử dụng các quỹ tiền tệ đại diện cho những sức mua nhất định ở
các chủ thể kinh tế - xã hội. Tài chính phản ánh tổng hợp các mối quan hệ kinh tế trong phân phối
các nguồn lực tài chính thông qua tạo lập hay sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng yêu cầu tích
luỹ hay tiêu dùng của các chủ thể (pháp nhân hay thể nhân) trong xã hội.
1
Từ nội dung trên, hiện tượng tài chính có thể được thể hiện thông qua những phương diện
sau:
-Có sự vận động độc lập tương đối của các nguồn tài chính được biểu hiện cụ thể thông qua
sự vận động của một lượng tiền tệ nhất định.
-Có các quan hệ phân phối (hoặc phân phối lại) của cải xã hội.
-Có sự hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ.
1.2. Chức năng của tài chính:
Bản chất của tài chính thể hiện thông qua chức năng của nó, bao gồm chức năng phân phối và
chức năng giám đốc.
4
1.2.1 Chức năng phân phối:
Phân phối thể hiện chức năng của tài chính diễn ra ở nhiều cấp độ, nhiều khâu khác nhau,
trong phạm vi mỗi đơn vị, tổ chức kinh tế cũng như trên phạm vi xã hội với những đặc trưng sau
đây:
-Phân phối của tài chính là phân phối dưới hình thức giá trị. Đó là hoạt động phân phối
nguồn của cải vật chất được sáng tạo từ các lĩnh vực của hoạt động sản xuất, kinh doanh được
biểu hiện dưới hình thức giá trị là đồng tiền. Trên thực tế, phân phối của tài chính được cụ thể
hóa thành hiện tượng chuyển giao các nguồn vốn tiền tệ từ chủ thể này sang chủ thể khác nhằm
thỏa mãn các mục đích khác nhau. Kết quả của hoạt động này chính là việc hình thành nên các
quỹ tiền tệ trong xã hội. Sau khi các quỹ tiền tệ được hình thành trong quá trình chuyển giao các
nguồn vốn tiền tệ từ chủ thể sang chủ thể khác, đến lượt mình, các quỹ tiền tệ này lại tiếp tục
đựoc các chủ thể đưa vào tham gia hoạt động phân phối như là một vòng tuần hoàn. Như vậy, có
thể nói, hiện tượng tài chính luôn luôn diễn ra trong xã hội với biểu hiện là hoạt động phân phối
do các chủ thể khác nhau trong xã hội tiến hành. Chính việc tạo lập, phân phối, sử dụng các quỹ
tiền tệ với mục đích nhất định là kết quả của chức năng phân phối của hiện tượng tài chính. Nó
là cơ sở để tạo lập nên các quỹ vật tư, hàng hoá cho các quá trình tiếp theo của các hoạt động
kinh tế, hoặc đáp ứng những nhu cầu khác của tích lũy hay tiêu dùng xã hội.
Phân phối tài chính có thể là phân phối lần đầu hoặc phân phối lại. Phân phối lần đầu của tài
chính là phân phối ở phạm vi hẹp, diễn ra ở khâu cơ sở. Khi của cải vật chất được tạo ra từ hoạt
động sản xuất, kinh doanh của các tổ chức kinh tế được đưa vào thị trường và được chuyển thành
giá trị là tiền, lượng giá trị này đựoc phân phối để hình thành nên các quỹ bù đắp, quỹ tiêu dùng
hay tích lũy. Các quỹ này có thể ở dạng không tập trung ở các đơn vị, tổ chức kinh tế như quỹ
khấu hao, vốn lưu động, quỹ lương, quỹ phát triển sản xuất hay nghiệp vụ hoặc những quỹ tiền
tệ tập trung trong tay nhà nước như quỹ ngân sách nhà nước. Đây chính là quá trình phân phối
lần đầu của tài chính.
Phân phối tài chính không dừng lại ở đó. Khi các quỹ tiền tệ trên được hình thành rồi thì tiếp
tục đựoc đưa vào để tái sản xuất hoặc phân phối lại để đáp ứng nhu cầu nhiều mặt của đời sống
kinh tế xã hội. Nếu ở giai đoạn phân phối lần đầu các quan hệ phân phối chủ yếu diễn ra trong
phạm vi các tổ chức kinh tế thì ở giai đoạn phân phối lại, hoạt động phân phối đã diễn ra ở phạm
vi toàn xã hội, tạo nên các kênh kết nối, đưa các nguồn tài chính đáp ứng các nhu cầu nhiều mặt
của đời sống kinh tế xã hội.
1.2.2 Chức năng giám đốc:
Đó là việc kiểm tra quá trình hình thành các quỹ, các nguồn vốn tiền tệ và việc sử dụng
chúng, trên cở sở đó, xác định việc các nguồn quỹ, các nguồn vốn tiền tệ đựoc tạo lập, sử dụng
trong hoạt tài chính có phù hợp với nhu cầu thi trường, yêu cầu của quản lý vĩ mô cũng như hiệu
qủa sử dụng các nguồn vốn, nguồn quỹ như thế nào. Để thực hiện chức năng này, hiện tượng tài
chính sẽ dựa vào hai chức năng cơ bản của tiền tệ là chức năng thước đo giá trị và chức năng
thanh toán. Với tính chất như vậy, chức năng giám đốc của hiện tượng tài chính không những
1
Giáo trình Tài chính học, NXB Tài chính 1997, tr 12.
5
kiểm tra phạm vi các quan hệ phân phối mà còn kiểm tra toàn bộ nền kinh tế, đánh giá nhu cầu
cân đối vốn, hiệu quả đầu tư, quan hệ cung cầu
Chức năng giám đốc của tài chính gắn liền với chức năng phân phối. Thông qua phân phối
để thực hiện giám đốc và giám đốc để phân phối tốt hơn.
1.3.Hệ thống tài chính trong nền kinh tế thị trường hiện nay ở Việt Nam
Như đã phân tích, tài chính bao gồm những quan hệ xã hội mang bản chất phân phối của
cải xã hội dưới hình thức giá trị là tiền tệ đựoc biểu hiện thông qua quá trình tạo lập, quản lý và
sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định. Các quan hệ xã hội này tuy có cùng bản chất nhưng chúng có
thể được hình thành trong những trật tự và phạm vi khác nhau, gắn với việc hình thành và sử
dụng các quỹ tiền tệ với những mục đích sử dụng khác nhau. Do vậy, tài chính sẽ bao gồm
những nhóm quan hệ tài chính khác nhau. Mỗi nhóm quan hệ tài chính này đựoc đặc trưng bởi
những đặc điểm chung. Giữa các nhóm quan hệ này vừa tách biệt, vừa có mối quan hệ qua lại lẫn
nhau tuỳ thuộc vào cách thức tạo lập, phân phối và mục đích tiêu dùng hay tích lũy các quỹ tiền
tệ đựoc hình thành từ những nhóm quan hệ xã hội đó. Các nhóm quan hệ tài chính này được xem
như là mỗi khâu tài chính. Tập hợp tất cả các khâu tài chính hình thành nên hệ thống tài chính.
Như vậy, hệ thống tài chính là tập hợp những nhóm quan hệ tài chính (các khâu tài chính)
khác nhau đựoc hình thành trong quá trình tạo lập, quản lý và sử dụng những quỹ, những nguồn
vốn tiền tệ nhất định.
Mỗi khâu trong hệ thống tài chính có cách thức, phương pháp riêng để hình thành và sử
dụng những nguồn vốn tiền tệ. Đồng thời, ở mỗi giai đoạn khác nhau của nền kinh tế, các khâu
tài chính, hệ thống tài chính cũng có những bước phát triển, biến đổi nhất định. Trong điều kiện
hiện nay, hệ thống tài chính của Việt Nam bao gồm những khâu sau đây: ngân sách nhà nước, tín
dụng, bảo hiểm, tài chính doanh nghiệp, tài chính hộ gia đình và tổ chức xã hội.
-Khâu Ngân sách nhà nước: đây là khâu trung tâm của hệ thống tài chính. Các quan hệ tài
chính-ngân sách gắn với việc hình thành và sử dụng quỹ ngân sách nhà nước. Đây là quỹ tiền tệ
tập trung lớn nhất của nhà nước, cung cấp các phương tiện tài chính cho việc thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của nhà nước.
