Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Dàn bài và những bài văn mẫu về bài thơ tây tiến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.37 KB, 25 trang )

A. BỐ CỤC, DÀN Ý CHI TIẾT PHÂN TÍCH BÀI THƠ TÂY TIẾN
I. MỞ BÀI
1. Giới thiệu tác giả Quang Dũng:
- Quang Dũng (1921 – 1988) là nhà thơ đa tài nổi tiếng với phong cách sáng
tác vừa hồn nhiên vừa tinh tế, lãng mạn và hào hoa.
2. Giới thiệu bài thơ Tây Tiến:
- Tây Tiến là bài thơ hay mang đậm nét hào hùng, bi tráng pha chất lãng mạn,
tiêu biểu cho phong cách thơ Quang Dũng.
II. THÂN BÀI

1. Khái quát chung về bài thơ Tây Tiến
- Tây Tiến: là tên một đoàn quân được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ kết
hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Việt - Lào, làm hao mòn lực lực giặc Pháp.
- Xuất thân lính Tây Tiến: phần đơng là người Hà Nội, trong đó có nhiều
học sinh, sinh viên.
- Hoàn cảnh sáng tác: Năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây
Tiến, là đại đội trưởng. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển về đơn vị mới, nhớ
đơn vị cũ, ông đã viết bài thơ tại Phù Lưu Chanh (Hà Tây).
- Chủ đề bài thơ: Ca ngợi vẻ đẹp của người lính Tây Tiến, cũng là vẻ đẹp
của những người lính trong kháng chiến chống Pháp, thể hiện tình cảm sâu nặng
của nhà thơ với đơn vị Tây Tiến, với cảnh vật và con người Tây Bắc một thời gắn
bó.
2. Thiên nhiên Tây Bắc và hình ảnh người lính trên con đường hành
quân gian khổ
- Hai câu thơ đầu: nỗi nhớ thốt lên thành lời “Tây Tiến ơi” là tiếng gọi thân
thương, “nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ thường trực, bao trùm không gian.
- Bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hoang sơ và dữ dội:
+ Địa danh Sài Khao, Mường Lát gợi sự hẻo lánh, xa xôi;
+ Các từ láy giàu tính tạo hình: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, điệp
từ “dốc”, nghệ thuật điệp “Dốc lên ... dốc lên” gợi địa hình hiểm trở, quanh co, gập
ghềnh.


+ Hình ảnh “súng ngửi trời” thể hiện tầm cao của núi non mà người lính phải
vượt qua nhưng cũng có cái hóm hỉnh của người lính trong đó.
+ Nhịp thơ bẻ đôi “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” gợi tả sự nguy
hiểm tột cùng.
+ Hình ảnh nhân hóa: “cọp trêu người”, “thác gầm thét” gợi sự hoang sơ,
man dại; thời gian: “chiều chiều”, “đêm đêm” những người lính phải thường xuyên
đối mặt với điều hiểm nguy chốn rừng thiêng nước độc.


+ Sử dụng phần lớn các thanh trắc nhằm nhấn mạnh sự trắc trở, ghập ghềnh
của địa hình.
- Khung cảnh thiên nhiên cũng có lúc êm dịu, mang đậm hương vị cuộc
sống: “nhà ai Pha Lng...”, “cơm lên khói”, “Mai Châu mùa em...”, thanh bằng
tạo cảm giác nhẹ nhàng, yên bình.
- Hình ảnh bi hùng về người lính Tây Tiến “dãi dầu không bước nữa”, “gục
lên súng mũ bỏ quên đời”: có thể hiểu hai câu thơ đơn thuần miêu tả khoảnh khắc
nghỉ ngơi của người lính sau cuộc hành quân dài, cũng có thể hiểu đó là sự nghỉ
ngơi vĩnh viễn.
- Nhận xét: Thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ nhưng đầy rẫy những hiểm nguy,
đó chính là những thử thách đối với những người lính Tây Tiến trên chặng đường
hành quân.
3. Kỉ niệm đẹp về tình quân dân gắn bó, vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc
- Kỉ niệm đêm liên hoan thắm tình qn dân:
+ Khơng khí đêm liên hoan tưng bừng với mà sắc rực rỡ, lộng lẫy: “bừng
lên”, “hội đuốc hoa”, “khèn lên man điệu”; con người duyên dáng: “xiêm áo”,
“nàng e ấp”.
+ Tâm hồn người lính bay bổng, say mê trong khơng khí ấm áp tình người:
“Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.
- Khung cảnh sông nước, con người vùng Tây Bắc:
+ Đẹp huyền ảo, hoang dại, thiêng liêng: “Chiều sương”, “hồn lau nẻo bến

bờ”
+ Con người lao động bình dị, mộc mạc: “dáng người trên độc mộc”, cảnh
vật duyên dáng, đầy sức sống: “trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
- Nhận xét: nhờ bút pháp lãng mạn, quang Dũng đã vẽ nên bức tranh thiên
nhiên thơ mộng, cuộc sống sinh hoạt đầm ấm và hình ảnh con người duyên dáng
của vùng Tây Bắc.
4. Bức chân dung người lính Tây Tiến
- Chân dung người lính được miêu tả chân thực: “đồn binh khơng mọc tóc”,
“ xanh màu lá”, họ sống và chiến đấu trong điều kiện khắc nghiệt, thiếu thốn, gian
khổ nhưng vẫn mạnh mẽ “dữ oai hùm”.
- Họ là những con người có tâm hồn lãng mạn, trái tim yêu thương “Mắt
trừng gửi mộng”/ “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”, lấy hình bóng người thương
nơi quê nhà làm động lực chiến đấu.
- Vẻ đẹp bi tráng thể hiện qua sự hi sinh anh dũng của họ:
+ Sẵn sàng công hiến tuổi trẻ của mình cho đất nước “rải rác biên cương mồ
viễn xứ”, “chẳng tiếc đời xanh”, “anh về đất”, ra đi thanh thản, nhẹ nhàng.
+ Cái chết đã được lí tưởng hóa như hình ảnh những tráng sĩ xưa: “áo bào”,
“khúc độc hành”; thiên nhiên cũng đau đớn thay cho nỗi đau họ phải chịu.


- Nhận xét: Dù trong hồn cảnh khó khăn những người lính Tây Tiến vẫn có
những nét lãng mạn, hào hoa. Họ mang vẻ đẹp kiêu hùng, sẵn sàng hi sinh cho tổ
quốc.
5. Lời hẹn ước, lời thề gắn bó với đoàn quân tây tiến và miền Tây Bắc
- Câu thơ nhắc nhớ lại ý nguyện, quyết tâm ra đi một thời của đồn qn Tây
Tiến: “người đi khơng hẹn ước”, còn là sự tiếc thương những đồng đội đã hi sinh
“thăm thẳm một chia phôi”.
- Niềm thương, nỗi nhớ, tình cảm gắn bó của tác giả ln gửi lại nơi đoàn
quân Tây Tiến: và vùng rừng núi Tây Bắc “Ai lên Tây Tiến... / Hồn về Sầm Nứa
chẳng về xi”

III. KẾT BÀI PHÂN TÍCH BÀI THƠ TÂY TIẾN

- Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ
+ Nội dung: Khắc họa thành cơng hình tượng người lính Tây Tiến trên nền
thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội và mĩ lệ với hình tượng mang vẻ đẹp
lãng mạn, đậm chất bi tráng.
+ Nghệ thuật: Bút pháp lãng mạn và cảm hứng bi tráng, sáng tạo độc đáo về
hình ảnh, ngơn từ và giọng điệu
Hình ảnh thơ sáng tạo mang sắc thái thẩm mĩ phong phú
Ngôn ngữ thơ đa sắc thái, phong cách; (trang trọng, cổ kính; sinh động gợi tả
gợi cảm…), có những kết hợp từ độc đáo (nhớ chơi vơi, Mai Châu mùa em…), tên
địa danh vừa cụ thể xác thực vừa gợi cảm giác lạ lẫm...
Giọng điệu: Khi tha thiết bồi hồi, khi hồn nhiên vui tươi, khi bâng khuâng
man mác, khi trang trọng, khi trầm lắng…
- Nêu một vài suy nghĩ, cảm xúc của em về bài thơ.