Quỹ ngân sách nhà nước được hình thành từ các nguồn tài chính của các khâu tài chính
khác trong hệ thống tài chính, trong đó chủ yếu là các khoản nộp mang tính chất pháp lý bắt buộc
như thuế, phí, lệ phí. Bên cạnh đó, quỹ ngân sách nhà nước còn được hình thành từ các nguồn
khác như vay trong dân cư, vay nợ, viện trợ
-Khâu tài chính tín dụng: trong điều kiện của kinh tế hàng hoá-tiền tệ, tất yếu nảy sinh
hiện tượng nhàn rỗi tạm thời những nguồn vốn tiền tệ. Các nguồn vốn dạng này được tập trung
lại dưới các hình thức khau tạo thành các quỹ tín dụng nhằm cung cấp, thỏa mãn nhu cầu về tiền
tệ của các chủ thể trong xã hội.
-Khâu tài chính Bảo hiểm: các quan hệ bảo hiểm hình thành trong quá trình tái phân phối
tài chính, gắn với việc tạo lập, sử dụng các quỹ bảo hiểm. Mục đích của hoạt động bảo hiểm là
bồi thường thiệt hại, chi trả bảo hiểm cho những chủ thể tham gia quan hệ bảo hiểm. Quỹ bảo
hiểm được hình thành từ mối quan hệ bảo hiểm sẽ hình thành nên nguồn tài chính tham gia vào
6
thị trường tài chính. Bảo hiểm trở thành một khâu của hệ thống tài chính từ việc hình thành nên
quỹ bảo hiểm và tái phân phối quỹ tiền tệ này.
Tài chính doanh nghiệp: là khâu cơ sở của hệ thống tài chính, bao gồm những quan hệ tài
chính gắn với hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp như các quan hệ trong việc
hình thành, xác lập nguồn vốn kinh doanh, phân phối thu nhập, tích lũy trong nội bộ doanh
nghiệp và trong quan hệ với ngân sách nhà nước. Đây là khâu tài chính cơ sở gắn liền với hoạt
động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Chính hoạt động của các doanh nghiệp là tạo ra sản
phẩm xã hội và thu nhập quốc dân. Trên cơ sở đó, thông qua các quan hệ phân phối dưới hình
thức giá trị đã hình thành nên các quỹ tiền tệ với những mục đích sử dụng khác nhau như bù đắp,
tiêu dùng hay tích lũy để đáp ứng nhu cầu tái sản xuất, tiêu dùng trong dân cư hay chi dùng của
nhà nước
-Khâu tài chính dân cư và các tổ chức xã hội:
+Đối với tài chính dân cư, bao gồm hai dạng hoạt động tài chính. Một là, hoạt động sản
xuất, kinh doanh mang tính chất cá nhân trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, nông nghiệp đều
cần đến nguồn vốn đầu tư. Nguồn vốn này được hình thành từ thu nhập được tích lũy của họ hoặc
từ các nguồn khác nhau trên thị trường tài chính. Một loại quan hệ tài chính khác gắn liền với
việc hình thành, sưửdụng quỹ tiền tệ thỏa mãn cho tiêu dùng của dân cư. Quỹ này được hình
thành từ thu nhập thường xuyên hoặc không thường xuyên của cá nhân. NGười dân sử dụng quỹ
này để tiêu dùng, đóng thuế cho nhà nước, phần thừa hoặc nhàn rỗi họ lại đưa vào thị trường tài
chính dưới các hình thức đầu tư như góp vốn cổ phần, gửi tiết kiệm
+Khâu tài chính này còn bao gồm tài chính của các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ.
NHững tổ chức này hình thành nên nguồn quỹ tiền tệ của riêng mình để phục vụ cho tiêu dùng,
hoạt động tồn tại, phát triển. Nguồn quỹ này được hình thành từ đóng góp của các thành viên
hoặc từ sự đóng góp của dân cư, hỗ trợ của nhà nước Trong những thời điểm nhất định khi
chưa được sử dụng, nguồn tài chính đó còn có thể tham gia vào thị trường tài chính.
2. Hoạt động tài chính
2.1 Hoạt động tài chính của nhà nước:
Hoạt động tài chính của nhà nước là loại hoạt động tài chính công-hoạt động của tổ chức
mang quyền lực công. Hầu hết các cơ quan đại diện cho quyền lực của nhà nước trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ và thẩm quyền của mình đều tiến hành hoạt động tài chính. Hoạt động tài
chính của nhà nước thể hiện trên hai phương diện
-Nhà nước trực tiếp tiến hành các hoạt động tài chính. Thông qua các cơ quan đại diện
cho quyền lực công, nhà nước tham gia vào quá trình hình thành, phân phối và sử dụng nguồn
vốn tiền tệ là ngân sách nhà nước với mục đích đảm bảo lợi của nhà nước, lợi ích công cộng.
-Nhà nước tổ chức, hướng dẫn các hoạt động tài chính mang tính chất vi mô như hoạch
định các chính sách, phương hướng hoạt động tài chính, tiền tệ; xây dựng các thiết chế, định chế
liên quan đến hoạt độg tài chính; thiết lập khung khổ pháp lý, hành lang an toàn cho hoạt động tài
chính của mọi chủ thể tham gia vào thị trường tài chính, tiền tệ nói chung.
7
Dựa vào 2 phương diện thể hiện hoạt động tài chính của nhà nước, hoạt động tài chính
của nhà nước có thể được hình dung như sau: đó là hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền trong việc tập trung, phân phối và sử dụng một cách có kế hoạch các nguồn lực tài chính,
mà trọng tâm là nguồn ngân sách nhà nước nhằm thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội,
bảo đảm quốc phòng an ninh.
Hoạt động tài chính của nhà nước được thực hiện theo các nguyên tắc:
-Nguyên tắc pháp chế: toàn bộ hoạt động tài chính bao gồm toàn bộ quá trình hình thành,
phân phối và sử dụng các nguồn quỹ tiền tệ của nhà nước đều được thể chế hoá thành pháp luật
và đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước.
-Nguyên tắc công khai: tất cả các hoạt động tài chính đều phải được công khai cho người
dân-những chủ thể đã tham gia vào quá trình phân phối của cả xã hội để hình thành nên nguồn
quỹ tài trợ cho hoạt động của bộ máy nhà nước. Hoạt động tài chính của nhà nước cần phải đảm
bảo tính dân chủ trong quản lý, thu chi tài chính, tránh tình trạng tham nhũng, lãng phí.
-Nguyên tắc kế hoạch: nguyên tắc này được thể hiện ở chỗ mọi hoạt động tài chính của
nhà nước đều dựa trên cơ sở là các văn bản kế hoạch tài chính. Các văn bản này dự kiến hay xác
lập dự toán các khoản thu chi các nguồn vốn tiền tệ của nhà nước. Những văn bản này được xây
dựng, phê duyệt và thực hiện theo những trình tự nhất định.
2.2 Hoạt động tài chính của các chủ thể khác:
Ngoài nhà nước, các chủ thể khác trong xã hội (bao gồm các cơ quan nhà nước ngoài
những cơ quan tiến hành các hoạt động tài chính công, các đoàn thể xã hội, các tổ chức kinh tế,
cá nhân ) cũng tiến hành các hoạt động tài chính ở phạm vi và mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào
tính chất và mục tiêu của họ. Nhìn chung, hoạt động tài chính của các chủ thể khác thường diễn
ra theo hai phương diện:
-Các hoạt động tài chính diễn ra giữa nhà nước với các chủ thể khác trong xã hội xoay
quanh vấn đề ngân sách nhà nước. Hầu khác các chủ thể tồn tại trong xã hội đều có mối liên hệ
một cách trực tiếp hoặc gián tiếp đối với việc hình thành, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ là
ngân sách nhà nước, cụ thể thông qua các hoạt động nhận kinh phí, vốn từ ngân sách nhà nước,
nộp thuế hoặc các khoản thu khác vào ngân sách nhà nước.
-Các hoạt động tài chính của các chủ thể trong mối quan hệ với thị trường tài chính. Các
doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đều có thể tham gia vào thị trường tài chính nhằm thỏa mãn mục
đích kinh doanh, đầu tư hay nhu cầu về vốn thông qua hoạt động cho vay, vay, mua bán các loại
giấy tờ có giá trên thị trường tài chính.
II. LUẬT TÀI CHÍNH TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.Định nghĩa Luật Tài chính:
Luật Tài chính là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ, các nguồn vốn tiền tệ gắn liền với việc
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước và hoạt động của các chủ thể kinh tế xã hội
khác.
2. Đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật Tài chính:
8
2.1 Đối tượng điều chỉnh của Luật Tài chính:
Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường với sự tham gia
của nhiều thành phần kinh tế, đối tượng điều chỉnh của luật tài chính đã vượt ra ngoài phạm vi
tài chính công, tài chính nhà nước. Đối tượng điều chỉnh của Luật Tài chính hiện nay bao gồm cả
những quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, quan hệ tài chính
của các tổ chức, cá nhân trên thị trường tài chính. Những quan hệ này không nhất thiết phải có sự
tham gia của nhà nước với tư cách là bên chủ thể. Như vậy, có thể nói, các quan hệ xã hội thuộc
đối tượng điều chỉnh của luật tài chính rất đa dạng, có nhiều chủ thể tham gia ở nhiều cấp độ
khác nhau.
Các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của luật tài chính thường được phân chia theo
2 cách dựa vào những tiêu chí khác nhau:
-Căn cứ vào lĩnh vực mà các quan hệ tài chính được hình thành, đối tượng điều chỉnh của
luật tài chính được phân biệt thành:
+Các quan hệ tài chính- ngân sách. Đây là nhóm quan hệ tài chính phát sinh gắn liền với việc
hình thành, phân phối, sử dụng quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của nhà nước là quỹ ngân sách nhà
nước.
+Các quan hệ tài chính doanh nghiệp. Đây là nhóm quan hệ phát sinh trong hoạt động tài
chính của doanh nghiệp gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
+Các quan hệ tài chính trong lĩnh vực bảo hiểm. Những quan hệ liên quan đến việc các tổ
chức kinh doanh bảo hiểm huy động được nguồn vốn và đưa chúng tham gia vào thị trường tài
chính bằng các hình thức khác nhau đáp ứng nhu cầu về vốn của nền kinh tế.
+Các quan hệ tín dụng. Các quan hệ liên quan đến hoạt động huy động vốn, cho vay vốn của
các tổ chức trung gian tài chính trong quá trình hình thành các nguồn tài chính đáp ứng cho nhu
cầu vốn của nền kinh tế sẽ thuộc đối tượng điều chỉnh của luật tài chính.
+Các quan hệ tài chính trong khu vực dân cư, các tổ chức xã hội.
-Căn cứ vào hệ thống các chủ thể tham gia các hoạt động tài chính, đối tượng điều chỉnh của
luật tài chính bao gồm:
+Quan hệ tài chính giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương với cơ quan nhà nước ở địa
phương trong hoạt động thu, chi phân cấp quản lý ngân sách nhà nước.
+Quan hệ tài chính giữa cơ quan tài chính, tổ chức tín dụng với nhau phát sinh trong quá
trình quản lý, sử dụng quỹ ngân sách nhà nước và các quỹ tiền tệ khác.
+Quan hệ tài chính giữa cơ quan tài chính, tổ chức tài chính với các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế. Các quan hệ này phát sinh trong việc cấp phát vốn, thu nộp thuế vào ngân
sách nhà nước.
+Các quan hệ tài chính giữa các cơ quan tài chính, tổ chức tài chính với dân cư.
+NHóm quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp.
2.2 Phương pháp điều chỉnh của luật tài chính:
Luật tài chính sử dụng hai phương pháp điều chỉnh chủ yếu là phương pháp mệnh lệnh bắt
buộc và phương pháp bình đẳng thỏa thuận.
9
3. Hệ thống Luật tài chính và quy phạm pháp luật tài chính:
3.1 Hệ thống luật tài chính
Hệ thống luật tài chính thể hiện cấu trúc bên trong, mối quan hệ nội tại của ngành luật đó.
Thực chất là việc định hình, phân nhóm các quy phạm pháp luật tài chính để nghiên cứu và áp
dụng chúng. Việc phân nhóm này căn cứ vào tính chất và mối quan hệ qua lại giữa các quan hệ
tài chính.
Thông thường, hệ thống luật tài chính bao gồm phần chung và phần riêng.
- Phần chung chứa đựng các quy phạm pháp luật quy định những nguyên tắc cơ
bản, hình thức của hoạt động tài chính và phương pháp thực hiện hoạt động tài chính; xác định
chủ thể tham gia các quan hệ tài chính, thẩm quyền của các chủ thể này.
- Phần riêng: bao gồm nhóm các quy phạm pháp luật khác nhau hình thành nên các
chế định của luật tài chính. Đó là các nhóm quy phạm pháp luật điều chỉnh các nhóm quan hệ tài
chính cụ thể.
Hệ thống luật tài chính phân biệt với hệ thống môn học luật tài chính. Hệ thống môn học
luật tài chính bao gồm các phần, các chương nghiên cứu về những vấn đề lý luận về ngành luật
tài chính và các chương nghiên cứu các chế định cụ thể của luật tài chính.
3.2 Quy phạm pháp luật tài chính:
Quy phạm pháp luật tài chính là những quy tắc xử sự trong lĩnh vực tài chính do nhà nước
định ra, có tính phổ biến, tính bắt buộc chung và được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng
chế của nhà nước.
Căn cứ vào tính chất, quy phạm pháp luật tài chính được phân biệt thành 3 nhóm:
-Nhóm quy phạm bắt buộc: là loại quy phạm quy định những hành vi bắt buộc các chủ thể
của quan hệ pháp luật tài chính phải thực hiện, nếu không thực hiện là vi phạm pháp luật tài
chính, ví dụ hành vi thu thuế của cơ quan thuế, hành vi nộp thuế của các tổ chức, cá nhân.
-Nhóm quy phạm cấm đoán: là loại quy phạm xác định một số hành vi nhất định và cấm
các chủ thể của quan hệ pháp luật tài chính thực hiện các hành vi đó.ví dụ một số hành vi bị ngăn
cấm: lập quỹ trái phép, để ngoài sổ sách thu chi tài chính
-Nhóm quy phạm cho phép (trao quyền): là loại quy phạm trao quyền cho các chủ thể
trong một số quan hệ tài chính nhất định có thể lựa chọn làm hoặc không làm những việc nhất
định.vd hành vi đóng góp tự nguyện cho ngân sách nhà nước.
4. Quan hệ pháp luật tài chính:
Quan hệ pháp luật tài chính là những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực tài chính
chịu sự điều chỉnh của quy phạm pháp luật tài chính.
Quan hệ pháp luật tài chính bao gồm: chủ thể, khách thể và nội dung
-Chủ thể của quan hệ pháp luật tài chính: đó là những tổ chức cá nhân tham gia vào quan
hệ pháp luật tài chính. Do tính đa dạng của các quan hệ tài chính nên các chủ thể của quan hệ tài
chính cũng rất đa dạng, bao gồm: nhà nước, pháp nhân, cá nhân.
10
-Khách thể của quan hệ pháp luật tài chính: các quỹ tiền tệ nhằm thỏa mãn các nhu cầu
khác nhau tương ứng với các chủ thể khác nhau trong quan hệ pháp luật tài chính.
-Nội dung của quan hệ pháp luật tài chính: bao gồm quyền và nghĩa vụ mang tính chất
pháp lý của các chủ thể được xác lập khi tham gia vào quan hệ pháp luật tài chính.
11
CHƯƠNG II
NGÂN S ÁCH NHÀ NƯỚC VÀ LUẬT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
I. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm ngân sách nhà nước:
Ngân sách nhà nước là phạm trù kinh tế thuộc lĩnh vực tài chính. Hiện tượng ngân sách ra
đời và tồn tại từ rất lâu trong lịch sử, trên cơ sở của nền kinh tế hàng hoá và sự hình thành, phát
triển của nhà nước.
Các nhà khoa học về lịch sử và kinh tế đã chứng minh rằng chính sản xuất và trao đổi
hàng hóa đã dẫn tới sự ra đời tiền tệ. Sau 3 lần phân công lao động xã hội đóng vai trò quan trọng
trong sự phân hóa các giai cấp trong xã hội, đặc biệt là phân công lao động xã hội lần thứ ba, kết
quả là sự ra đời của giai cấp thương nhân. Giai cấp thương nhân ra đời dẫn đến các quan hệ trao
đổi mua bán cũng phát triển mạnh mẽ, cùng với nó là sự xuất hiện của tiền tệ.
Tiền tệ ra đời giữ vai trò là vật ngang giá chung, trung gian trong việc trao đổi hàng hóa.
Cuối thời kỳ công xã nguyên thủy, khi mâu thuẩn giữa các giai cấp đã không còn được
dung hòa bởi tổ chức của thị tộc, nhà nước đã ra đời. Nhà nước ra đời thúc đẩy mạnh mẽ việc sử
dụng tiền tệ trong lưu thông hàng hóa. Sự ra đời và tồn tại của Nhà nước làm nảy sinh nhu cầu
chi tiêu của Nhà nước. Điều đó đòi hỏi Nhà nước dùng quyền lưc chính trị để tập trung một bộ
phận của cải của xã hội cho mình, tham gia quá trình phân phối của cải với tư cách chủ thể quyền
lực chính trị. Trong các hình thức được nhà nước sử dụng để tập trung của cải thì thuế là hình
thức được sử dụng sớm nhất và cũng có vai trò quan trọng nhất. Nhà nước tham gia quá trình
phân phối của cải xã hội hình thức giá trị để lập và sử dụng quỹ tiền tệ của Nhà nước đã hình
thành nên ngân sách Nhà nước. Nói cách khác, sự ra đời của kiểu nhà nước đầu tiên trong lịch sử,
cùng với nó là hoạt động của nhà nước trong lĩnh vực phân phối và phân phối lại của cải xã hội
đã hình thành nên kho tài sản của nhà nứơc, phục vụ cho nhu cầu chi tiêu của nhà nước chính là
mồng mống ban đầu của hiện tượng ngân sách nhà nước
Hiện tượng ngân sách nhà nước tồn tại và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của
các kiểu nhà nước trong lịch sử phát triển xã hội. Tuy nhiên, thuật ngữ ngân sách nhà nước chỉ
được bắt đầu sử dụng khi các khoản thu chi của nhà nước được thể chế hoá bằng pháp luật, tức
là, có sự xác định, thừa nhận, công khai hoá bằng luật pháp đối với những khoản thu chi của nhà
nước sử dụng ngân sách nhà nước.
Về khái niệm ngân sách nhà nước, có nhiều định nghĩa khác nhau về thuật ngữ này. Quan
điểm thứ nhất cho rằng ngân sách nhà nước là bản dự toán thu chi tài chính của nhà nước trong 1
khoản thời gian nhất định. Có quan điểm lại cho rằng, ngân sách nhà nước chính là quỹ tiền tệ
của nhà nước. Thật ra, những định nghĩa về ngân sách nhà nước theo những quan điểm khác nhau
đều thể hiện sự khái quát hiện tượng ngân sách nhà nước ở những phương diện khác nhau. Để có
cách hiểu đầy đủ về ngân sách nhà nước, chúng ta tìm hiểu khái niệm này từ 2 phương diện:
Một là, do ngân sách là một phạm trù kinh tế, vậy nên, ngân sách nhà nước sẽ được xem
xét về mặt bản chất và cả về phương diện vật chất.
12
Xét về mặt bản chất, ngân sách nhà nước thể hiện hệ thống các quan hệ kinh tế được hình
thành trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các nguồn vốn tiền tệ phục vụ cho các chức
năng, nhiệm vụ của bộ máy nhà nước. Điều này xuất phát từ mối quan hệ chặt chẽ giữa ngân sách
nhà nước với nhà nước. Ngân sách nhà nước vốn được hình thành từ việc nhà nước sử dụng
quyền lực chính trị của mình để tham gia vào hoạt động phân phối của cải trong xã hội vốn được
tạo nên từ nhiều chủ thể khác nhau cùng tồn tại trong xã hội. Do vậy ngân sách nhà nước thể hiện
mối quan hệ xã hội giữa nhà nước và các chủ thể khác nhau trong quá trình phân phối của cải xã
hội dưới hình thức giá trị.
Xét về phương diện vật chất, trên thực tế, ngân sách nhà nước tồn tại dưới dạng vật chất
là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của nhà nước. Quỹ tiền tệ này gắn liền với việc đảm bảo cho
chức năng, nhiệm vụ của tất cả các cơ quan chính quyền nhà nước các cấp. Đó là nguồn vốn,
kinh phí hay những khoản tiền cụ thể mà nhà nước tập trung được vào tay mình sau khi tham gia
vào quá trình phân phối của cải trong xã hội.
Hai là, xuất phát từ việc ngân sách vốn là một trong những phạm trù pháp lý, trong điều
kiện nhà nước pháp quyền, các khoản thu chi của nhà nước được công khai và thể chế thành pháp
luật nhằm tránh hiện tượng lạm quyền. Ngân sách nhà nước trở thành phạm trù pháp lý. Điều này
được thể hiện thông qua việc hình dung ngân sách nhà nước là kế hoạch tài chính cơ bản của nhà
nước, là bảng dự toán toàn bộ các khoản thu chi của nhà nước, được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quyết định để trở thành một đạo luật có giá trị pháp lý bắt buộc đối với tất cả các chủ thể
có liên quan. Chính vì vậy mà pháp luật thực định đưa ra định nghĩa về ngân sách nhà nước là
toàn bộ các khoản thu, chi của nhà nước trong dự toán được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quyết định và thực hiện trong khoảng thời gian là một năm để đảm bảo chức năng, nhiệm vụ của
nhà nước.
2. Vai trò của ngân sách nhà nước:
Ngân sách nhà nước giữ vai trò là công cụ phân phối. Điều này được thể hiện thông qua
việc nhà nước huy động nguồn tài chính để đảm bảo cho nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Thông
qua việc tiến hành cân đối giữa các khoản thu và chi của nhà nước, nhà nước có thể hoạch định
chính sách trong điều tiết thu nhập, giải quyết tốt mối quan hệ giữa thu và chi, giữa tích luỹ tiêu
dùng, đầu tư p hát triển, tiết kiệm.
Ngân sách nhà nước giữa vai tró điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thông qua việc điều hoà các
nguồi tài chính giữa các vùng kinh tế, các ngành kinh tế, thông qua việc hướng dẫn, kích thích
hay hạn chế sản xuất, tiêu dùng bằng các chính sách thuế, tài chính, ngân sách nhà nước có thể
điều tiết thu nhập của các chủ thể khác nhau trong xã hội, xử lý mối quan hệ giữa tích luỹ, đầu tư
và tiêu dùng, điều chỉnh giá cả, ổn định thị trường, chống lạm phát.
Ngân sách nhà nước còn giữ vai trò là công cụ thực hiện chính sách xã hội. Bằng chính
sách thuế, nhà nước có thể thông qua hoạt động ngân sách nhà nước để thực hiện ưu đã cho các
đối tượng chính sách, điều tiết thu nhập dân cư, hạn chế sự bất bình đẳng xã hội. Ngoài ra, ngân
sách nhà nước còn cung cấp phương tiện tài chính để nhà nước thực hiện trợ cấp xã hội, phúc lợi
công cộng.
13
II. KHÁI NIỆM LUẬT NGÂN SÁCH
1. Định nghĩa Luật Ngân sách:
Việc sử dụng ngân sách trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế xã hội đã hình
thành hệ thống quan hệ kinh tế thuộc lĩnh vực ngân sách bao gồm bao gồm những quan hệ phân
phối liên quan đến nguồn vốn tiền tệ của nhà nước. Do vậy, những quan hệ này cần phải được
pháp luật điều chỉnh để việc phát sinh, thay đổi chúng phù hợp với lợi ích của nhà nước, xã hội.
Nói cách khác, việc chuyển giao, sử dụng các nguồn vốn tiền tệ phải tuân theo quy chế pháp lý
nghiêm ngặt để đảm bảo yêu cầu quản lý của nhà nước. Chính trong điều kiện đó đã hình thành
nên nhóm các quy phạm pháp luật chuyên ngành điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực
này: luật ngân sách. Luật Ngân sách là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã
hội phát sinh trong lĩnh vực tạo lập, phân phối và sử dụng các nguồn vốn tiền tệ thuộc về ngân
sách nhà nước.
Luật Ngân sách phân biệt với Luật Ngân sách nhà nước. Luật ngân sách nhà nước chỉ là
một bộ phận của pháp luật thực định về Luật Ngân sách. Ngoài ra, luật ngân sách cũng phân biệt
với thuật ngữ pháp luật ngân sách nhà nước-một cụm từ khái quát về bộ phận pháp luật thực định
về ngân sách nhà nước, bao gồm Luật Ngân sách nhà nước và các quy định pháp luật về ngân sách
nhà nước khác.