B. SƠ ĐỒ TƯ DUY PHÂN TÍCH BÀI TÂY TIẾN


C. MỘT SỐ BÀI VĂN MẪU HAY PHÂN TÍCH BÀI THƠ TÂY TIẾN
1. PHÂN TÍCH BÀI THƠ TÂY TIẾN - MẪU SỐ 1:

Trong nền thơ ca kháng chiến Việt Nam giai đoạn 1945 -1954, Quang Dũng
là một trong những nhà thơ tiêu biểu. Ông là một nhà thơ đa tài, nổi bật hơn cả là
lĩnh vực thơ văn với tập thơ nổi tiếng “Mây đầu ơ”, trong đó đặc sắc hơn cả là bài
thơ Tây Tiến.
Bài thơ Tây Tiến thể hiện nỗi nhớ của nhà thơ về thiên nhiên Tây Bắc hùng
vĩ mà lãng mạn, n bình:
“Sơng Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Bài thơ mở đầu bằng một nỗi nhớ:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Nhà thơ gọi tên sông Mã – con sông chảy qua một số tỉnh miền tây Thanh
Hóa, là con sơng gắn liền với cuộc trường chinh của người lính Tây Tiến. Bởi thế
cho nên trong cảm nhận của nhà thơ con sông như một chứng minh lịch sử, một
người bạn đồng hành trong suốt cuộc hành trình. Nhưng giờ “sơng Mã xa rồi…” tất
cả những kỷ niệm của một thời bão lửa đã lùi xa vào dĩ vãng. Tuy vậy nỗi nhớ về
đồng đội vẫn ln nóng hổi, tươi ngun như ngày nào để rồi tác giả phải thốt lên
“Tây Tiến ơi”. Nhà thơ gọi tên đoàn quân Tây Tiến như gọi tên những người thân
yêu ruột thịt nhất của mình. Chỉ một từ “ơi” ấy thôi người đọc như cảm nhận được
những cảm xúc dồn nén, những nỗi nhớ niềm thương tha thiết, cháy bỏng của nhà
thơ. Cùng với nỗi nhớ về đoàn quân Tây Tiến là nỗi nhớ về rừng núi thiên nhiên:
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Chỉ một dịng thơ thơi nhưng với điệp từ “nhớ” ta như thấu hiểu những cảm
xúc trong lòng nhà thơ. Nhà thơ nhớ về cảnh sắc thiên nhiên, nhớ về nơi in dấu bao
bước chân của đoàn quân Tây Tiến với nỗi nhớ “chơi vơi”. Quang Dũng thật tài
tình khi đong đầy tất cả những cung bậc tình cảm, cảm xúc trong nỗi nhớ ấy. “Nhớ
chơi vơi” ấy là nỗi nhớ khơng rõ nét, khơng xác định, khó nắm bắt, một nỗi nhớ
khiến con người ta có thể thốt khỏi thực tại để chìm đắm trong những kỷ niệm
ngày xưa. Trong ca dao cũng từng có những nỗi nhớ như vậy:
“Ra về nhớ mãi chơi vơi”
Hay Xuân Diệu cũng từng viết:
“Tương tu nâng lòng lên chơi vơi”
Tuy vậy nỗi nhớ “chơi vơi” trong thơ Quang Dũng lại có sức ám ảnh thật
lớn, đọng lại trong lòng người đọc một ấn tượng khơng phai nhịa. Hai câu thơ
mang chút gì đó bâng khuâng, hoài niệm gợi lại những kỷ niệm thân thương. Ta



như thấu hiểu hơn tâm hồn của một nghệ sĩ, Quang Dũng dường như đang bứt
mình khỏi thực tại để đắm chìm trong những nỗi nhớ “chơi vơi”.
Từ nỗi nhớ ấy, hình ảnh đồn qn Tây Tiến hiện về:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”
Biết bao địa danh được nhắc đến trong bài thơ, đã từng có ý kiến cho rằng:
"những tên đất, tên làng, bao cái tên đọc lên mà muốn khóc”, đó là nơi đã in dấu
bước chân mà đoàn quân từng đi qua mỗi một vùng đất, địa danh như nhân chứng
sống cho cuộc hành trình của đồn qn. Từ câu thơ trên ta như hình dung được
thật rõ nét cuộc hành trình. Đồn qn Tây Tiến đi trong sương mù dày đặc của núi
rừng, hình ảnh họ như chìm đi, ẩn hiện trong lớp sương huyền ảo. Hình ảnh “sương
lấp” gợi sự khắc nghiệt của thời tiết, khí hậu miền tây. Trong suốt cuộc hành trình
của mình họ phải đi trong sương mù dày đặc do đó khơng tránh khỏi cảm giác mệt
mỏi.
Nếu như câu thơ trên nhà thơ đặc tả hoàn cảnh khắc nghiệt của thời tiết thì
câu dưới lại phác họa vẻ đẹp cảnh sắc thiên nhiên và tâm hồn người lính:
“Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Quang Dũng quả thật tài tình trong việc sử dụng từ ngữ. Nếu như bao người
nói hoa nở thì nhà thơ lại nói “hoa về”, đó là một sự nhân hóa độc đáo khơn cùng.
Những đóa hoa xuất hiện trong “đêm hơi”, lạ lẫm thay, sao không phải là đêm
sương? Phải chăng nếu trong đêm sương lạnh giá ta sẽ khơng thể nhìn thấy hoa. Để
rồi, nhà thơ để hoa về trong “đêm hơi”. Qua hai chữ “đêm hơi” ta như hình dung ra
một khơng gian lung linh huyền ảo của núi rừng nơi đây. Trong không gian ấy hoa
muôn sắc màu trở nên đẹp hơn, lộng lẫy hơn. Hai câu thơ như hai nét vẽ tương
phản thể hiện hai cực điểm nổi bật của mảnh đất miền Tây khắc nghiệt thật đấy
nhưng thơ mộng đẹp đẽ vơ cùng. Và có lẽ những người lính Tây Tiến hẳn phải tinh
tế, lãng mạn lắm mới có thể cảm nhận được vẻ đẹp của núi rừng nơi đây, Những
khó khăn của hồn cảnh sống khơng làm mất đi ở họ nét phong phú trong thế giới
tâm hồn. Như vậy, bốn câu thơ đầu của bài thơ đã thể hiện được cảm xúc của “Tây

tiến” nhớ cảnh bao nhiêu thì nhớ người bấy nhiêu, đặc biệt là nỗi nhớ đồng đội –
những con người đã cùng nhau vào sinh ra tử, xông pha nơi trận mạc bão bùng.
“Dốc lên khúc khuỷudốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Bốn câu thơ được đánh giá là những câu thơ tuyệt bút, thể hiện sự tài hoa của
Quang Dũng, phối thanh, gieo vần, sử dụng từ láy. Đồng thời đó chính là bức
tranh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, dữ dội vô cùng. Trong câu thơ thứ nhất mật độ
thanh trắc dày đặc đã tạo nên cái trúc trắc, không bằng phẳng trong từng câu chữ.
Phải chăng đó là cái gập ghềnh uốn khúc của con đường. Các cặp từ “dốc” gợi hình
ảnh những con dốc trùng điệp, gian nan, khó nhọc vơ cùng. Và nếu như “khúc
khuỷu” gợi những con dốc trắc trở gập ghềnh thì “thăm thẳm” khơng chỉ gợi độ cao