2. Quan hệ pháp luật ngân sách:
Quan hệ pháp luật ngân sách là những quan hệ xã hội được hình thành trong quá trình tập
trung, phân phối, sử dụng, quản lý quỹ ngân sách nhà nước được quy phạm pháp luật về ngân sách
điều chỉnh.
Đặc điểm của quan hệ pháp luật ngân sách:
-Luôn có sự tham gia của ít nhất một bên là nhà nước hoặc cơ quan đại diện của nhà nước
trong tất cả các quan hệ pháp luật ngân sách.
-Các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật ngân sách không phải do tự ý xác lập một quan
hệ pháp luật mà được pháp luật quy định trước, kể cả quyền và nghĩa vụ của các bên cũng không
phải theo thoả thuận mà sẽ do pháp luật quy định, buộc các bên phải tuân theo.
-Việc tham gia vào quan hệ pháp luật ngân sách của các chủ thể trước hết vì lợi ích kinh
tế-xã hội của nhà nước.
Căn cứ vào tính chất, quan hệ pháp luật ngân sách được phân biệt thành:
-Nhóm các quan hệ về phân cấp quản lý, điều hành ngân sách. Nhóm quan hệ này hình
thành trong lĩnh vực tổ chức hệ thống ngân sách, phân định quyền hạn về ngân sách và phân phối
nhiệm vụ thu chi ngân sách giữa các cấp chính quyền nhà nước.
-Nhóm các quan hệ trong quá trình tạo lập, thông qua dự toán ngân sách nhà nước giữa cơ
quan chính quyền nhà nước các cấp cũng như tất cả các chủ thể có liên quan đến việc sử dụng kinh
phí từ ngân sách nhà nước.
-Nhóm các quan hệ về chấp hành ngân sách nhà nước. Nhóm các quan hệ này hình thành
trong quá trình thực hiện các khoản thu, chi ngân sách nhà nước trên thực tiễn.
14
-Nhóm các quan hệ về quyết toán ngân sách nhà nước, bao gồm những quan hệ trong quá
trình lập quyết toán, phê chuẩn tổng quyết toán ngân sách nhà nước và những quan hệ về kiểm tra,
thanh tra, kiểm toán ngân sách nhà nước.
3. Chế độ pháp lý về tổ chức hệ thống ngân sách:
Hệ thống ngân sách là một thể thống nhất được tạo thành từ các bộ phận cấu thành nên
ngân sách: các khâu ngân sách. Giữa các khâu trong hệ thống ngân sách vừa độc lập, vừa có mối
quan hệ qua lại lẫn nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thu, chi của mình.
Hệ thống ngân sách thường được tổ chức tương ứng với hệ thống chính quyền nhà nước
nhưng không nhất thiết mỗi cấp chính quyền là một cấp ngân sách. Điều kiện cần và đủ để một cấp
chính quyền trở thành cấp ngân sách:
-Nhiệm vụ của cấp chính quyền tương đối toàn diện trên các lĩnh vực phát triển về hành
chính, xã hội kinh tế ở vùng lãnh thổ mà cấp chính quyền đó quản lý.
-Tổng hợp các nguồn thu trên lãnh thổ mà cấp chính quyền đó quản lý có khả năng giải
quyết phần lớn nhu cầu chi tiêu của mình.
Hệ thống ngân sách ở Việt Nam:
-Từ sau Cách mạng tháng 8 đến trước 1967: Việt Nam chỉ tồn tại 1 ngân sách duy nhất
được gọi chung là ngân sách nhà nước, ở đó không có sự phân định thẩm quyền giữa các cấp chính
quyền nhà nước trong quản lý ngân sách nhà nước. Mỗ cấp chính quyền chỉ là một đơn vị dự toán
của ngân sách nhà nước. Mọi hoạt động huy động các nguồn tài chính đều nhằm hình thành quỹ
ngân sách nhà nước tập trung và mọi chi tiêu từ quỹ tiền tệ này đều nhằm mục tiêu chung của cả
nước là kháng chiến thắng lợi.
-Từ 1967, khai sinh chế độ phân cấp quản lý ngân sách. Theo đó, phân cấp quản lý ngân
sách nhà nước là khái niệm hàm chỉ mô hình quản lý ngân sách nhà nước mà trong đó Chính
quyền trung ương phân giao cho chính quyền địa phương thực hiện một số nghiệp vụ nhất định
trong hoạt động ngân sách nhà nước. Mô hình này được áp dụng ở những quốc gia xem ngân sách
nhà nước là duy nhất và thống nhất, cả nước chỉ có một ngân sách do nhà nước quản lý. Trong quá
trình hình thành và sử dụng quỹ ngân sách nhà nước, chính quyền trung ương có thể giao cho
chính quyền địa phương thực thi một số nghiệp vụ thu chi cần thiết có liên quan trực tiếp đến
nhiệm vụ phát trỉên kinh tế xã hội của cấp chính quyền trên địa bàn mà mình quản lý.
-Từ 1976 đến 1978, hệ thống ngân sách ở Việt Nam gồm 2 cấp: ngân sách trung ương và
ngân sách cấp tỉnh. Việc xác lập hệ thống ngân sách gồm 2 cấp như vậy không khuyến khích các
cấp chính quyền địa phương phát huy tính chủ động sáng tạo trong việc khai thác và huy động
nguồn tài chính trên địa bàn để phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. Ngược lại,
các cấp chính quyền địa phương cũng ỷ lại trông chờ vào sự trợ giúp của cấp trên.
-1978: hệ thống ngân sách Việt Nam được phân định gồm ngân sách trung ương và ngân
sách địa phương, trong đó ngân sách địa phương gồm hai cấp ngân sách cấp tỉnh và ngân sách cấp
huyện. Mô hình này đã phần nào khắc phục được nhược điểm của hệ thống ngân sách trước đây,
góp phần khuyến khích địa phương khai thác được tiềm năng và thế mạnh trong việc huy động
nguồn thu phát sinh trên địa bàn.
15
-1983: hệ thống ngân sách Việt Nam được xây dựng gồm 4 cấp tương đương với 4 cấp
chính quyền trong bộ máy nhà nước: Ngân sách Trung ương, tỉnh, huyện, xã. Điều này đặt ra yêu
cầu phải phân định nguồn thu, nhiệm vụ chi cụ thể cho từng cấp ngân sách ở địa phương và chính
quyền các cấp ở địa phương cần được phân giao quyền hạn, trách nhiệm cụ thể. Cơ chế phân phối
nguồn thu, nhiệm vụ chi tới tận ngân sách cấp huyện, xã vẫn được duy trì trong Luật Ngân sách
nhà nước 1996 (sửa đổi bổ sung 1998).
-Luật Ngân sách nhà nước 2002 hệ thống ngân sách Việt Nam đuợc thiết lập bao gồm
ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Trong đó, ngân sách địa phương sẽ hàm chứa ngân
sách cấp tỉnh, huyện, xã. Tuy nhiên, cơ quan quyền lực cao nhất là Quốc hội chỉ phân giao nguồn
thu, nhiệm vụ chi cụ thể cho ngân sách trung ương và xác định tổng khối lượng thu-chi cho ngân
sách của từng địa phương. Trên cơ sở đó, cơ quan quyền lực cao nhất của địa phương: Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh sẽ được phân cấp thẩm quyền quyết định trong việc phân phối thu chi giữa các
cấp ngân sách ở địa phương. Rõ ràng, với hệ thống ngân sách theo quy định của Luật Ngân sách
nhà nước 2002 việc phân cấp trong quản lý ngân sách nhà nước đã được đẩy mạnh, tăng tính chủ
động, linh hoạt cho từng địa phương.
Nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và quản lý hệ thống ngân sách:
-Đảm bảo tính tập trung thống nhất của ngân sách nhà nước, dù có phân chia các cấp ngân
sách theo các cấp chính quyền nhà nước nhưng hệ thống ngân sách vẫn là thống nhất từ trung ương
đến địa phương.
-Đảm bảo tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của mỗi cấp ngân sách, có cơ chế phân cấp
và quản lý phù hợp để phát huy được tính tự chủ, kích thích khai thác nguồn thu của các cấp ngân
sách địa phương, đáp ứng nhu cầu chi tiêu của địa phương.
III. CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC:
1. Định nghĩa về phân cấp quản lý ngân sách nhà nước:
Phân cấp ngân sách Nhà nước là sự phân định trách nhiệm về quyền hạn, nghĩa vụ và lợi
ích của các cơ quan Nhà nước các cấp trong tổ chức, điều hành, quản lý ngân sách Nhà nước.
Thực chất của phân cấp ngân sách là việc phân chia quyền hạn và xác định trách nhiệm của mỗi
cấp chính quyền nhà nước đối với ngân sách cấp mình và ngân sách nhà nước nói chung. Phân
cấp quản lý ngân sách sẽ giải quyết được mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và chính
quyền địa phương trong việc xử lý các vấn đề về hoạt động của ngân sách nhà nước như quan hệ
về mặt chế độ, chính sách, quan hệ vật chất giữa nguồn thu, nhiệm vụ chi, quan hệ về quy trình
ngân sách.
Việc phân cấp quản lý ngân sách phải dựa trên những nguyên tắc sau:
-Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước phải phù hợp với phân cấp quản lý các mặt khác
của đời sống xã hội và phù hợp với năng lực quản lý của mỗi cấp chính quyền trên địa bàn.
16
-Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước phải đảm bảo vai trò chủ đạo của ngân sách trung
ương và vị trí độc lập, chủ động của ngân sách địa phương.
-Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước phải tôn trọng nguyên tắc công bằng.
Phân cấp ngân sách Nhà nước bao gồm nhiều nội dung nhằm giải quyết các mục tiêu sau:
- Giải quyết mối quan hệ giữa các cấp chính quyền trong việc ban hành các văn bản pháp
luật liên quan tới Ngân sách Nhà nước.
- Giải quyết mối quan hệ vật chất trong quá trình phân giao nhiệm vụ chi, phân phối
nguồn thu và cân đối ngân sách Nhà nước.
- Giải quyết mối quan hệ trong quá trình thực hiện lập, chấp hành và quyết toán ngân sách
Nhà nước.
Xuất phát từ yêu cầu trên, phân cấp quản lý ngân sách nhà nước được thể hiện trên 2
phương diện:
-Xác định nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong quản lý, điều hành ngân
sách, trong quá trình lập, chấp hành, quyết toán ngân sách nhà nước.
-Phân phối nguồn thu, xác định nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách.
2. Nội dung của phân cấp quản lý ngân sách nhà nước:
2.1. Trách nhiệm quyền hạn của các cấp chính quyền trong việc phân cấp quản lý ngân sách:
Liên quan lĩnh vực ngân sách nhà nước, có rất nhiều cơ quan nhà nước có thẩm quyền
được phân định về nhiệm vụ và quyền hạn gắn liền với việc quản lý, thực hiện ngân sách nhà
nước, cụ thể như: Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Ủy ban Kinh tế-Ngân sách thuộc Quốc
hội, Chính phủ, Chủ tịch nước, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch đầu tư, Ngân hàng nhà nước Việt
Nam…
2.1.1 Quốc hội:
Điều 84 Hiến pháp 1992 (sửa đổi bổ sung 2001) nêu rõ: “Quốc hội quyết định chính sách
tiền tệ quốc gia, quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê
chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước, quyết định sửa đổi bãi bỏ các thứ thuế”. Theo đó, nhiệm
vụ, quyền hạn của Quốc hội đối với Ngân sách Nhà nước được ghi nhận tại Điều 15 Luật Ngân
sách Nhà nước năm 2002, cụ thể:
- Ban hành và sửa đổi luật trong lĩnh vực ngân sách Nhà nước. Đây là một trong những
thẩm quyền quan trọng nhất của Quốc hội – cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.
17
- Quyết định chính sách tài chính tiền tệ quốc gia nhằm góp phần phát triển kinh tế, bảo
đảm cân đối ngân sách các cấp.
- Quyết định dự toán ngân sách Nhà nước:
+Tổng số thu ngân sách nhà nước bao gồm thu nội địa, thu từ hoạt động xuất khẩu, nhập
khẩu, viện trợ không hoàn lại.
+Tổng số chi ngân sách nhà nước bao gồm chi ngân sách trung ương chi tiết theo từng
lĩnh vực chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên, chi trả nợ, chi viện trợ, chi bổ sung quỹ dự trữ
tài chính, tổng khối lượng chi ngân sách địa phương
+Mức bội chi và nguồn bù đắp
-Quyết định phân bổ ngân sách trung ương. Trước đây, đối với phương án phân bổ Ngân
sách Nhà nước củaTrung ương, Quốc hội giao cho Ủy ban thường vụ Quốc hội, nhưng hiện nay,
theo Luật Ngân sách nhà nước năm 2002, Quốc hội cũng giữ vai trò trong việc phân bổ ngân
sách nhà nước của trung ương. Nội dung cụ thể bao gồm:
+Tổng số và mức chi từng lĩnh vực
+Dự toán chi của từng bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan
khác ở trung ương theo từng lĩnh vực.
+Mức bổ sung từ ngân sách trung ương cho ngân sách địa phương
- Quyết định điều chỉnh dự toán Ngân sách Nhà nước trong những trường hợp cần thiết.
-Quyết định các chương trình, công trình xây dựng quan trọng mang tầm quốc gia, có ảnh
hưởng to lớn đối với các mặt trong đời sống kinh tế xã hội, được đầu tư vốn Ngân sách Nhà
nước.
- Quốc hội thực hiện quyền giám sát các hoạt động trong lĩnh vực Ngân sách Nhà nước.
-Phê chuẩn quyết toán Ngân sách Nhà nước.
-Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, UBTVQH, Thủ tướng Chính phủ, TANDTC,
VKSNDTC về lĩnh vực tài chính-ngân sách trái với Hiến pháp, luật, Nghị quyết của Quốc hội các
quyết định của Quốc hội, Luật Ngân sách Nhà nước quy định: Ủy ban thường vụ Quốc hội, Ủy
ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội, Hội đồng dân tộc của Quốc hội cũng tham gia vào một số
hoạt động có liên quan đến Ngân sách Nhà nước và mang tính chất giám sát.
2.1.2 Nhiệm vụ, quyền hạn của ủy ban Thường vụ Quốc hội
-Ban hành văn bản pháp luật về lĩnh vực tài chính - ngân sách được Quốc hội giao;
18
-Cho ý kiến về các dự án luật, các báo cáo và các dự án khác về lĩnh vực tài chính - ngân
sách do Chính phủ trình Quốc hội;
- Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội về dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân
sách trung ương năm đầu của thời kỳ ổn định ngân sách, quyết định tỷ lệ phần trăm (%) phân
chia giữa ngân sách trung ương và ngân sách từng địa phương đối với các khoản thu theo quy
định
- Ban hành Quy chế lập, thẩm tra, trình Quốc hội quyết định dự toán ngân sách nhà nước,
phương án phân bổ ngân sách trung ương và phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước;
- Giám sát việc thi hành pháp luật về ngân sách, chính sách tài chính, nghị quyết của
Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về lĩnh vực tài chính - ngân sách; đình chỉ việc thi hành
các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về lĩnh vực tài chính - ngân sách trái với Hiến
pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc hủy bỏ các văn bản đó;
hủy bỏ các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về lĩnh vực tài chính - ngân sách trái
với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; bãi bỏ các nghị quyết của Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh về lĩnh vực tài chính - ngân sách trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc
hội, pháp lệnh và nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
2.1.3. Nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội
1) Thẩm tra dự án luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác về lĩnh vực tài chính - ngân
sách do Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội giao;
2) Chủ trì thẩm tra dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung
ương, các báo cáo về thực hiện ngân sách nhà nước và quyết toán ngân sách nhà nước do Chính
phủ trình Quốc hội;
3) Giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội về lĩnh vực tài chính - ngân sách; giám sát việc thực hiện ngân sách nhà
nước và chính sách tài chính;
4) Giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền ở trung ương hoặc giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cơ quan
trung ương của tổ chức chính trị - xã hội về lĩnh vực tài chính - ngân sách;
19
5) Kiến nghị các vấn đề về quản lý lĩnh vực tài chính - ngân sách.
2.1.4 Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban khác của Quốc hội
1) Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, phối hợp với Uỷ ban kinh tế và ngân
sách của Quốc hội thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, dự toán ngân sách nhà nước, phương án
phân bổ ngân sách trung ương và các dự án khác về lĩnh vực tài chính - ngân sách do Chính phủ
trình Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội;
2) Giám sát việc thực hiện pháp luật về lĩnh vực tài chính - ngân sách và việc thực hiện
nghị quyết của Quốc hội về lĩnh vực tài chính - ngân sách trong lĩnh vực phụ trách;
3) Kiến nghị các vấn đề về tài chính - ngân sách trong lĩnh vực phụ trách.
2.1.5 Nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước
1) Công bố luật, pháp lệnh về lĩnh vực tài chính - ngân sách;
2) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do Hiến pháp và pháp luật quy định trong việc tiến
hành đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam với người đứng đầu Nhà nước khác; trình Quốc hội phê chuẩn điều ước quốc tế đã trực tiếp
ký; quyết định phê chuẩn hoặc gia nhập điều ước quốc tế trừ trường hợp cần trình Quốc hội quyết
định về lĩnh vực tài chính - ngân sách;
3) Yêu cầu Chính phủ báo cáo về công tác tài chính - ngân sách khi cần thiết.
2.1.6 Chính phủ:
Quyền hạn của Chính phủ liên quan tới ngân sách Nhà nước được ghi nhận tại Điều 112
Hiến pháp 1992 và cụ thể hóa nội dung Luật Ngân sách Nhà nước, cụ thể:
- Trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội các dự án luật và pháp lệnh, ban hành các
văn bản pháp quy liên quan đến Ngân sách Nhà nước thuộc phạm vi thẩm quyền của mình.
- Lập và trình Quốc hội thông qua dự toán Ngân sách Nhà nước và dự toán phân bố Ngân
sách Nhà nước, dự toán điều chỉnh Ngân sách Nhà nước trong trường hợp cần thiết, cũng như
quyết tóan các công trình xây dựng quan trọng mang tầm quốc gia đã được Quốc hội quyết định
đầu tư bằng vốn ngân sách.
- Căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ giao
nhiệm vụ thu, chi ngân sách Nhà nước cho từng bộ nhiệm vụ thu, chi và mức bổ sung từ ngân
20
sách Nhà nước Trung ương cho từng địa phương, giao tỷ lệ phần trăm phân chia giữa ngân sách
trung ương và ngân sách địa phương đối với các khoản thu được phân chia theo tỷ lệ giữa ngân
sách trung ương và ngân sách địa phương.
- Trước đây, Chính phủ còn được giao nhiệm vụ tổ chức và kiểm tra việc thực hiện ngân
sách Nhà nước, theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước năm 2002, nhiệm vụ này đã được
phân cấp cho Bộ Tài chính thực hiện.
- Thống nhất quản lý ngân sách nhà nước, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan
quản lý ngành và địa phương trong việc thực hiện ngân sách nhà nước;
- Tổ chức và điều hành thực hiện ngân sách nhà nước được Quốc hội quyết định, kiểm tra
việc thực hiện ngân sách nhà nước, báo cáo Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về tình hình
thực hiện ngân sách nhà nước, các dự án và công trình quan trọng quốc gia, các chương trình phát
triển kinh tế - xã hội, các dự án và công trình xây dựng cơ bản quan trọng khác;
- Quyết định việc sử dụng dự phòng ngân sách; quy định việc sử dụng quỹ dự trữ tài
chính và các nguồn dự trữ tài chính khác của Nhà nước theo quy định của Luật này;
- Quy định hoặc phân cấp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định các định mức
phân bổ và các chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách nhà nước để làm căn cứ xây dựng,
phân bổ và quản lý ngân sách nhà nước thực hiện thống nhất trong cả nước; đối với những định
mức phân bổ và chế độ chi ngân sách quan trọng, phạm vi ảnh hưởng rộng, liên quan đến việc
thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của cả nước, báo cáo Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội cho ý kiến bằng văn bản trước khi ban hành;
- Kiểm tra nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh về dự toán ngân sách, quyết toán
ngân sách và các vấn đề khác thuộc lĩnh vực tài chính - ngân sách; trường hợp nghị quyết của Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh trái với quy định của Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp
lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp
trên thì Thủ tướng Chính phủ đình chỉ việc thực hiện và đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội bãi
bỏ;
- Lập và trình Quốc hội quyết toán ngân sách nhà nước, quyết toán các dự án và công
trình quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định;
- Ban hành quy chế xem xét, quyết định dự toán và phân bổ ngân sách địa phương, phê
chuẩn quyết toán ngân sách địa phương.
21
Ngoài ra, tham gia tổ chức và điều hành Ngân sách Nhà nước còn có các cơ quan chức
năng như Bộ tài chính, Bộ kế hoạch và đầu tư, Ngân hàng Nhà nước…
2.1.7 Bộ Tài chính:
1) Chuẩn bị các dự án luật, pháp lệnh, các dự án khác về lĩnh vực tài chính - ngân sách và
xây dựng chiến lược kế hoạch vay nợ, trả nợ trong nước và ngoài nước trình Chính phủ; ban hành
các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực tài chính - ngân sách theo thẩm quyền;
2) Chủ trì phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan
khác ở trung ương, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong việc xây dựng các định mức phân bổ và các
chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách nhà nước, chế độ kế toán, quyết toán, chế độ báo cáo,
công khai tài chính - ngân sách trình Chính phủ quy định hoặc quy định theo phân cấp của Chính
phủ để thi hành thống nhất trong cả nước;
3) Chủ trì phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan
khác ở trung ương, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh lập dự toán ngân sách nhà nước và phương án phân
bổ ngân sách trung ương; tổ chức thực hiện ngân sách nhà nước; chóng nhất quản lý và chỉ đạo
công tác thu thuế, phí, lệ phí, các khoản thu khác của ngân sách nhà nước, các nguồn viện trợ
quốc tế' tổ chức thực hiện chi ngân sách nhà nước theo đúng dự toán được giao; lập quyết toán
ngân sách trung ương; tổng hợp, lập quyết toán ngân sách nhà nước trình Chính phủ; tổ chức
quản lý, kiểm tra việc sử dụng tài sản của Nhà nước;
4) Kiểm tra các quy định về tài chính - ngân sách của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Hội
đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh; trường hợp quy định
trong các văn bản đó trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên, có quyền kiến
nghị Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ đối với những
quy định của Bộ, cơ quan ngang Bộ; kiến nghị Thủ tướng Chính phủ đình chỉ việc thi hành đối
với những nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh; đình chỉ việc thi hành hoặc kiến nghị Thủ
tướng Chính phủ bãi bỏ đối với những quy định của Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân cấp tỉnh;
5) Thống nhất quản lý nhà nước về vay và trả nợ của Chính phủ, vay và trả nợ của quốc
gia;
22
6) Thanh tra, kiểm tra tài chính - ngân sách, xử lý hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý
theo quy định của pháp luật đối với các vi phạm về chế độ quản lý tài chính - ngân sách của các
Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương, các địa phương,
các tổ chức kinh tế, đơn vị hành chính, đơn vị sự nghiệp và các đối tượng khác có nghĩa vụ nộp
ngân sách nhà nước và sử dụng ngân sách nhà nước;
7) Quản lý quỹ ngân sách nhà nước, quỹ dự trữ nhà nước và các quỹ khác của Nhà nước
theo quy định của pháp luật.
2.1.8 Nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
1) Trình Chính phủ dự án kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và các cân đối
chủ yếu của nền kinh tế quốc dân, trong đó có cân đối tài chính, tiền tệ, vốn đầu tư xây dựng cơ
bản làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch tài chính - ngân sách;
2) Phối hợp với Bộ Tài chính lập dự toán ngân sách nhà nước. Lập phương án phân bổ
ngân sách trung ương trong lĩnh vực phụ trách theo phân công của Chính phủ;
3) Phối hợp với Bộ Tài chính và các Bộ, ngành hữu quan kiểm tra, đánh giá hiệu quả của
vốn đầu tư các công trình xây dựng cơ bản.