mà cịn gợi chút gì đó lạnh lẽo heo hút bởi độ cao của vực sâu. Đường hành quân
gian nan biết bao, ta như nghe thấy từng hơi thở gấp gáp, nhọc nhằn của những
người lính. Họ đi trên đường hành quân mà như đang bồng bềnh giữa biển mây,
mũi súng chạm trời. Câu thơ không những gợi độ cao mà cịn thể hiện chút gì đó
tinh nghịch, hồn nhiên, hóm hỉnh đầy chất lính. Con đường giờ đây bỗng trở nên xa
tít, nhưng chưa hết:
“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”
Nhờ thơ đặt dấu phẩy giữa câu thơ hay chăng là một dụng ý nghệ thuật, dấu
phẩy ấy khiến cho câu thơ như gập làm đơi để ta hình dung về một con đường gấp
khúc với muôn vàn gian nan trắc trở. Câu thơ được viết với thủ pháp nghệ thuật đối
lập độc đáo. Con đường như gấp khúc ngàn thước, ngàn thước…Lên cao thì cao tít
tắp mà xuống thì khiến người ta chóng mặt vì một bên là dốc cao thẳng đứng một
bên là vực thẳm không giới hạn. Rõ ràng thiên nhiên Tây Bắc rất giữ dội, nó như
thử thách lịng quả cảm, ý chí sắt đá của con người. Người lính Tây Tiến hẳn rất
can trường, dũng cảm thì mới vượt qua những khó khăn ấy. Câu thơ dường như tả

cảnh nhưng để tô đậm tầm vóc ý chí người lính Tây tiến.
Nếu như ba câu thơ trên được gieo nhiều thanh trắc thì câu dưới lại được tạo
nên bởi hàng loạt thanh bằng:
“Nhà ai Pha Lng mưa xa khơi”
Những người lính Tây tiến đơi lúc dừng chân trên cuộc hành trình. Họ dừng
chân để hướng con mắt nhìn về những ngơi nhà sàn của nhân dân nép mình trong
những triền núi, thung lũng sâu xa. Đâu đó trên đường hành qn, những người
lính nhìn thấy những ngơi nhà sàn hình ảnh ấy dường như mang lại sự ấm lòng cho
những người con nơi chiến trường gian khổ.
Quang Dũng đã miêu tả rất chân thực cuộc hành quân của những người lính.
Dường như những tên đất, tên làng kia đã trở nên quá đỗi thân thuộc với họ. Để rồi
hình ảnh những người lính hiện lên thật ấn tượng.
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Đã từng có người cho rằng, trong hai câu thơ này người lính gục súng mà
ngủ nhưng cũng có ý kiến cho rằng người lính “khơng bước nữa” ấy là họ hi sinh.
Đặt trong chỉnh thể ta nên hiểu những người lính đã hi sinh. Sự hi sinh ấy của họ
thanh thản, nhẹ nhàng. Với họ chết chỉ là đôi bàn chân không bước nữa, chết chỉ là
chìm sâu vào giấc ngủ. Người lính ở đây hi sinh trong tư thế hành quân: mũ vẫn
trên đầu, súng vẫn cầm trên tay. Dường như ta đã từng bắt gặp người lính hi sinh
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ:
“Và anh chết khi đang đứng bắn
Máu anh phun như lửa đạn cầu vồng”
(Lê Anh Xuân)
Tuy chìm đắm trong tư thế hi sinh đẹp đẽ của những người lính nhưng hình
ảnh cảnh sắc thiên nhiên miền Tây Bắc vẫn ám ảnh trong tâm trí nhà thơ:


“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêungười”

Thiên nhiên miền Tây được miêu tả qua âm thanh của tiếng tác gầm thét
tiếng cọp trêu người, hai câu thơ gợi sự dữ dội của chốn rừng thiêng nước độc,
thâm sâu cùng cốc. Đặc biệt với những từ láy chỉ thời gian “chiều chiều, đêm đêm”
người đọc dường như thấu hiểu phần nào nỗi khó khăn gian nan vất vả mà người
lính Tây Tiến phải trải qua. Thiên nhiên miền Tây Bắc càng khắc nghiệt bao nhiêu
thì những người lính càng can trường bấy nhiêu. Quang Dũng đẫ viết về cuộc hành
quân của những người lính Tây Tiến bằng chính sự thấu hiểu của một người từng
trải.
“Nhớ ơi Tây tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xơi”
Trên đường hành qn người lính nhớ những bữa cơm ấm áp tình đồng đội,
nhớ tới hương vị của tình quân dân. Mùa thơm nếp xôi quấn quýt, vấn vị vào tâm
trí con người. Dường như trong câu thơ của Quang Dũng ta vẫn cảm nhận được
mùi thơm của nếp xơi, kỷ niệm đã qua rồi ma như vẫn cịn tươi mới đây thơi.
Hai câu thơ khép lại với hình ảnh núi cao vực thẳm, mùi hương thơm của
nếp xôi vương vấn để mở ra một thời gian khác trong đoạn tiếp theo:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo từ bao giờ
Khèn lên man điệunàng e ấp
Nhác về Viên chăn xây hồn thơ”
Đêm hội tràn đầy ánh sáng, ánh sáng của những bó đuốc như bơng hoa lửa
trong đêm tràn đầy màu sắc, nhộn nhịp, rồn ràng âm thanh của tiếng khèn man
điệu. Nếu như cảnh sắc thiên nhiên miền tây gợi cái heo hút thâm u của núi rừng thì
giờ đây tất cả đã lùi xa. Những người lính được chìm đắm trong tiếng khèn man
điệu, trong những điệu nhạc rộn ràng, tươi vui.
Trong khung cảnh thiên nhiên đất trời ấy, người lính Tây Tiến hiện lên với
vẻ đẹp hào hùng và hào hoa:
“Tây Tiến đoàn binh khơng mọc tóc
Qn xanh màu lá giữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Đến đây hình ảnh người lính mới được hiện lên một cách trọn vẹn, nhà thơ
sử dụng từ "đoàn binh" cùng nhịp thơ chắc khỏe mang đậm hào khí.
Đồn binh được miêu tả hết sức dị thường: “Tây Tiến đồn binh khơng mọc
tóc”, bệnh sốt rét đã làm cho tóc của những người lính khơng mọc được. “Qn
xanh màu lá” đây có thể hiểu là màu xanh của lá ngụy trang hay bệnh sốt rét đã làm
cho nước da của người lính trở nên xanh xao.


Phải chăng ta nên hiểu đó chính là những di chứng của bệnh sốt rét. Trên
đường hành quân những người lính phải đi qua bao chốn rừng thiêng nước độc, thử
hỏi làm sao họ tránh khỏi căn bệnh sốt rét quái đản kia.
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Cái mộng ở đây chính là cái mộng chiến đấu lập công cho đất nước. Từ “mắt
trừng” gợi ý chí chiến đấu quyết tâm của người lính Tây Tiến, khao khát được xả
thân vì từng tấc đất của quê hương tổ quốc, ánh lên khát vọng hoài bão lớn lao của
tuổi trẻ.
“Rải rác biên cương mồviễn xứ”
Giữa lúc thơ ca giai đoạn kháng chiến chống Pháp tránh nói về sự hi sinh
mất mát thì Quang Dũng lại nói nhiều về điều đó, bởi chiến tranh nào tránh khỏi sự
mất mát hi sinh. Trong câu thơ trên nhà thơ sử dụng nhiều từ Hán Việt làm sang
trọng cái chết của người lính. Nơi biên cương của tổ quốc có biết bao nấm mồ vơ
danh. Những người lính Tây Tiến là những người lính vơ danh nhưng họ đã làm ra
đất nước. Chính vì vậy lời thơ khơng chùng xuống mà hào hùng hơn ở những câu
thơ tiếp theo:
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Câu thơ nói về cái đẹp trong lý tưởng sống của người lính Tây Tiến, các anh
đã dâng hiến đời mình khơng hề tiếc vì khúc khải hồn ca của đất nước của dân
tộc: “chẳng tiếc” vừa gợi sự ngang tàng, khẩu khí, bất cần, câu thơ như một câu nói

cửa miệng của người lính.
Biết bao người đã ra đi, đã sống theo phương châm quyết tử cho tổ quốc
quyết sinh đó là Vũ Xuân, là Đặng Thùy Trâm:
“Chúng tôi đi không tiếc đời mình
Nhưng tuổi 20 làm sao chẳng tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi 20
Thì làm gì cịn tổ quốc”
(Trường ca những người đi tới biển)
Những người lính đã hi sinh vì phương châm ấy, bởi vậy Quang Dũng đã
tiễn đưa họ:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Tây Tiến gầm lên khúc độc hành”
Chiếc “áo bào” vốn là chiếc áo quan trọng vua ban cho chiến sĩ ngày xưa khi
ra trận. Thực tế những người lính Tây Tiến khơng hề có áo bào bọc thây khi khâm
liệm. Trong hình dung của Quang Dũng, các anh về với đất mẹ trong chiếc áo sang
trọng của tráng sĩ ngày xưa. Hình ảnh áo bào ấy vừa làm sang trọng cái chết của
người lính vừa an ủi những người cịn sống. Lời thơ khơng gợi sự bi lụy, yếu mềm,
đau thương dù là viết về sự hi sinh mất mát. Tiễn đưa người lính về với đất mẹ thân
u có tiếng gầm của dịng sơng Mã:
“Sơng Mã gầm lên khúc độc hành”


Nếu như trong văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, văn tế Trương Quỳnh Như là tiếng
khóc của con người dành cho con người thì ở đây Quang Dũng nói về tiếng khóc
của thiên nhiên. Đây chính là khúc tráng ca anh hùng tử sĩ, một nghi thức tiễn đưa
rất thiêng liêng. Khơng phải là tiếng khóc của con người mà là tiếng khóc của thiên
nhiên, những gì mà các anh đã làm mãi trường tồn.
Những người lính Tây Tiến biết rằng ra đi sẽ chẳng ngày về, sẽ phải đối diện
với con đường thăm thẳm, chia phôi nhưng vẫn đi vì tổ quốc cần họ.
Quang Dũng đã viết về người lính Tây Tiến với tất cả nỗi nhớ, niềm thương,

sự ngưỡng mộ, sự tự hào xen lẫn niềm xót xa tiếc nuối. Nhà thơ viết bằng bút pháp
hiện thực và lãng mạn nhưng nghiêng nhiều về lãng mạn. Bài thơ độc đáo trong
việc xây dựng hình ảnh, gieo vần, phối thanh, ngắt nhịp. Tất cả đã làm sống lại
trong lòng người đọc một thời kỳ không thể nào quên của dân tộc. Đọc Tây Tiến ta
sẽ thấu hiểu hơn vẻ đẹp của những người lính chống Pháp, hiểu hơn về đất nước ta
một thời kỳ trận mạc, hiểu hơn giá trị của hịa bình của sự mất mát hi sinh để ta trân
trọng hơn những ngày tháng được sống trong độc lập, tự do hơm nay.
2. PHÂN TÍCH BÀI THƠ TÂY TIẾN - MẪU SỐ 2:

“Có một bài ca khơng bao giờ quên…”
Có một bài ca như thế. Cũng có những năm tháng không bao giờ quên,
không phai mờ trong ký ức của nhiều thế hệ đã qua, hôm nay và mai sau. Đó chính
là những ngày tháng kháng chiến chống Pháp, khi toàn dân tộc ta vừa qua nạn đói,
vừa giành được độc lập thì thực dân Pháp trở lại xâm lược. Dấu ấn của nạn đói năm
1945 vẫn còn, rất đậm trong mỗi người dân Việt Nam. Tự do hay trở về với cuộc
đời cũ? Đó là câu hỏi day dứt bao người. Theo tiếng gọi của tự do, những người
nông dân, công dân, học sinh, những người mẹ, người chị… tham gia kháng chiến,
tạo nên hào khí dân tộc của một thời đại. Trong những năm tháng đáng nhớ ấy, văn
học dù chưa dám nói là đã ghi lại trọn vẹn bộ mặt đất nước, nhưng cũng đã ghi lại
được hào khí của một thời với hình ảnh bao người mà hình ảnh trung tâm là người
chiến sĩ cụ Hồ. Bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng ra đời trong hồn cảnh chung
đó.
Bài thơ sáng tác tại Phù Lưu Chanh vào năm 1948 khi Quang Dũng đã
chuyển đơn vị. Nhưng những ngày tháng Quang Dũng chiến đấu, sống ở đoàn quân
Tây Tiến chưa lâu, với những kỷ niệm khó quên nên nỗi nhớ Tây Tiến da diết, cồn
cào trong lịng tác giả. Tồn bài thơ là một nỗi nhớ. Tác giả nhớ về cuộc sống gian
khổ, nhớ về kỷ niệm những đêm liên hoan, về cái âm u, hoang dã của rừng núi và
in đậm nhất là nỗi nhớ của người lính Tây Tiến. Ra đi kháng chiến khi còn là thanh
niên, học sinh Hà Nội, Quang Dũng trở thành người lính. Kỷ niệm làm người lính
Tây Tiến đã xa mà lại rất gần, để ghi nhớ lại, tác giả phải bật lên:

"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!"
Câu thơ kết thúc bằng dấu chấm than cùng âm hưởng của vần ơi, tạo nên sức
mạnh lớn. Hình ảnh đó là tiếng nói của Quang Dũng vang vọng đến đoàn quân Tây


Tiến? Khơng ! Đó là tiếng lịng của tác giả “xa rồi Tây Tiến ơi!” nhưng tấm lịng
thì vẫn tha thiết lắm ! Âm hưởng câu thơ có sức vọng làm cho tiếng lịng của
Quang Dũng như xốy vào tâm hồn người đọc rung theo những xúc cảm do câu
đầu mang lại để đến với nỗi nhớ Tây Tiến:
"Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi"
Nỗi nhớ mới lạ lùng làm sao? “Nhớ chơi vơi” ! Hình như trong ca dao ta
cũng từng bắt gặp:
R
" a về nhớ bạn chơi vơi"
Nỗi nhớ “chơi vơi” là nỗi nhớ khơng định hình khó nắm bắt đã diễn tả bằng
lời. Nỗi nhớ ấy vừa bao la, bát ngát lại vừa có chiều sâu. Nó muốn tràn ra khơng
gian để xốy vào lịng người. Một người ngồi cuộc hẳn khơng thể có nỗi nhớ ấy.
Chỉ có Quang Dũng với nỗi lịng của mình mới có nỗi nhớ ấy mà thơi. Với tấm
lịng tha thiết thì hẳn nỗi “nhớ chơi vơi” là điều hồn tồn có lí. Cũng vẫn sử dụng
vần “ơi”, câu thơ có sức lan toả rộng. Vần “ơi” lan ra theo nỗi nhớ “chơi vơi” của
tác giả.
Thông thường khi nhớ về một điều gì, người ta thường nhớ đến những kỉ
niệm để lại dấu ấn không quên. Quang Dũng nhớ đầu tiên là nhớ về rừng núi: "Nhớ
về rừng núi…". Rừng núi là nơi xưa kia tác giả cùng đồng đội đã cùng sống, cùng
chiến đấu. Rừng núi in đậm bao nỗi khổ, bao niềm vui nỗi buồn của những người
chiến sĩ. Hơn ai hết, tác giả là người trong cuộc, tác giả nhớ về rừng núi, những khó
khăn gian khổ mà mình đã từng nếm trải:
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi."
Mặc dù cuộc sống gian khổ không phải là điều nhà thơ chú trọng phác hoạ
nhưng trước mắt ta vẫn hiện ra cái khắc nghiệt của rừng núi. Nhà thơ Tố Hữu đã
từng có những câu thơ:
"Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan khơng núng, chí khơng mịn !"
Tố Hữu mơ tả thẳng cảnh sống người lính. Quang Dũng khơng làm thế,
Quang Dũng chỉ mô tả cái hoang vu, hoang dã của một vùng rừng núi nhưng qua
cảnh đó ai cũng hiểu rằng đời lính là như thế đó. Họ sống giữa thiên nhiên như vậy
đó. Với những địa danh xa lạ “Sài Khao”, “Mường Lát”, “Pha Luông”, rừng núi
như càng trở nên xa ngái, hoang vu hơn. Hơn thế, cần phải nhớ rằng đoàn quân Tây
Tiến hầu như toàn là những chàng trai trẻ Hà Nội theo tiếng gọi kháng chiến ra đi,
nhiều người còn là học sinh nên cảnh núi rừng càng xa lạ, đáng sợ hơn. Quang


Dũng là người trong cuộc sống hiểu tâm lý ấy rất rõ. Nỗi nhớ rừng núi bắt đầu
bằng những cuộc hành quân.
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi."
Những cuộc hành quân đi qua và những cuộc hành quân mới lại tiếp nối
trong cuộc đời người lính của Quang Dũng. Nhưng có lẽ cái mỏi mệt của những
cuộc hành quân lần đầu sẽ không bao giờ đi qua cùng năm tháng cũng như rừng
sương “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” sẽ in mãi dấu ấn, câu thơ chùng
xuống, đều đều gợi lên sự mỏi mệt, bải hoải làm ta tưởng chừng như đồn qn
Tây Tiến sắp ngã, sắp chìm đi trong sương. Nhưng không, âm điệu bài thơ lại vút
lên bởi một câu vần bằng:
“Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Câu thơ ấy đã xoá đi cái mỏi mệt của đồn qn Tây Tiến, để đồn qn tiếp

bước. Những khó khăn lại cứ rải trên đường người lính đi qua:
"Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống"
Hình ảnh “khúc khuỷu” làm nên cảm giác hình như con đường đi khó khăn
quá! “Dốc thăm thẳm” lại làm cho những khó khăn như nhiều hơn, dài ra theo tính
chất “thăm thẳm” của con dốc và trên những đường dốc ấy, “súng ngửi trời”. Chỉ
riêng “heo hút cồn mây” đã gợi một khơng khí vắng vẻ, hoang sơ của núi rừng,
súng ngửi trời cộng vào cái vẻ đơn độc của những người lính khi đứng giữa đèo
cao.
Những khó khăn gian khổ nhiều là thế nhưng lại nhẹ đi bởi vần bằng tiếp
sau:
"Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi."
Cứ như thế, với những câu vần bằng xen vào giữa những câu vần trắc, âm
hưởng đoạn thơ trở nên trùng điệp hơn, âm điệu ấy cứ theo suốt bài thơ, cùng với
cách dùng từ cổ kính của Quang Dũng góp phần tạo nên nét lãng mạn mà hào hùng
cho bài thơ. Cả khổ thơ đầu là những khó khăn của vùng rừng núi thiên nhiên
hoang sơ. Đứng trước bức tranh dữ dội ấy, ai cũng thầm nghĩ: vậy người lính sống
thế nào nhỉ?
A
" nh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người."
Quang Dũng tả rất thực những khó khăn của cuộc kháng chiến mà đoàn quân
Tây Tiến đã gặp nhưng không làm bài thơ trở nên bi thảm, lịng người bi quan mà
chỉ để ca ngợi người lính. Tác giả lại tiếp tục đưa ta đến với người lính cũng bằng
ngịi bút rất thực ấy. Trước gian khổ, trên đường hành quân, nhiều người đã nằm lại
mảnh đất xa lạ để không bao giờ tỉnh dậy:
A

" nh bạn dãi dầu không bước nữa"


Nhưng anh hùng làm sao, những con người đã ngã xuống ấy! Người lính
khơng chịu nỗi gian khổ đã hi sinh nhưng cũng tìm được cho mình một tư thế chết
của người chiến sĩ:
"Gục lên súng mũ bỏ quên đời"
“Bỏ quên đời” chỉ là cách nói nhằm giảm nhẹ sự mất mát, tang thương khi
người lính từ trần. Nhưng hình ảnh sử dụng rất đắt là hình ảnh “gục lên súng mũ”.
Ta chợt nhớ đến dáng đứng của anh giải phóng quân về sau:
A
" nh ngã xuống trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng"
Dáng đứng của anh giải phóng qn đi mãi vào lịng những người dân trong
kháng chiến chống Mĩ thì dáng ngã gục xuống của anh lính cụ Hồ hẳn sẽ khơng
phai mờ trong tâm hồn của Quang Dũng, của đoàn quân Tây Tiến và của những
người tham gia kháng chiến. “Gục lên súng mũ” cũng là cách nói nhẹ và cũng là
cách nói của những người thanh niên trí thức lúc bấy giờ. Người lính ra đi nhưng
đồng đội anh lại tiếp bước. Những khó khăn lại đến:
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người."
Hình như có ai đó đã nói về cách sử dụng từ “Mường Hịch” của Quang
Dũng. Địa danh đọc lên có cảm giác như tiếng chân cọp đi trong đêm. Rừng núi trở
nên rờn rợn, nguyên vẻ hoang sơ của nó. Ở nơi xa xôi con người lần đầu đặt chân,
thiên nhiên là chủ thì khó khăn như tăng thêm bội phần. Nhưng nét lạc quan, vui vẻ
của người lính vẫn chẳng thể mất dọc cuộc hành trình.
“Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xơi."
Quang Dũng lại nhớ về những kỉ niệm của những đêm liên hoan. Nhịp điệu
câu thơ hình như có cái gì nao nức, rộn rã:

"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chănxây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trơi dịng nước lũ hoa đong đưa."
Cái dữ dội, hoang dã của thiên nhiên trong hai khổ thơ đầu như biến mất đi
sau những kỉ niệm vui của đoàn quân Tây Tiến. Nét nghịch ngợm, vui tươi của
những chàng thanh niên Hà Nội xúng xính trong xiêm áo giả làm con gái, cùng
tiếng nhạc và vẻ e ấp giả vờ. Câu thơ với hai chữ “kìa em” vừa mang vẻ ngạc nhiên
vừa mang nụ cười thoải mái của người chiến sĩ. Những kỉ niệm vui đó hẳn sẽ
khơng qn trong lòng người cũng như vẫn còn nguyên vẹn trong lịng Quang
Dũng vậy. Cùng với sự vui tươi, người lính Tây Tiến còn sống với bản lĩnh lãng


mạn, với tâm hồn giàu chất thơ, giàu cảm xúc của mình. Một dáng người trên độc
mộc vào buổi chiều sương, một khóm hoa đong đưa trên dịng nước lũ… tất cả đi
vào nhẹ nhàng cho cả đoạn thơ. Quang Dũng xa Tây Tiến nhưng khoảng thời gian
ấy chưa lâu nên kỉ niệm Tây Tiến vẫn như nguyên vẹn. Nỗi nhớ “chơi vơi” trải
khắp bài thơ nhưng cô đọng vẫn là ở nỗi nhớ về người lính Tây Tiến. Có lẽ người
lính Tây Tiến, hình ảnh của họ đã ăn sâu tận trong máu thịt tác giả:
“Tây Tiến đoàn quân khơng mọc tóc
Qn xanh màu lá dữ oai hùm”
Câu thơ đầu hồn tồn tả thực về người lính kháng chiến, nổi tiếng bởi tên
gọi “Vệ trọc”. Giữa rừng núi hoang sơ, nạn sốt rét là nạn mà người lính thường
mắc phải. Sốt rét đến nỗi trọc cả đầu chỉ còn một vài sợi tóc lưa thưa đến nỗi da
xanh xao “màu lá”. Bệnh sốt rét ác nghiệt như Chính Hữu đã từng mô tả:
"Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi."

Sốt rét là bệnh tiêu biểu thường gặp ở người lính khi Quang Dũng nói về
điều này, tác giả cịn muốn cho ta biết, người lính Tây Tiến sống như thế đấy! Họ
sống để chiến đấu với quân thù nhưng lại phải chiến đấu với cả gian khổ, bệnh tật
nữa. Giữa bao nhiêu khó khăn người lính vẫn "Qn xanh màu lá dữ oai hùm". Nét
dữ tợn của người chiến sĩ Tây Tiến ở đây khơng làm nhạt đi tí nào hình ảnh người
lính Tây Tiến trong ta. Bệnh tật, yếu đau tưởng chừng làm người chiến sĩ yếu đuối
nhưng ta bất ngờ vì dáng vẻ “dữ oai hùm” của anh lính. “Dữ oai hùm” làm mất đi
sự yếu đuối của “đồn qn khơng mọc tóc” và của “qn xanh màu lá”, câu thơ
trên giúp cho câu thơ sau tiếp tục:
M
" ắt trừng gởi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Đây chính là hai câu thơ tập trung nhất vẽ nên bức tranh người lính Tây Tiến
và cũng là hai câu thơ hay nhất trong cả bài thơ. Người lính Tây Tiến sống với hình
ảnh của q hương Hà Nội, chiến đấu với tương lai trước mặt. Hai câu thơ vừa
mang nét lãng mạn của người chiến sĩ vừa có nét hào hùng. Mắt người lính “trừng”
nhưng không hề mang nét dữ tợn, đấy chỉ là quyết tâm của họ. Họ quyết tâm chiến
đấu cho Tổ Quốc, đất nước, điều này là điều tâm niệm của mỗi người. Hai câu thơ
trên đã có thời bị đưa ra chỉ trích cùng với bài thơ là buồn rớt, là bi quan, là tiểu tư
sản. Đành rằng buồn; nhưng cái buồn ở đây không làm mất đi quyết tâm của người
lính Tây Tiến. Quyết tâm đánh giặc và lãng mạn phải kết hợp hài hồ mới có thể
tạo nên vẻ đẹp tâm hồn người chiến sĩ một cách sâu sắc. Đây là điểm mà đã có một
thời vì hồn cảnh lịch sử, vì một lý do nào đó người ta đã qn đi hay cố tình qn
đi. Người lính Tây Tiến chiến đấu cho ai? Mục đích của họ hướng tới là gì nếu
khơng phải q hương mà cụ thể là Hà Nội. Người lính mơ về Hà Nội, về người
thiếu nữ Hà Nội thì chính những mộng mơ ấy đã tiếp sức mạnh cho người chiến sĩ
sống và chiến đấu. Hai câu thơ chính vì thế lãng mạn mà rất hào hùng !


Người lính Tây Tiến gặp bao nhiêu gian khổ. Dọc con đường hành quân bao

người đã ngã xuống vì gian khổ, vì khắc nghiệt của rừng núi, vì đau ốm bệnh tật và
họ ngã xuống vì chiến đấu.
R
" ải rác biên cương mồ viễn xứ."
Câu thơ đọc lên nghe sao mà bi thảm quá. Bao người nằm lại nơi xa lạ không
người qua lại, chẳng bao giờ về. Từ “rải rác” làm ta cảm giác người lính Tây Tiến
ngã xuống, ngã xuống nhiều trong cuộc chiến đấu, làm ta cảm giác thấm thía cái
lạnh khi những con người phải từ giã cuộc đời. Từ “viễn xứ” tạo nên sự xa xôi,
lạnh lẽo của rừng núi, gợi sự cô đơn của những người nằm lại. Câu thơ trầm xuống
xốy vào lịng ta nỗi buồn không thể thốt nên lời, ta tưởng chừng câu thơ sau sẽ
khơng cất nổi mình, nhưng ngược lại:
"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"
Câu thơ lại nhẹ nhàng như không hề mang chút bi thảm của những nấm mồ
viễn xứ. Câu thơ trước tạo nên cái “bi”, câu thơ sau tạo nên nét “tráng”. Cái khơng
khí bi quan biến mất, chỉ còn lại nét ngang tàng, chút thanh thản của người lính Tây
Tiến. Bảo “chẳng tiếc đời xanh” là cách nói của người thanh niên tri thức Hà Nội
nhưng cũng mang cả quan niệm về lí tưởng chiến đấu. Đâu phải họ không tiếc cho
tuổi trẻ. Không phải “tuổi trẻ là mùa xuân” đó sao! Nhưng cao hơn cả tuổi trẻ họ
cịn có tự do, q hương. Còn người hậu phương gởi gắm cả nỗi lòng cho họ. Đó là
lí do tại sao người lính Tây Tiến chẳng tiếc đời xanh. Họ nằm xuống nhẹ nhàng:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Cách dùng từ “áo bào” làm câu thơ trở nên cổ kính hơn. Anh ra đi mãi mãi
nhưng anh ra đi là cho lẽ sống của mình sống mãi nên cái chết của anh nhẹ nhàng
như “về đất”. Hơn thế, có chăng Quang Dũng có lí khi dùng từ “về đất” ngoài ý
giảm nhẹ sự đau thương ? Quang Dũng khơng muốn có bất cứ giọt nước mắt nào
rơi trên thi hài người lính Tây Tiến. Người lính Tây Tiến sống lãng mạn, hào hùng
thì chết cũng phải như vậy. Đấy chính là lí do tác giả có ý sử dụng từ cổ kính và nói
theo lối nói của người lính Tây Tiến. Quang Dũng muốn rằng người lính Tây Tiến
chiến đấu là cho quê hương thì sự ra đi của họ là nhẹ nhàng, thanh thản: họ về với

đất. Đất như người mẹ giang tay ôm đứa con yêu vào lòng và người chiến sĩ
ngủ trong vòng tay mẹ. Như vậy anh hi sinh ở nơi xa nhưng linh hồn anh vẫn về
bên đất mẹ. Câu thơ vì thế mất đi nét bi thảm vốn có. Anh chiến sĩ chết đi, q
hương ơm anh vào lịng, sơng núi hát lên tiễn đưa anh:
"Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Không hề có tiếng khóc giọt nước mắt tang thương. Chỉ có núi sơng, đất mẹ
chứng kiến cái chết của anh. Bóng dáng của anh hồ vào núi sơng, hồ vào đất mẹ.
Người lính Tây Tiến ra đi nhưng hình ảnh của anh khơng bao giờ mờ phai trong
tâm trí con người. Hình ảnh người lính và những kỷ niệm đậm mãi trong lòng
Quang Dũng và mỗi chúng ta.
"Tây Tiến người đi không hẹn ước


Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về sầm nứa chẳng về xuôi."
Bài thơ khép lại nhưng âm điệu vẫn mãi vang vọng trong tâm hồn ta. Nhịp
điệu trùng điệp, nét lãng mạn hào hùng của bài thơ để lại dấu ấn trong ta. Có những
tác phẩm đã gặp nhiều mà ta lại quên đi nhưng có những tác phẩm chỉ bắt gặp một
lần lại sống mãi. Ấy là Tây Tiến! Hình ảnh người lính Tây Tiến lung linh ngời sáng
với cả hào khí dân tộc!
Nguồn: Sưu tầm
» Xem thêm:



Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến
Bình giảng đoạn thơ đầu bài Tây Tiến

3. PHÂN TÍCH BÀI THƠ TÂY TIẾN - MẪU SỐ 3:


Quang Dũng là nhà thơ tiêu biểu của chùm thơ chiến sĩ. Với lời thơ hào
hùng, lãng mạn những sáng tác của ông đều để lại âm vang trong lòng người đọc
cho đến tận ngày nay. Và "Tây Tiến" là một trong những tác phẩm như thế.
Tây Tiến là tên của một đoàn quân với đa số là những chàng trai sinh viên hà
thành. Đoàn quân được thành lập đầu năm 1947 và đại đội trưởng không ai khác
chính là Quang Dũng. Cuối 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Tại làng
Phù Lưu Chanh, ông viết bài thơ" Nhớ Tây Tiến" sau in trong "Mây đầu ô" đổi tên
thành Tây Tiến. Nổi bật của tác phẩm là cảm hứng lãng mạn và bi tráng của từng
câu thơ. Mở đầu tác phẩm là nỗi nhớ miên man trải dài.
Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Tác giả gọi tên dịng sơng Mã- một nhân chứng theo suốt bước chân hành
quân của đoàn quân. Quang Dũng nhớ về đồng đội, "nhớ về rừng núi". Nỗi nhớ ấy
cứ cồn cào, da diết để rồi bật lên thành tiếng gọi "Tây Tiến ơi". Đặc sắc nghệ thuật
của hai câu thơ đầu chính là cách gieo vần "ơi" và từ láy "chơi vơi". Bằng sự thành
công của đặc sắc ấy, nhà thơ đã diễn tả hết được nỗi lịng của mình. Nỗi nhớ của
ơng cứ miên man, cồn cào, da diết khôn nguôi. Nỗi nhớ từ tận đáy lòng rồi bật lên
vang vọng.
Nhớ về Tây Tiến là nhớ đến những khó khăn gian khổ suốt chặng đường
hành quân. Một loạt các địa danh được nhà thơ nhắc đến ở những câu tiếp: Sài
Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu. Đây đều là những địa danh
heo hút, hoang vu, là những minh chứng cho chặng đường đầy gian khổ của người
lính Tây Tiến.
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi


Hai câu thơ này thể hiện rất rõ cảm hứng lãng mạn trong thơ của Quang
Dũng. Trong đêm lạnh ở vùng cao, sương giăng phủ kín, mặc dù đã "mỏi" nhưng

con đường hành quân hiện ra vẫn đẹp, vẫn thơ mộng "hoa về trong đêm hơi".
Những câu thơ tiếp theo thể hiện rõ sự khắc nghiệt của thiên nhiên trên đường hành
quân. Một loạt các từ ngữ diễn tả sự gập ghềnh của hành trình ấy đã diễn tả một
cách chân thực về thiên nhiên hoang sơ nơi rừng núi:" dốc lên khúc khuỷu, dốc
xuống thăm thẳm đường đi heo hút". Câu thơ "dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm"
như bị chặt đôi đã diễn tả thật rõ sự gập ghềnh của núi, của chặng đường đi. Điều
đó càng được tăng lên gấp bội nhờ "ngàn thước lên cao ngàn thước xuống". Chặng
đường ấy cứ trùng trùng điệp điệp nối tiếp nhau. Thế nhưng trước thiên nhiên
hoang sơ kì vĩ ấy là hình ảnh "súng ngửi trời". Đây là một hình ảnh tuyệt đẹp, lãng
mạn của chàng lính Tây Tiến. Giữa núi rừng thiên nhiên hùng vĩ, người chiến sĩ
vác súng trên vai. Câu thơ giúp người đọc cảm thấy như mũi súng có thể chạm đến
đỉnh trời. Hình ảnh này khẳng định ý chí quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh
mọi tầm cao mà đi tới "khó khăn nào cũng vượt qua- kẻ thù nào cũng đánh thắng".
Giữa thiên nhiên hoang sơ ấy, tinh thần người chiến sĩ vẫn rất vững vàng:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Bằng ngòi bút chân thực, Quang Dũng đã tái hiện sự thật đau thương của
cuộc hành quân. Đã biết bao người đã ra đi "anh bạn dãi dầu khơng bước nữa".
Nhưng hình ảnh ấy qua lời thơ Quang Dũng không hề bi thương mà hào hùng "gục
lên súng mũ bỏ quên đời". Người chiến sĩ hào hùng hi sinh bên súng mũ trong tư
thế hiên ngang "chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Hình ảnh người chiến sĩ hi
sinh đã đi sâu vào lòng người đọc cho đến tận ngày nay. Quả đúng không ngoa
"tượng đài tự do được xây bằng máu và nước mắt". Những khó khăn mới lại đến
với đồn qn. Đó là hiểm nguy rừng núi, chốn hoang sơ ln rình rập "cọp trêu
người", "thác gầm thét". Nhưng khơng vì thế mà người lính Tây Tiến nao núng.
Trái lại họ còn lạc quan nhớ đến sự ấm áp của con người nơi đây "nhớ ơi Tây Tiến
cơm lên khói-Mai Châu mùa em thơm nếp xôi". Cặp từ sáng tạo "mùa em" đã chứa
bao tình thương nỗi nhớ của tác giả.

Thơ Quang Dũng đâu chỉ có hiện thực khắc nghiệt mà cịn có phút lãng mạn,
vui tươi:
Doanh
trại
bừng
lên
hội
đuốc
hoa,
Kìa
em
xiêm
áo
tự
bao
giờ.
Khèn
lên
man
điệu
nàng
e
ấp,
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.
Người
đi
Châu
Mộc
chiều
sương

ấy,

thấy
hồn
lau
nẻo
bến
bờ?



nhớ
dáng
Trơi dịng nước lũ hoa đong đưa?

người

trên

độc

mộc,

Đoạn thơ này làm thay đổi khơng khí của tồn bài. Với âm hưởng vui tươi
lạc quan, tác giả đã cho người đọc thấy sự hào hoa của người lính Tây Tiến. Đêm
liên hoan văn nghệ thắm đượm tình dân quân đã in hằn trong tâm trí Quang Dũng
khiến ơng khơng thể nào qn. Hình ảnh những cơ gái Thái xinh đẹp trong xiêm
áo, e ấp trong điệu nhạc tiếng khèn, đã khiến người lính phải ngỡ ngàng "kìa em".
Bằng tâm hồn lãng mạn, nhà thơ đã vẽ lên viễn cảnh mơ mộng của Châu Mộc trong
chiều sương với "hồn lau", "hoa đong đưa". Phải chăng bơng hoa ấy chính là hình

ảnh cơ lái đò trên dòng nước lũ? Nét duyên dáng thơ ngây của con người và cảnh
vật đã được vẽ thành bức họa tuyệt trần qua thơ của Quang Dũng.
Nối tiếp mạch thơ là hình ảnh người lính Tây Tiến với vẻ đẹp kì dị, lạ lùng:
Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Bút pháp tả thực lại một lần nữa được Quang Dũng thực hiện triệt để. "Đồn
binh khơng mọc tóc", "qn xanh màu lá" là kết quả của những trận sốt rét rừng.
Thời kì này, chiến sĩ của ta chiến đấu trong hồn cảnh hết sức khó khăn, thiếu thốn
lương thực, thuốc men, ngay cả trang bị chiến đấu "áo anh rách vai quần tơi có vài
mảnh vá”, "chân khơng dày". Chiến sĩ ta nhiều khi chết bệnh còn hơn chết trận.
Nhưng dù với dáng vẻ như vậy, người lính Tây Tiến vẫn hiên ngang, uy hùng
không hề yếu ớt " dữ oai hùm", "mắt trừng". Đoạn thơ thể hiện rõ cảm hứng lãng
mạn và bi tráng của nhà thơ. Quyết tâm giết giặc "gửi mộng qua biên giới" không
làm giảm sự lãng mạn của người lính. Họ vẫn nhớ về quê hương, vẫn nhớ về người
con gái Hà thành.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Một mùi chết chóc sực lên ở đoạn thơ này. Một màu sắc ảm đạm, u uất bao
trùm khổ thơ. Nhưng dưới ngịi bút của Quang Dũng, nó hiện lên bi tráng mà
khơng bi lụy. Cái chí khí của người lính đã được bộc lộ rõ ràng. Họ quyết tâm đi
"chẳng tiếc đời xanh" để đem lại nền độc lập cho dân tộc. Họ ngã xuống nhưng vẫn
mang trong mình bầu máu nóng nhiệt huyết. "Áo bào thay chiếu anh về đất" như
một cách nói giảm nói tránh. Người chiến sĩ ngã xuống là về với đất mẹ bao la.
Một lần nữa, hình ảnh sơng Mã lại hiện lên như tiễn đưa linh hồn người lính.
Tây Tiến người đi khơng hẹn ước
Đường đi thăm thẳm một chia phôi



Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi
Quang Dũng một lần nữa khẳng định ý chí sắt đá của người lính Tây Tiến.
Họ ra đi không hề "hẹn ước". Họ đã ra đi không hẹn ngày trở về, họ quyết tâm
giành lại độc lập cho dân tộc. Tinh thần " một đi không trở lại" của người lính Tây
Tiến cũng như những anh bộ đội cụ Hồ lúc bấy giờ.
Bằng bút pháp nghệ thuật tả thực cùng cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã
tạo ra một thi phẩm tuyệt vời. Chân dung người lính Tây Tiến đã được khắc họa rất
rõ qua lời thơ và nỗi nhớ của tác giả dành cho tiểu đội của mình. Quả thực, "Tây
Tiến" xứng đáng là bản anh hùng ca của chùm thơ cách mạng Việt Nam thời bấy
giờ.
Nguồn: Sưu tầm
4. PHÂN TÍCH BÀI THƠ TÂY TIẾN - MẪU SỐ 4

Cuộc kháng chiến chống Pháp đi qua để lại những dấu ấn không thể phai mờ
trong tâm hồn dân tộc. Đó là điểm hội tụ của mn triệu tấm lịng u nước, là mơi
trường thử thách tinh thần chiến đấu ngoan cường, bất khuất của nhân dân ta. Cuộc
kháng chiến cịn làm nảy sinh biết bao hình ảnh đẹp mà đẹp nhất là hình ảnh người
lính.
Bên cạnh những bài thơ nổi tiếng một thời như Đồng chí của Chính Hữu,
Nhớ của Hồng Nguyên..., Tây Tiến của Quang Dũng là một thi phẩm đặc sắc Đoàn
quân Tây Tiến quy tụ một lực lượng đông đảo đủ mọi tầng lớp thanh niên từ khắp
phố phường Hà Nội. Có nhiều thanh niên học sinh thuộc tầng lớp trí thức tiểu tư
sản vừa rời trang sách nhà trường để tham gia vào cuộc chiến đấu của dân tộc. Tất
cả những con người ấy ra đi với lí tưởng chung của dân tộc là chiến đấu bảo vệ độc
lập, tự do của Tổ quốc. Họ ra đi không hẹn ngày trở về chiến đấu với mục đích
“Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” Cái ảnh thần ấy là hào khí của cả một thế hệ, đã
từng được phản ánh trong một bài hát thời đó:

Đồn Vệ quốc qn một lần ra đi,
Nào có sá chi đâu ngày trở về.
Trong đồn người nơ nức lên đường đi chiến đấu, trong hàng ngũ những
thanh niên trí thức ngày hơm qua có khi là những tự vệ chiến đấu trên phố phường,
chiến lũy Hà Nội, mà hôm nay đã có mặt trong đồn qn Tây Tiến, thấp hống
xuất hiện một khn mặt: Quang Dũng, tác giả của bài thơ. Như bao thanh niên trí
thức của Hà Nội ngày ấy, Quang Dũng cũng háo hức gia nhập đoàn quân Tây Tiến
với một niềm say mê của tuổi trẻ và một chút lãng mạn của những người thanh niên
“nho sĩ quý tộc” ảnh hưởng trong Chinh phụ ngâm:
Giã nhà đeo bức chiến bào
hay


Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.
Cũng chính vì thế mà những thanh niên như Quang Dũng sẵn sàng chấp nhận
mọi gian khổ, hi sinh để chiến đấu đến ngày thắng lợi cuối cùng. Vào Tây Tiến,
Quang Dũng cùng sống và chiến đấu một thời gian với đơn vị này và sau đó
chuyển sang đơn vị khác. Một ngày ngồi ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng nhớ về
những người đồng đội, nhớ về những tháng ngày chiến đâu gian nan nhưng hào
hùng, nhớ đơn vị cũ, nhớ những con đường hành quân mà ông cùng đơn vị từng đi
qua. Nỗi nhớ ấy dần lớn lên trong Quang Dũng, bật ra thành hai câu thơ:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
Cuộc sống chiến đấu của Tây Tiến cùng những nơi mà đơn vị đã đi qua hẳn
là những kỉ niệm hết sức sâu đậm trong tâm hồn nhà thơ. Hẳn một phần quãng đời
Quang Dũng gắn bó với Tây Tiến là cuộc sống hoạt động trong vùng rừng núi. Bởi
thế, nhà thơ nhớ về Tây Tiến là nhớ ngay về sông Mã, nhớ về rừng núi với bao kỉ
niệm vui buồn, ấn tượng về một miền rừng núi khắc nghiệt đã để lại trong tâm hồn
nhà thơ dấu ấn chẳng phai mờ. Vì thế, Quang Dũng nhớ về những tháng ngày đã
qua với một tình cảm yêu thương lắm nhưng chẳng biết gọi lên chính xác nỗi nhớ

ấy. Nhớ chơi vơi! hai liếng chơi vơi dùng ở đây thật là đắc địa, diễn tả một nỗi nhớ
khơng có hình, khơng có lượng nhưng hình như rất nặng và mênh mang đầy ắp. Cái
tâm trạng nhớ ấy ta đã bắt gặp không chỉ một lần trong ca dao:
Ra về nhớ bạn chơi vơi
hoặc:
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi,
Như đứng đống lửa, như ngồi đống than.
Quang Dũng lấy nỗi nhớ trong ca dao để tượng trứng thêm cho nỗi nhớ chơi
vơi của mình, thật là chi tiết đắt giá! Ngay từ đầu bài thơ, ông đã miêu tả vùng rừng
núi ấy thiết tha như thế làm cho người đọc chú ý ngay. Nhớ Tây Tiến, nhớ về sông
Mã và núi rừng trùng điệp, nhớ con đường hành quân:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Con đường hành quân điệp trùng với bao cái khắc nghiệt, dữ dội của mỗi
vùng rừng biên ải. Đọc đoạn thơ, chưa cần suy ngẫm nội dung bên trong, chúng ta
đã có thể hình dung ra con đường mà Quang Dũng miêu tả. Kết cấu đoan thơ cứ
thanh bằng thanh trắc đan chéo nhau, trải dài ra miên man, vô tận như con đường



×