2.1.9 Nhiệm vụ, quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
1) Phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng chiến lược, kế hoạch vay nợ, trả nợ trong nước và
ngoài nước, xây dựng và triển khai thực hiện phương án vay để bù đắp bội chi ngân sách nhà
nước;
2) Tạm ứng cho ngân sách nhà nước để xử lý thiếu hụt tạm thời quỹ ngân sách nhà nước
theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
2.1.9. Nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và cơ
quan khác ở trung ương
1) Xây dựng dự toán ngân sách hàng năm của cơ quan mình;
2) Phối hợp với Bộ Tài chính trong quá trình lập dự toán ngân -sách nhà nước, phương án
phân bổ ngân sách trung ương, quyết toán ngân sách thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách;
3) Kiểm tra, theo dõi tình hình thực hiện ngân sách thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách;
23
4) Báo cáo tình hình thực hiện và kết quả sử dụng ngân sách thuộc ngành, lĩnh vực phụ
trách theo chế độ quy định;
5) Phối hợp với Bộ Tài chính trong việc xây dựng chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân
sách thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách;
6) Quản lý, tổ chức thực hiện và quyết toán đối với ngân sách được giao; bảo đảm sử
dụng có hiệu quả tài sản của Nhà nước được giao.
2.1.10 Hội đồng nhân dân các cấp:
-Căn cứ vào nhiệm vụ thu chi ngân sách được cấp trên giao và tình hình thực tế tại địa
phương, Hội đồng nhân dân các cấp được quyết định:
+Dự toán ngân sách Nhà nước cấp mình và ngân sách nhà nước trên địa bàn thuộc địa
phương quản lý. Về nguyên tắc, cấp trên không quyết định chi tiết ngân sách Nhà nước của cấp
dưới. Tuy nhiên, quyết định về ngân sách Nhà nước của Hội đồng nhân dân không thể trái với
định hướng chung, không trái với Nghị quyết của Quốc hội về ngân sách Nhà nước.
+Phân bổ ngân sách Nhà nước (tổng số và mức chi từng lĩnh vực; dự toán chi ngân sách
của từng cơ quan, đơn vị thuộc cấp mình theo từng lĩnh vực; Mức bổ sung cho ngân sách từng địa
phương cấp dưới),
+Phê chuẩn, quyết toán ngân sách Nhà nước cấp mình.
-Quyết định chủ trương, biện pháp để triển khai thực hiện ngân sách địa phương.
-Quyết định điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết.
-Giám sát việc thực hiện ngân sách đã được Hội đồng nhân dân quyết định.
-Bãi bỏ những văn bản quy phạm pháp luật về tài chính-ngân sách của UBND cùng cấp
và Hội đồng nhân cấp dưới trực tiếp trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh,
NGhị quyết của UBTVQH và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên.
-Đối với Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, ngoài các nhiệm vụ quyền hạn nói trên, HĐND cấp
tỉnh còn có nhiệm vụ:
+Quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi cho từng cấp ngân sách ở địa
phương.
+Quyết định tỉ lệ phần trăm phân chia giữa ngân sách các cấp chính quyền địa phương đối
với phần ngân sách địa phương được hưởng từ các khoản thu phân chia giữa các cấp ngân sách ở
địa phương.
24
+Là cơ quan quyền lực ở địa phương, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được quyền ban hành
một số chế độ thu phí, lệ phí, phụ thu theo quy định của Chính phủ. Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh được phép quyết định và thực hiện huy động vốn trong nước cho đầu tư
trong trường hợp cấp tỉnh có nhu cầu đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng mà vượt quá khả
năng cân đối của địa phương. Với quyền hạn này, cấp tỉnh sẽ có thể phát huy tiềm năng để bồi
dưỡng và tăng nguồn thu, chủ động bố trí chi tiêu hợp lý.
+Quyết định cụ thể một số định mức phân bổ ngân sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi
theo quy định của Chính phủ.
2.1.11 Ủy ban nhân dân các cấp:
1) Lập dự toán ngân sách địa phương, phương án phân bổ ngân sách cấp mình theo các
chỉ tiêu quy định; dự toán điều chỉnh ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết, trình Hội
đồng nhân dân cùng cấp quyết định và báo cáo cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan tài chính
cấp trên trực tiếp;
2) Lập quyết toán ngân sách địa phương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp phê chuẩn và
báo cáo cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp;
3) Kiểm tra nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới về tài chính - ngân sách;
4) Căn cứ vào nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp, quyết định giao nhiệm vụ thu,
chi ngân sách cho từng cơ quan, đơn vị trực thuộc; nhiệm vụ thu, chi, mức bổ sung cho ngân sách
cấp dưới và tỷ lệ phần trăm (%) phân chia giữa các cấp ngân sách ở địa phương đối với các
khoản thu phân chia; quy định nguyên tắc bố trí và chỉ đạo thực hiện dự toán ngân sách đối với
một số lĩnh vực chi được Hội đồng nhân dân quyết định
5) Tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện ngân sách đia phương;
6) Phối hợp với các cơ quan nhà nước cấp trên trong việc quản lý ngân sách nhà nước trên
địa bàn;
7) Báo cáo về ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật;
8) Đối với Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, ngoài các nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại các
điểm trên, còn có nhiệm vụ lập và trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định các vấn đề thuộc
thẩm quyền quyết định của Hội đồng nhân dân cùng cấp
9) Chỉ đạo cơ quan tài chính địa phương chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan giúp
Uỷ ban nhân dân thực hiện nhiệm vụ theo quy định
2.1.12. Nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị dự toán ngân sách
1) Tổ chức lập dự toán thu, chi ngân sách thuộc phạm vi quản lý, thực hiện phân bổ dự
toán ngân sách được cấp có thẩm quyền giao cho các đơn vị trực thuộc và điều chỉnh phân bổ dự
toán theo thẩm quyền;
25
2) Tổ chức thực hiện dự toán thu, chi ngân sách được giao; nộp đầy đủ, đúng hạn các
khoản phải nộp ngân sách theo quy định của pháp luật; chi đúng chế độ, đúng mục đích, đúng đối
tượng và tiết kiệm; quản lý, sử dụng tài sản của Nhà nước đối với các đơn vị trực thuộc theo đúng
chế độ quy định;
3) Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện thu, chi ngân sách đối với các đơn vị trực thuộc;
4) Chấp hành đúng quy định của pháp luật về kế toán, thống kê; báo cáo, quyết toán ngân
sách và công khai ngân sách theo quy định của pháp luật; duyệt quyết toán đối với các đơn vị dự
toán cấp dưới;
5) Đối với các đơn vị dự toán là đơn vị sự nghiệp, ngoài nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại
các điểm trên còn được chủ động sử dụng nguồn thu sự nghiệp để phát triển và nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động theo quy định của Chính phủ.
2.1.13 Tổ chức, cá nhân
1) Nộp đầy đủ, đúng hạn các khoản thuế, phí, lệ phí và các khoản phải nộp khác vào ngân
sách theo quy định của pháp luật;
2) Trường hợp được Nhà nước trợ cấp, hỗ trợ vốn và kinh phí theo dự toán được giao thì
phải quản lý, sử dụng các khoản vốn và kinh phí đó đúng mục đích, đúng chế độ, tiết kiệm, có
hiệu quả và quyết toán với cơ quan tài chính;
3) Chấp hành đúng quy định của pháp luật về kế toán, thống kê và công khai ngân sách.
2.2. Phân định nhiệm vụ chi, nguồn thu giữa các cấp ngân sách Nhà nước:
2.2.1 Nguyên tắc:
-Ngân sách trung ương-ngân sách mỗi cấp chính quyền địa phương được phân định nguồn
thu, nhiệm vụ chi cụ thể. Việc phân định được đảm bảo bằng pháp luật. Các cấp chính quyền
không được phép đặt ra hoặc điều chỉnh khoản thu của ngân sách cấp mình. Mỗi cấp ngân sách
chỉ phải tiến hành nhiệm vụ thu chi trên cơ sở luật định.
-Bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới phải đảm bảo công bằng, đảm bảo
yêu cầu phát triển cân đối giữa các vùng, địa phương. Số bổ sung này là khoản thu của ngân sách
cấp dưới. Việc bổ sung không phải được thực hiện đồng loạt đối với mọi cấp ngân sách mà dựa
trên khả năng thu, nhiệm vụ chi của mỗi cấp ngân sách mà ngân sách cấp trên sẽ thực hiện việc
cấp bổ sung.
-Không được dùng ngân của cấp này để chi cho nhiệm vụ của cấp ngân sách khác.
Trường hợp cơ quan quản lý nhà nước cấp trên ủy quyền cho cơ quan quản lý nhà nước cấp dưới
thực hiện nhiệm vụ chi thuộc chức năng của mình thì phải chuyển kinh phí từ ngân sách cấp trên
cho cấp ngân sách thực hiện nhiệm vụ đó.
2.2.2 Phân định nguồn thu nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách: