MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Không phải ngẫu nhiên mà danh từ “Điện Biên Phủ” lại có tên trong từ
điển bách khoa quân sự thế giới. Hơn 6 thập kỷ trước, với sức mạnh trí tuệ và
bản lĩnh anh hùng, quân và dân ta đã “lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều”
giành tồn thắng trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, kết thúc 9 năm trường kỳ
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Năm 1954, trên đại ngàn Tây Bắc đất nước, quân và dân Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đạp bằng
mọi khó khăn thử thách, đập tan tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Điện Biên
Phủ thuộc vùng núi Tây Bắc Của Việt Nam được biết đến như một khúc tráng
ca hào hùng của dân tộc, với chiến thắng lịch sử 56 ngày đêm lừng lẫy năm
châu trấn động địa cầu vào ngày 7/5/1954. Để đến ngày hôm nay với chiến
thắng vang dội ấy, chúng ta là những người con dân việt nam cùng chung
niềm vui ấy, thế nên hàng năm đất nước ta luôn tổ chức lễ kỷ niệm chiến
thắng Điện Biên Phủ. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là một bản anh hùng
ca bất hủ bắt nguồn từ truyền thống lịch sử vẻ vang của dân tộc ta, từ sự lãnh
đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại,
từ sức mạnh của khối đại đoàn kết tồn dân và ý chí quyết tâm chiến đấu vì
độc lập, tự do của Tổ quốc của quân và dân ta. Chúng ta mãi mãi khắc ghi
công ơn to lớn của các tướng lĩnh, cán bộ, chiến sỹ, thanh niên xung phong,
dân công hỏa tuyến và quân dân cả nước đã anh dũng chiến đấu, hy sinh, làm
nên chiến thắng Điện Biên Phủ. Chúng ta bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với
các đồng chí lão thành cách mạng, các mẹ Việt Nam Anh hùng, các Anh
hùng, liệt sỹ, thương binh, bệnh binh, cùng toàn thể đồng bào, chiến sĩ cả
nước đã đóng góp to lớn cho cuộc kháng chiến trường kỳ vì độc lập, tự do của
Tổ quốc. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mà đỉnh cao là
chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến thắng của lịng u nước nồng nàn, ý chí
1
bất khuất, kiên cường của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn
năm lịch sử; là chiến thắng của đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng ta,
độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội; của đường lối kháng chiến
trường kỳ, toàn dân, toàn diện, biết đánh và biết thắng, phát huy sức mạnh
đoàn kết tồn dân tộc, dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự ủng
hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời
đại. Thời gian đã lùi xa, nhưng chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu,
chấn động địa cầu mãi mãi là một mốc son chói lọi trong lịch sử và niềm tự
hào của dân tộc Việt Nam, là sức mạnh tinh thần, nguồn cổ vũ, động viên to
lớn, đồng thời để lại nhiều bài học quý giá đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay và mai sau.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng cơng tác cơng tác cổ động cho ngày lễ kỉ niệm 66
năm Chiến thắng Điện Biên Phủ tại tỉnh Lạng Sơn.
Tìm hiểu những nguyên nhân dẫn đến những khó khăn trong cơng cơng
tác cổ động cho ngày lễ kỉ niệm 66 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ tại tỉnh
Lạng Sơn
Nghiên cứu nhằm mong muốn giúp cho nhân dân sinh sống trong địa
bàn tỉnh Lạng Sơn nhận thấy trách nhiệm của mình trong cơng tác công tác cổ
động cho ngày lễ kỉ niệm 66 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ tại tỉnh Lạng
Sơn.
Giúp cho các cán hộ làm công tác công tác cổ động cho ngày lễ kỉ niệm
66 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ tại tỉnh Lạng Sơn có cái nhìn tổng qt để
thực hiện công tác cổ động cho nhân dân một cách có hiệu quả nhất.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống các vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến công tác công tác cổ
động cho ngày lễ kỉ niệm 66 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ tại tỉnh Lạng
Sơn
2
Phân tích thực trạng, khảo sát, đánh giá cơng tác cổ động cho ngày lễ kỉ
niệm 66 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ tại tỉnh Lạng Sơn, những thành tựu
đã đạt được, hạn chế, nguyên nhân.
Đề ra những giải pháp nhằm phát huy vai trị của các hình thức văn
hóa, văn nghệ trong công tác cổ động cho ngày lễ kỉ niệm 66 năm Chiến
thắng Điện Biên Phủ tại tỉnh Lạng Sơn, giúp cho người dân và các cán bộ làm
công tác tuyên truyền, cổ động nắm rõ và nâng cao ý thức tự giác, trách
nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với dân tộc.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
3.1 Cơ sở lý luận
- Dự trên cơ sở của chủ nghĩa Mác Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh
- Quan điểm chủ trương của đảng
- Chính sách pháp luật của nhà nước
3.2 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận nghiên cứu: dựa trên nguyên tắc lý luận và phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
- Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi: là phương pháp điều tra chủ
yếu được sử dựng với đối tượng là người dân sinh sống tại địa tỉnh Lạng Sơn.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: phỏng vấn trực tiếp dựa trên gợi ý.
- Vận dụng các phương pháp phân tích, nghiên cứu, so sánh, quy nạp,
diễn dịch, tổng kết thực tiễn, điều tra xã hội một cách khoa học và logic.
- Kế thừa có chọn lọc các thành quả nghiên cứu của các công trình đi
trước.
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng vai trò của các hình thức văn hóa, văn nghệ trong cơng tác
cổ động cho ngày lễ kỉ niệm 66 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ tại tỉnh Lạng
Sơn
.
3
4.2 Khách thể nghiên cứu
Người dân sinh sống trong tỉnh Lạng Sơn.
Cán bộ làm công tác truyên truyền cổ động tỉnh Lạng Sơn.
4.3 Phạm vi nghiên cứu
Không gian: tỉnh Lạng Sơn.
Thời gian: tháng 6/2020
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Đề ra được các phương pháp có hiệu quả thực tế trong công tác cổ
động cho ngày lễ kỉ niệm 66 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ tại tỉnh Lạng
Sơn.
- Sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo, xây dựng kế hoạch trong
công tác tuyên truyền cổ động cho ngày lễ kỉ niệm Chiến thắng Điện Biên
Phủ tại tỉnh Lạng Sơn cho các cán bộ làm công tác tuyên truyền cổ động sau
này.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận
được chia thành 3 chương:
Chương 1: CÁC HÌNH THỨC VĂN HĨA, VĂN NGHỆ VÀ VAI TRỊ CỦA
CÁC HÌNH THỨC VĂN HĨA, VĂN NGHỆ TRONG CƠNG TÁC CỔ
ĐỘNG CHO CÁC NGÀY LỄ KỈ NIỆM LỚN.
Chương 2: THỰC TRẠNG VAI TRỊ CỦA CÁC HÌNH THỨC VĂN HĨA,
VĂN NGHỆ TRONG CƠNG TÁC CỔ ĐỘNG CHO NGÀY LỄ KỈ NIỆM 66
NĂM CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ TẠI TỈNH LẠNG SƠN.
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY VAI TRỊ CỦA CÁC
HÌNH THỨC VĂN HĨA, VĂN NGHỆ TRONG CƠNG TÁC CỔ ĐỘNG
CHO NGÀY LỄ KỈ NIỆM 66 NĂM CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ TẠI
TỈNH LẠNG SƠN HIỆN NAY.
4
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:CÁC HÌNH THỨC VĂN HĨA, VĂN NGHỆ VÀ VAI TRỊ
CỦA CÁC HÌNH THỨC VĂN HĨA, VĂN NGHỆ TRONG CÔNG TÁC
CỔ ĐỘNG CHO CÁC NGÀY LỄ KỈ NIỆM LỚN.
1.1 Khái qt chung về Các hình thức thức văn hóa văn nghệ
1.1.1 Khái niệm
- Văn hóa: có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa. Theo UNESCO:
‘Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động và sáng tạo trong quá khứ và
trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một
hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc
tính riêng của mỗi dân tộc”. Định nghĩa này nhấn mạnh vào hoạt động sáng
tạo của các cộng đồng người gắn liền với tiến trình phát triển có tính lịch sử
của mỗi cộng đồng trải qua một thời gian dài tạo nên những giá trị có tính
nhân văn phổ qt, đồng thời có tính đặc thù của mỗi cộng đồng, bản sắc
riêng của từng dân tộc. Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ vào định nghĩa có tính khái
qt này, trong hoạt động quản lý nhà nước về văn hóa, chúng ta dễ bị hiểu
một cách sai lạc: Quản lý văn hóa là quản lý các hoạt động sáng tạo và thu
hẹp hơn nữa là quản lý sáng tác văn học nghệ thuật. Thực tế quản lý văn hóa
khơng phải như vậy, quản lý văn hóa ở cấp xã lại càng khơng phải chỉ có thế.
Theo Hồ Chí Minh: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống,
lồi người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp
luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hằng
ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và
phát minh đó tức là văn hóa”. Định nghĩa của Hồ Chí Minh giúp chúng ta
hiểu văn hóa cụ thể và đầy đủ hơn. Suy cho cùng, mọi hoạt động của con
người trước hết đều “vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống”, những
hoạt động sống đó trải qua thực tiễn và thời gian được lặp đi, lặp lại thành
những thói quen, tập quán, chắt lọc thành những chuẩn mực, những giá trị vật
chất và tinh thần được tích lũy, lưu truyền từ đời này qua đời khác thành kho
5
tàng quý giá mang bản sắc riêng của mỗi cộng đồng, góp lại mà thành di sản
văn hóa của tồn nhân loại.
Ở một góc độ khác, người ta xem văn hóa như là một hệ thống các giá
trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo, tích lũy trong hoạt động thực
tiễn qua quá trình tương tác giữa con người với tự nhiên, xã hội và bản thân.
Văn hóa là của con người, do con người sáng tạo và vì lợi ích của con người.
Văn hóa được con người giữ gìn, sử dụng để phục vụ đời sống con người và
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
- Văn nghệ: là một thuật ngữ chỉ các hoạt động sáng tạo văn học, nghệ
thuật gồm các loại hình: văn học, sân khấu, điện ảnh, âm nhạc, kiến trúc, hội
họa, điêu khắc và các loại hình ca múa nhạc.
* Khái niệm văn hóa – văn nghệ
- Theo nghĩa rộng: là hình thái ý thức xã hội đặc biệt của con người
phản ánh tồn tại của mỗi giai đoạn sáng tạo văn hóa (vật thể, phi vật thể) các
hoạt động sáng tạo của lĩnh vực nghệ thuật.
- Theo nghĩa hẹp: theo cách hiểu tương đối phổ biến khi đã tách khoa
học, giáo dục thành lĩnh vực riêng. Văn hóa – văn nghệ chủ yếu của các hoạt
động văn hóa như: bảo tồn, bảo tàng, thư viện, báo chí, xuất bản ,…
1.1.2 Đặc điểm của văn hóa, văn nghệ
Việt Nam gồm 54 dân tộc cùng chung sống trên lãnh thổ, mỗi dân tộc
một sắc thái riêng, cho nền văn hóa Việt Nam là một sự thống nhất trong đa
dạng. Ngoài văn hóa Việt-Mường mang tính tiêu biểu, cịn có các nhóm văn
hóa đặc sắc khác như Tà-Nùng, Thái, Chàm, Hoa-Ngái, Mơn-Khmer,
H’Mơng-Dao, nhất là văn hóa các dân tộc Tây Nguyên giữ được những nét
văn hóa truyền thống gắn bó với rừng núi tự nhiên. Những đặc điểm cơ bản
của nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc có thể khái quát như sau:
1. Triết học và tư tưởng Tư tưởng triết học Việt Nam chịu nhiều ảnh
hưởng tư tưởng của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo được dung hợp và Việt hóa
đã góp phần vào sự phát triển của xã hội và văn hóa Việt Nam. Đặc biệt các
6
nhà Thiền học đời Trần đã suy nghĩ và kiến giải hầu hết các vấn đề triết học
mà Phật giáo đặt ra (Tâm-Phật, Khơng-Có, Sống-Chết...) một cách độc đáo,
riêng biệt. Tuy Nho học về sau thịnh vượng, nhiều danh nho Việt Nam cũng
không nghiên cứu Khổng-Mạnh một cách câu nệ, máy móc mà họ tiếp nhận
cả tinh thần Phật giáo, Lão-Trang nên tư tưởng họ có phần thanh thốt, phóng
khống, gần gũi nhân dân và hòa với thiên nhiên hơn. Qua các triều đại trị vì
đất nước, tư tưởng phong kiến nặng nề đè nén nơng dân và trói buộc phụ nữ,
nhưng nếp dân chủ làng mạc, tính cộng đồng nguyên thuỷ vẫn tồn tại trên cơ
sở kinh tế nông nghiệp tự cấp tự túc. Cắm rễ sâu trong xã hội nơng nghiệp
Việt Nam là tư tưởng nơng dân có nhiều nét tích cực và tiêu biểu cho con
người Việt Nam truyền thống. Họ là nòng cốt chống ngoại xâm qua các cuộc
kháng chiến và nổi dậy. Họ sản sinh ra nhiều tướng lĩnh có tài, lãnh tụ nghĩa
quân, mà đỉnh cao là người anh hùng áo vải Quang Trung-Nguyễn Huệ cuối
thế kỷ 18. Tư tưởng Mác-Lênin được du nhập vào Việt Nam những năm 2030 kết hợp với chủ nghĩa yêu nước trở thành động lực biến đổi lịch sử đưa đất
nước tiến lên độc lập, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Tiêu biểu cho thời đại này
là Hồ Chí Minh, anh hùng dân tộc, nhà tư tưởng và danh nhân văn hóa được
quốc tế thừa nhận. Giai cấp tư sản dân tộc yếu ớt chỉ tiến hành được một số
cuộc cải cách bộ phận ở nửa đầu thế kỉ 20. Như vậy, Việt Nam khơng có một
hệ thống lý luận triết học và tư tưởng riêng, thiếu triết gia tầm cỡ quốc tế,
nhưng khơng có nghĩa là khơng có những triết lý sống và những tư tưởng phù
hợp với dân tộc mình. Xã hội nơng nghiệp có đặc trưng là tính cộng đồng
làng xã với nhiều tàn dư nguyên thủy kéo dài đã tạo ra tính cách đặc thù của
con người Việt Nam. Đó là một lối tư duy thiên về kinh nghiệm cảm tính hơn
là duy lý, ưa hình tượng hơn khái niệm, nhưng uyển chuyển linh hoạt, dễ
dung hợp, dễ thích nghi. Đó là một lối sống nặng tình nghĩa, đồn kết gắn bó
với họ hàng, làng nước. Đó là một cách hành động theo xu hướng giải quyết
dung hồ, qn bình, dựa dẫm các mối quan hệ, đồng thời cũng khôn khéo
giỏi ứng biến đã từng nhiều lần biết lấy nhu thắng cương, lấy yếu chống mạnh
7
trong lịch sử. Trong các bậc thang giá trị tinh thần, Việt Nam đề cao chữ
Nhân, kết hợp chặt chẽ Nhân với Nghĩa, Nhân với Đức, bất nhân bất nghĩa
đồng nghĩa với thất đức. Chữ Phúc cũng đứng hàng đầu bảng giá trị đời sống,
người ta khen nhà có phúc hơn là khen giầu, khen sang.
2. Phong tục tập quán: các phong tục hôn nhân, tang ma, lễ tết, lễ hội
của Việt Nam đều gắn với tính cộng đồng làng xã. Hôn nhân xưa không chỉ là
nhu cầu đôi lứa mà còn phải đáp ứng quyền lợi của gia tộc, gia đình, làng xã,
nên kén người rất kỹ, chọn ngày lành tháng tốt, trải qua nhiều lễ từ giạm ngõ,
ăn hỏi, đón dâu đến tơ hồng, hợp cẩn, lại mặt, và phải nộp cheo để chính thức
được thừa nhận là thành viên của làng xóm. Tục lễ tang cũng rất tỉ mỉ, thể
hiện thương xót và tiễn đưa người thân qua bên kia thế giới, khơng chỉ do gia
đình lo mà hàng xóm láng giềng tận tình giúp đỡ. Việt Nam là đất nước của lễ
hội quanh năm, nhất là vào mùa xn, nơng nhàn. Các tết chính là tết Nguyên
đán, tết Rằm tháng Giêng, tết Hàn thực, tết Đoan ngọ, tết Rằm tháng Bảy, tết
Trung thu,... Mỗi vùng thường có lễ hội riêng, quan trọng nhất là các lễ hội
nông nghiệp (cầu mưa, xuống đồng, cơm mới...), các lễ hội nghề nghiệp (đúc
đồng, rèn, pháo, đua ghe...). Ngoài ra là các lễ hội kỉ niệm các bậc anh hùng
có công với nước, các lễ hội tôn giáo và văn hóa (hội chùa). Lễ hội có 2 phần,
phần lễ mang ý nghĩa cầu xin và tạ ơn và phần hội là sinh hoạt văn hóa cộng
đồng gồm nhiều trị chơi, cuộc thi dân gian.
3. Tín ngưỡng và tơn giáo Tín ngưỡng dân gian Việt Nam từ cổ xưa đã
bao hàm: tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng sùng bái tự nhiên và tín ngưỡng
sùng bái con người. Con người cần sinh sơi, mùa màng cần tươi tốt để duy trì
và phát triển sự sống, nên đã nảy sinh tín ngưỡng phồn thực. Ở Việt Nam, tín
ngưỡng đó tồn tại rất lâu dài. Nông nghiệp trồng lúa nước phụ thuộc vào
nhiều yếu tố tự nhiên đã đưa đến tín ngưỡng sùng bái tự nhiên. Ở Việt Nam,
đó là tín ngưỡng đa thần và coi trọng nữ thần, lại thờ cả động vật và thực vật.
Người Việt tự nhận là thuộc về họ Hồng Bàng, giống Tiên Rồng (Hồng Bàng
là tên một loài chim nước lớn, Tiên là sự trừu tượng hóa một giống chim đẻ
8
trứng, Rồng sự trừu tượng hóa từ rắn, cá sấu). Rồng sinh ra từ nước bay lên
trời là biểu trưng độc đáo đầy ý nghĩa của dân tộc Việt Nam. Trong tín
ngưỡng sùng bái con người, phổ biến nhất là tục thờ cúng tổ tiên, gần như trở
thành một thứ tôn giáo của người Việt Nam (trong Nam bộ gọi là Đạo Ơng
Bà). Nhà nào cũng thờ Thổ cơng là vị thần trơng coi gia cư, giữ gìn hoạ phúc
cho cả nhà. Làng nào cũng thờ Thành hoàng là vị thần cai quản che chở cho
cả làng (thường tôn vinh những ngươì có cơng khai phá lập nghiệp cho dân
làng, hoặc các anh hùng dân tộc đã sinh hay mất ở làng). Cả nước thờ vua tổ,
có ngày giỗ tổ chung (Hội đền Hùng). Đặc biệt việc thờ Tứ Bất Tử là thờ
những giá trị rất đẹp của dân tộc: Thánh Tản Viên (chống lụt), Thánh Gióng
(chống ngoại xâm), Chử Đồng Tử (nhà nghèo cùng vợ ngoan cường xây dựng
cơ nghiệp giầu có), bà Chúa Liễu Hạnh (cơng chúa con Trời từ bỏ Thiên đình
xuống trần làm người phụ nữ khát khao hạnh phúc bình thường). Mặc dù có
trường hợp dẫn tới mê tín dị đoan, tín ngưỡng dân gian sống dẻo dai và hồ
trộn cả vào các tơn giáo chính thống. Phật giáo (Tiểu thừa) có thể đã được du
nhập trực tiếp từ ấn Độ qua đường biển vào Việt Nam khoảng thế kỉ 2 sau
Công nguyên. Phật giáo Việt Nam không xuất thế mà nhập thế, gắn với phù
chú, cầu xin tài lộc, phúc thọ hơn là tu hành thóat tục. Khi Phật giáo (Đại
thừa) từ Trung Quốc vào nước ta, tăng lữ Việt Nam mới đi sâu hơn vào Phật
học, nhưng dần hình thành những tơn phái riêng như Thiền Tông Trúc Lâm
đề cao Phật tại tâm. Thời Lý-Trần, Phật giáo cực thịnh nhưng vẫn đón nhận
cả Nho giáo, Lão giáo, tạo nên bộ mặt văn hóa mang tính chất "Tam giáo
đồng ngun" (cả ba tơn giáo cùng tồn tại). Qua nhiều bước thăng trầm, đạo
Phật trở nên thân thiết với người Việt Nam, thống kê năm 1993 cho biết vẫn
có tới 3 triệu tín đồ xuất gia và khoảng 10 triệu người thường xuyên vãn cảnh
chùa và lễ Phật. Thế kỉ 15, do nhu cầu xây dựng đất nước thống nhất, chính
quyền tập trung, xã hội trật tự, Nho giáo thay chân Phật giáo trở thành quốc
giáo dưới triều Lê. Nho giáo đã bám chắc vào cơ chế chính trị-xã hội, vào chế
độ học hành khoa cử, vào tầng lớp nho sĩ, dần chiếm lĩnh đời sống tinh thần
9
xã hội. Nhưng Nho giáo cũng chỉ được tiếp thụ ở Việt Nam từng yếu tố riêng
lẻ - nhất là về chính trị-đạo đức, chứ khơng bê ngun xi cả hệ thống. Đạo
giáo cũng thâm nhập vào Việt Nam nhưng từ lâu Đạo giáo như một tôn giáo
không tồn tại nữa, chỉ còn để lại di sản trong tin ngưỡng dân gian. Kitô giáo
đến Việt Nam vào lúc chế độ phong kiến khủng hoảng, Phật giáo suy đồi,
Nho giáo bế tắc, để trở thành chỗ an ủi tinh thần cho một bộ phận dân chúng
nhưng trong một thời gian dài khơng hồ đồng được với văn hóa Việt Nam.
Chỉ khi hồ Phúc âm trong dân tộc, nó mới đứng được ở Việt Nam. Năm
1993 có khoảng 5 triệu tín đồ cơng giáo và gần nửa triệu tín đố Tin Lành. Các
tơn giáo bên ngồi du nhập vào Việt Nam khơng làm mất đi tín ngưỡng dân
gian bản địa mà hồ quyện vào nhau làm cho cả hai phía đều có những biến
thái nhất định. Đây chính là những nét riêng của tín ngưỡng Việt Nam.
4. Ngơn ngữ Về nguồn gốc tiếng Việt, có nhiều giả thuyết. Giả thuyết
giàu sức thuyết phục hơn cả: tiếng Việt thuộc dịng Mơn-Khmer của ngữ hệ
Đông Nam Á, sau chuyển biến thành tiếng Việt-Mường (hay tiếng Việt cổ)
rồi tách ra. Trong tiếng Việt hiện đại, có nhiều từ được chứng minh có gốc
Mơn-Khmer và tương ứng về ngữ âm, ngữ nghĩa khi so sánh với tiếng
Mường. Trải qua nghìn năm Bắc thuộc, và dưới các triều đại phong kiến,
ngơn ngữ chính thống là chữ Hán, nhưng cũng là thời gian tiếng Việt tỏ rõ
sức sống đấu tranh tự bảo tồn và phát triển. Chữ Hán được đọc theo cách của
người Việt, gọi là cách đọc Hán-Việt và được Việt hóa bằng nhiều cách tạo ra
nhiều từ Việt thông dụng. Tiếng Việt phát triển phong phú đi đến ra đời hệ
thống chữ viết ghi lại tiếng Việt trên cơ sở văn tự Hán vào thế kỉ 13 là chữ
Nôm. Thời kỳ thuộc Pháp, chữ Hán dần bị loại bỏ, thay thế bằng tiếng Pháp
dùng trong ngôn ngữ hành chính, giáo dục, ngoại giao. Chữ quốc ngữ là sản
phẩm của một số giáo sĩ phương Tây trong đó có Alexandre de Rhodes hợp
tác với một số người Việt Nam dựa vào bộ chữ cái Latinh để ghi âm tiếng
Việt dùng trong việc truyền giáo vào thế kỉ 17. Chữ quốc ngữ dần được hoàn
thiện, phổ cập, trở thành cơng cụ văn hóa quan trọng. Cuối thế kỉ 19, đã có
10
sách báo xuất bản bằng chữ quốc ngữ. Với sự ra đời chữ Quốc ngữ, có lợi thế
đơn giản về hình thể kết cấu, cách viết, cách đọc, văn xi tiếng Việt hiện đại
thực sự hình thành, tiếp nhận thuận lợi các ảnh hưởng tích cực của ngơn ngữ
văn hóa phương Tây. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, tiếng Việt và chữ
quốc ngữ giành được địa vị độc tôn, phát triển dồi dào, là ngôn ngữ đa năng
dùng trong mọi lĩnh vực, ở mọi cấp học, phản ánh mọi hiện thực cuộc sống.
Tuy vậy, bên cạnh tiếng Việt phổ thông, một số dân tộc thiểu số ở Việt Nam
cũng có chữ viết riêng.
5. Văn học Văn học Việt Nam xuất hiện khá sớm, có hai thành phần là
văn học dân gian và văn học viết. Văn học dân gian chiếm vị trí quan trọng ở
Việt Nam, có cơng lớn gìn giữ phát triển ngôn ngữ dân tộc, nuôi dưỡng tâm
hồn nhân dân. Sáng tác dân gian gồm thần thoại, sử thi, truyền thuyết, cổ tích,
truyện cười, câu đố, tục ngữ, ca dao... với nhiều màu sắc các dân tộc ở Việt
Nam. Có thể nói ở Việt Nam, hầu như cả dân tộc đều yêu thơ và hay làm thơ.
Từ vua quan, tướng lĩnh, sư sãi, sĩ phu đến những người nơng dân lam lũ vất
vả đều ít nhất thuộc dăm câu lục bát, một bài vè. Về nội dung, chủ lưu là dòng
văn chương yêu nước bất khuất chống ngoại xâm ở mọi thời kỳ và dòng văn
chương phản phong kiến. Phê phán các thói hư tật xấu của xã hội cũng là
mảng đề tài quan trọng. Các thi hào dân tộc lớn đều là những nhà nhân đạo
chủ nghĩa lớn. Văn học cổ điển đã tạo nên những kiệt tác như Truyện Kiều
(Nguyễn Du), Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn), Quốc âm thi tập (Nguyễn
Trãi)... Việt Nam từ mấy thế kỉ trước đã có những cây bút nữ độc đáo: Hồ
Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Bà huyện Thanh Quan. Văn xi hiện đại có
những tác giả khơng thể nói là thua kém thế giới: Nguyễn Công Hoan, Vũ
Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Nam Cao... Bên
cạnh đó là những nhà thơ đặc sắc như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử,
Nguyễn Bính, Chế Lan Viên, Tố Hữu...
6. Nghệ thuật Việt Nam có khoảng 50 nhạc cụ dân tộc, trong đó bộ gõ
là phổ biến nhất, đa dạng nhất và có nguồn gốc lâu đời nhất (trống đồng, cồng
11
chiêng, đàn đá, đàn tơ rưng...). Bộ hơi phổ biến là sáo, khèn, cịn bộ dây độc
đáo nhất có đàn bầu và đàn đáy. Thể loại và làn điệu dân ca Việt Nam rất
phong phú khắp Trung, Nam, Bắc: từ ngâm thơ, hát ru, hò đến hát quan họ,
trống quân, xoan, đúm, ví giặm, ca Huế, bài chịi, lý, ngồi ra cịn có hát xẩm,
chầu văn, ca trù. Nghệ thuật sân khấu cổ truyền có chèo, tuồng. Rối nước
cũng là một loại hình sân khấu truyền thống đặc sắc có từ thời Lý. Đầu thế kỉ
20, xuất hiện cải lương ở Nam bộ với các điệu vọng cổ. Ở Việt Nam, nghệ
thuật chạm khắc đá, đồng, gốm đất nung ra đời rất sớm. Sau này gốm tráng
men, tượng gỗ, khảm trai, sơn mài, tranh lụa, tranh giấy phát triển đến trình
độ nghệ thuật cao. Đã có hàng nghìn di tích văn hóa, lịch sử được Nhà nước
xếp hạng. Kiến trúc cổ còn lại chủ yếu là một số chùa-tháp đời Lý-Trần; cung
điện-bia đời Lê, đình làng thế kỉ 18, thành quách-lăng tẩm đời Nguyễn và
những ngọn tháp Chàm. Thế kỉ 20, tiếp xúc với văn hóa phương Tây, nhất là
sau khi nước nhà độc lập, các loại hình nghệ thuật mới như kịch nói, nhiếp
ảnh, điện ảnh, ca múa nhạc và mỹ thuật hiện đại ra đời và phát triển mạnh, thu
được những thành tựu to lớn với nội dung phản ánh hiện thực đời sống và
cách mạng. Hiện nay, Việt Nam có 9 di sản văn hóa vật thể và phi vật thể
được tổ chức UNESCO công nhận là di sản thế giới. Những nét văn hóa dân
tộc cổ truyền hiện đang có nguy cơ bị mai một theo thời gian.Vì thế vấn đề
bảo tồn và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc là vấn đề cấp thiết và lâu dài,
đòi hỏi sự quan tâm của các ngành, các cấp và toàn thể quần chúng nhân dân,
nhất là trong giai đoạn hiện nay.
1.2 Vai trị của các hình thức văn hóa, văn nghệ trong cơng tác cổ động
cho các ngày lễ kỉ niệm.
Cổ động bằng các hình thức văn hóa - văn nghệ là sử dụng những hình
thức văn hóa - văn nghệ nghệ nhỏ nhẹ mang tính quần chúng rộng rãi kịp thời
tuyên truyền cổ động quần chúng thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, các
biện pháp chủ trương hoạt động của địa phương, cơ sở.
12
Cổ động bằng các hình thức văn hóa - văn nghệ chủ yếu là sử dụng một
số thủ pháp sân khấu để chuyển tải thông tin kịp thời làm sáng tỏ quan điểm,
đường lối của Đảng để cho quần chúng kịp thời nhận thức, kịp thời hiểu - tin
và kịp thời hành động thực hiện những nhiệm vụ chính trị trước mắt. Như
vậy, văn hóa - văn nghệ cổ động cùng với các hình thức nghe - nhìn và tin tức
tạo thành một hệ thống khép kín, thường xuyên bổ sung, hỗ trợ và tác động
lẫn nhau trong một quá trình thơng tin cổ động làm cho hoạt động cổ động đạt
hiệu quả cao. Tuy nhiên mỗi hình thức lại có vai trị, vị trí riêng, khơng thể
thay thế cho nhau được.
Văn hóa - văn nghệ cổ động phải là những thể loại sáng tác nhanh, dàn
dựng nhanh, số người thực hiện ít và trình diễn phải gọn nhẹ. Truyền đạt
thông tin là chủ yếu, nghệ thuật biểu diễn là phụ. Sử dụng bất cứ thể loại văn
nghệ nào để cổ động cũng phải đảm bảo yếu tố ĐÚNG và HAY, nếu chưa
HAY được thì phải đảm bảo đúng. Lấy yếu tố ĐÚNG là chính. Văn hóa - văn
nghệ cổ động trực tiếp phản ánh một tình hình, một hiện tượng, một điển hình
cần biểu dương hoặc phê phán. Trực tiếp minh hoạ cho đường lối, chính sách
của Đảng và chủ trương biện pháp của địa phương cơ sở. Đồng thời tham gia
hỗ trợ làm nổi rõ hơn nội dung chủ đề cổ động, làm phong phú hơn phong
cách thể hiện của các hình thức thơng tin cổ động khác.
*Các thể loại văn hóa - văn nghệ cổ động thường dùng là:
- Độc tấu: Đây là hình thức kể chuyện bằng lời, có kết hợp với diễn
xuất của diễn viên. Cách diễn đạt dí dỏm, nội dung thể hiện phong phú, dễ
lồng vào đó nội dung của thơng tin cổ động.
- Ca dao, hị, vè: Đây là hình thức sử dụng các yếu tố của văn học dân
gian, dễ gây được cảm xúc cho nhân dân, dễ được nhân dân hưởng ứng, vì nội
dung ngắn gọn, chủ đề rõ ràng, ý tứ hàm xúc, có điệu có vần, dễ vận dụng để
lồng ghép nội dung cần thông tin cổ động.
- Các ca khúc dân gian: Đây là các ca khúc, các làn điệu dân ca ở các
vùng, các miền, các dân tộc khác nhau. Thể loại này có sẵn điệu vần, tuy
13
nhiên cần đặt lời mới cho phù hợp, tránh gượng ép. Sử dụng các làn điệu dân
ca trong cổ động dễ được quần chúng chấp nhận.
- Câu chuyện thông tin: Đây là hình thức đối thoại của vài ba người
trình bày một vấn đề, một câu chuyện ít tình tiết, ít kịch tính. Dễ đưa nội
dung thông tin vào lời thoại của các nhân vật để cổ vũ động viên quần chúng
đi đến hành động.- Câu chuyện thông tin: Đây là thể loại được diễn đạt lại,
trên cơ sở những tình tiết có thật ở địa phương cơ sở. Nội dung thơng tin cổ
động được lý giải, trình bày sinh động thơng qua hình thức thơng tin một
cách hài hồ hợp lý. Tuy nhiên khi sáng tác dàn dựng không được hư cấu,
thời gian trình diễn khơng nên kéo dài quá 40 phút. Nhưng hình thức này chỉ
phù hợp với những chủ đề cổ động mang tính lâu dài, giải quyết trọn vẹn
một vấn đề và kinh phí dàn dựng tốn kém, đồng thời phải có đội ngũ thơng
tin giỏi tay nghề và nghiệp vụ.
Công tác thông tin tuyên truyền cỗ động sử dụng hình thức này nhằm
truyền đạt nội dung thật sinh động, hắp dẫn, đem lại sự tiếp thu nhẹ nhàng,
thoải mái cho nhân dân. Tuy nhiên hình thức này yêu cầu:
- Hiểu biết sâu sắc và vận dụng về nghệ thuật truyền thông dân gian,về
ca múa nhạc hiện đại.
- Vận dụng thành thạo các hình thức văn nghệ trong cơng tác thơng tin
tun truyền cổ động thích hợp với nội dung cần truyền tải.
- Huy động được các lực lượng u thích, có năng khiếu tham gia sinh
hoạt văn nghệ. Tổ chức phục vụ tốt các yêu cầu của nhiệm vụ chính trị.
- Vận dụng sáng tạo Kĩ thuật ước lệ trong kĩ thuật truyền thống để tạo
hiệu quả truyền đạt cao, tiết kiệm chi phí biểu hiện.
- Khơng lệ thuộc vào hình thức nghệ thuật mà xa rời nội dung thông tin
tuyên truyền cần phải truyền đạt tới dân.
14
CHƯƠNG 2:THỰCTRẠNGVAI TRỊ CỦA CÁC HÌNH THỨC VĂN HĨA,
VĂN NGHỆ TRONG CÔNG TÁC CỔ ĐỘNG CHO NGÀY LỄ KỈ NIỆM 66
NĂM CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ TẠI TỈNH LẠNG SƠN.
2.1 Khái quát chung về tỉnh Lạng Sơn
2.1.1 Vị trí địa lý, địa hình, đất đai
- Vị trí địa lý: Lạng Sơn là một tỉnh miền núi, biên giới, thuộc vùng
Đông Bắc với diện tích tự nhiên 8.310,09 km2. Lạng Sơn nằm ở vị trí đường
quốc lộ 1A, 1B, 4A, 4B, 279 đi qua, là điểm nút giao lưu kinh tế với các tỉnh
phía Tây là Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc Kạn, phía Đơng là tỉnh Quảng Ninh,
phía Nam là Bắc Giang và phía Bắc tiếp giáp với Khu tự trị dân tộc Choang,
Quảng Tây, Trung Quốc, với 2 cửa khẩu quốc tế (cửa khẩu đường bộ Hữu
Nghị và cửa khẩu đường sắt Đồng Đăng), 1 cửa khẩu chính Chi Ma và 9 cửa
khẩu phụ.
Địa hình phức tạp, chủ yếu là núi thấp và đồi chiếm hơn 80%, độ cao
trung bình 252m so với mặt nước biển, nơi thấp nhất là 20 và nơi cao nhất
là núi Mẫu Sơn 1.541m. Khu du lịch Mẫu Sơn được quy hoạch là khu du lịch
Quốc gia, cách thành phố Lạng Sơn 31 km về phía Đơng.
Khí hậu tỉnh Lạng Sơn tuy nằm ở khu vực nhiệt đới gió mùa nhưng có
nét đặc thù của khí hậu á nhiệt đới, nền nhiệt khơng q cao, có mùa đơng
tương đối dài và khá lạnh, chủ yếu là núi đá chưa có rừng.
- Tài ngun khống sản: tài ngun khống sản khơng nhiều, trữ
lượng các mỏ nhỏ, chủ yếu là mỏ đá vôi với khoảng 40 mỏ đang khai thác để
làm vật liệu xây dựng.
- Dân số: đến tháng 4/2019 là 782.666 người, chủ yếu sinh sống ở khu
vực nông thôn (chiếm 79,55%). Người trong độ tuổi lao động là 514,3 nghìn
người, chiếm 66,1% dân số.
Tỉnh Lạng Sơn có 7 dân tộc chủ yếu là: Nùng chiếm 42,8%, Tày
35,4%, Kinh 17,11%, Dao 3,5%, Sán chay 0,6%, Hoa 0,3%, Mông 0,17%,
các dân tộc khác chiếm 0,12%.
15
2.1.2 Điều kiện kinh tế
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hằng năm giai đoạn 2011 - 2017
đạt
8 - 9%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng ngành nông lâm
nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ. Thu nhập
bình quân đầu người năm 2018 đạt 38,4 triệu đồng.
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh xác định 5 chương trình trọng tâm trong
nhiệm kỳ 2015 - 2020, trong đó có 3 chương trình kinh tế trọng tâm là: Phát
triển Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng - Lạng Sơn; tái cơ cấu ngành nông
nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới; phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, trọng tâm là kết cấu hạ tầng giao thông.
Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng - Lạng Sơn được Thủ tướng Chính
phủ thành lập từ tháng 10/2008 với diện tích 394 km 2. Trong những năm qua,
tỉnh Lạng Sơn đã tập trung xây dựng Khu kinh tế cửa khẩu trở thành vùng
kinh tế động lực của tỉnh. Hiện đang đầu tư hoàn thiện các khu chức năng, đã
phê duyệt chủ trương và triển khai thực hiện dự án đầu tư Khu trung chuyển
hàng hóa, dự án đầu tư Hạ tầng Khu chế xuất 1. Đang rà sốt để trình Thủ
tướng Chính phủ điều chỉnh phạm vi, ranh giới Khu kinh tế cửa khẩu Đồng
Đăng - Lạng Sơn để nâng cao hiệu quả hoạt động, phát huy vai trò động lực
trong phát triển kinh tế của Khu kinh tế cửa khẩu.
Thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn
mới theo hướng phát triển các vùng sản xuất hàng hóa tập trung đối với các
sản phẩm chủ lực của tỉnh đã được quy hoạch, gắn với đổi mới hình thức tổ
chức sản xuất theo hướng liên kết theo chuỗi giá trị. Đã quy hoạch phát triển
chuỗi giá trị các ngành hàng sản phẩm nông lâm sản chủ lực, ngồi ra cịn quy
hoạch phát triển các sản phẩm chủ lực cấp huyện sau: Lúa chất lượng
cao, Thạch đen, Ngô, Lạc, Quýt, Hồng, Chè, tre, mai, vầu, nứa, cây dược liệu,
phát triển đàn gia cầm, dê.
16
Về xây dựng nơng thơn mới, hết năm 2018 bình qn tồn tỉnh đạt 9,7
tiêu chí/xã, có 48 xã đạt chuẩn, khơng cịn xã dưới 5 tiêu chí, thành phố Lạng
Sơn được cơng nhận hồn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới.
Sản xuất công nghiệp chủ yếu là các cơ sở quy mô nhỏ, giá trị sản xuất
công nghiệp đạt khoảng 5.750 tỷ đồng. Một số lĩnh vực lợi thế của tỉnh
là: Sản xuất xi măng, vật liệu xây dựng, khoáng sản, nhiệt điện, chế biến
gỗ... Hiện đang tập trung xây dưng một số cụm công nghiệp: Hợp Thành 1,
Hợp Thành 2, Quảng Lạc. Hoạt động du lịch phát triển cả về lượng khách,
loại hình dịch vụ, doanh thu và chất lượng phục vụ; lượng khách tăng bình
quân 5%/năm, năm 2018 đã thu hút được 2,8 triệu lượt khách du lịch.
2.1.3 Điều kiện văn hóa – xã hội
Tỷ lệ thơn, khối phố có nhà văn hóa đến năm 2018 đạt 96%. Số trường
đạt chuẩn quốc gia đến năm 2018 là 192 trường trên tổng số 694 trường. Đến
hết năm 2018, tổng số xã đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế là 114 xã, chiếm
50,4% số xã. Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 95,5%. Tỷ lệ lao
động qua đào tạo năm 2018 đạt 50%, lao động được giải quyết việc làm hàng
năm trên 14.600 người. Giảm tỷ lệ hộ nghèo hàng năm đều giảm trên 3%.
Hiện còn 30.583 hộ nghèo, chiếm 15,83%; 21.267 hộ cận nghèo, chiếm
11,01%.
Tỉnh Lạng Sơn chủ yếu là thuộc dân tộc đồng bào thiểu số. Đồng bào
dân tộc thiểu số chủ yếu sống bằng nghề nông và buôn bán, trình độ học thức
của họ cũng khơng cao, chủ yếu là lao động chân tay, có gia đình hồn cảnh
rất khó khăn phải sống dựa vào trợ cấp của nhà nước.
2.2 Vai trị của các hình thức văn hóa, văn nghệ trong công tác cổ động
cho ngày lễ kỷ niệm 66 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ tại tỉnh Lạng
Sơn – Ưu thế, hạn chế và nguyên nhân
Lễ kỷ niệm 66 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 - 7/5/2020)
là dịp để cả dân tộc ta ơn lại những kí ức lịch sử hào hùng. Trong khơng khí
hân hoan, hồi niệm ở thời bình mỗi năm Đảng nhà nhà nước đều có những
17
hoạt động nhằm tri ân những công lao to lớn của các vị anh hùng trong sự
nghiệp giải phóng đất nước. Đối với ngày lễ kỷ niệm đặc biệt như ngày kỷ
niệm 66 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ thì những hoạt động tuyên truyền cổ
động đều mang một ý nghĩa sâu sắc và quan trọng nhất là phải truyền tải được
những nội dung thông điệp sau:
- Tuyên truyền đường lối kháng chiến của Đảng và nhân dân ta. Khẳng
định sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đối với chiến dịch Đơng-Xn 1953-1954 và Chiến thắng Điện Biên
Phủ cũng như tồn bộ Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của
nhân dân ta.
- Nêu bật thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ
chống thực dân Pháp xâm lược; khẳng định ý nghĩa to lớn và sâu sắc của
Chiến thắng Điện Biên Phủ đối với dân tộc Việt Nam, với quốc tế và thời đại;
tôn vinh và tri ân các anh hùng, liệt sỹ, các tướng lĩnh, cán bộ, chiến sỹ, thanh
niên xung phong, dân công hỏa tuyến và quân dân cả nước đã anh dũng chiến
đấu, hy sinh, làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ.
- Tuyên truyền về những thành tựu to lớn của đất nước, của các tỉnh
vùng Tây Bắc 65 năm qua kể từ sau chiến thắng Điện Biên Phủ; khơi dậy và
phát huy truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng và những bài
học quý báu của Chiến thắng Điện Biên Phủ, đưa các tỉnh Tây Bắc cùng cả
nước ngày càng phát triển giàu đẹp và văn minh.
2.3 Thực trạng các hình thức văn hóa, văn nghệ trong cơng tác cổ động
cho ngày lễ kỉ niệm 66 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ tại tỉnh Lạng
Sơn.
Trong những năm qua công tác cổ động bằng hình thức văn hóa, vă
nghệ trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn luôn được quan tâm và là hình thức tạo hiệu
quả nhanh phục vụ các nhiệm vụ chính trị của đất nước và địa phương. Cơng
tác này đã thực sự đi vào đời sống xã hội. Tỉnh đã xác định công tác cổ động
là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển trên mọi lĩnh vực của
18
tỉnh, là thế mạnh của ngành Văn hóa, thể thao và du lịch để góp phần vào sự
thành cơng trong công tác tổ chức các ngày lễ kỷ niệm lớn. Thơng qua cơng
tác cổ động bằng các hình thức văn hóa, văn nghệ giúp cán bộ, đảng viên và
các tầng lớp nhân dân nhận thức đầy đủ mục đích, ý nghĩa lịch sử, tầm quan
trọng của Chiến thắng Điện Biên Phủ cũng như các chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước; thấy rõ được vị trí, vai trị, nhiệm vụ của mỗi cá nhân
trong công tác tổ chức ngày lễ kỷ niệm; làm cho mọi người dân nắm vững và
hiểu rõ trách nghiệm của mình trong việc chấp hành và thực hiện...
Xác định công tác cổ động bằng các hình thức văn hóa, văn nghệ có ý
nghĩa quan trọng trong cơng tác tổ chức các ngày lễ nói chung và ngày lễ kỷ
niệm 66 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ nói riêng , địi hỏi phải có cách làm
mới kể cả về quy mô và nghệ thuật cổ động. Phải hết sức sáng tạo trên một tư
duy mới. Không thể thụ động mà phải phối hợp chặt chẽ với các ngành các
địa phương để đưa ra những dự báo cho công tác cổ động đặc biệt là cổ động
bằng các hình thức văn hóa, văn nghệ, nếu khơng sẽ không đạt được hiệu quả
tốt.
Trong thời đại công nghệ thông tin, sự phát triển mạnh của các loại hình
báo chí, nhất là báo mạng và truyền hình, cơng tác cổ động cũng phải thích
ứng, sáng tạo mới có thể đáp ứng yêu cầu trong tình hình hiện nay. Cụ thể có
những điểm đáng chú ý như sau:
- Cơng tác cổ động bằng hình thức văn hóa văn nghệ đã đổi mới, nâng
cao chất lượng để đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Thực hiện đường lối
đổi mới cùng với sự phát triển của xã hội. Công tác cổ động đã cải tiến cách
làm mới kể cả về quy mô và nghệ thuật của lễ kỷ niệm 66 năm Chiến thắng
Điện Biên Phủ. Cơng tác cổ động bằng các hình thức văn hóa, văn nghệ cũng
đã và đang có cách làm mới có sức hấp dẫn truyền cảm nhanh nhạy hơn.
- Đã có quy hoạch tổng thể và chi tiết để xây dựng cổ động bằng các
hình thức văn hóa văn nghệ tại các trung tâm và địa bàn trọng yếu. Xây dựng
quy hoạch cổ động bằng các hình thức văn hóa văn nghệ tuy cịn gặp nhiều
19
khó khăn, bất cập địi hỏi người làm kế hoạch phải có những phương pháp
bền lâu dài, phải hết sức sáng tạo trên một tư duy mới, phối hợp chặt chẽ với
các ngành, các địa phương để đưa ra những dự báo cho công tác cổ động đặc
biệt là cổ động bằng các hình thức văn hóa văn nghệ, nếu khơng thì kết quả
khơng được như ý và hiệu quả sẽ không cao. Bên cạnh những kế hoạch cổ
động cố định cần có những kế hoạch chi tiết và kế hoạch cụ thể khác như kết
hợp với cổ động trực quan và tuyên truyền miệng, âm nhạc v.v… Trong thực
tế ngày nay những phương thức truyền thông, quy mô nhỏ và đơn sơ ở những
năm trước đây của thế kỷ trước khơng cịn thích hợp nên cần phải thay đổi
nhường lại cho các phương tiện hiện đại bề thế hoành tráng với những thiết bị
nghe nhìn tiên tiến hơn đang hoạt động. Với cách làm mới đã mang lại cho
một vị thế mới có sức truyền cảm cao để đáp ứng trình độ dân trí ngày phù
hợp với u cầu của thời đại và sự nghiệp đổi mới của đất nước của tỉnh và
địa phương.
- Linh hoạt mềm dẻo cách thức cổ động. Những phương thức hoạt động
như văn nghệ cổ động, tuyên truyền miệng, tờ tin, hoạt cảnh câu chuyện
thông tin, văn nghệ biểu diễn v.v… đã áp dụng trước đây, khơng phải nó đã
lạc hậu mà thực tế có mặt giảm về quy mơ, địa bàn hoạt động theo vùng. Hiện
nay, trên địa bàn tỉnh cịn có nhiều vùng sâu, vùng xa, nhiều vùng dân trí cịn
thấp, đời sống cịn nghèo, nhất là đồng bào dân tộc ít người, đường sá đi lại
khó khăn, điện lưới khơng có, phương tiện nghe nhìn ít, phong tục tập qn
nhiều nơi còn lạc hậu, tất yếu phải sử dụng đến các phương thức như truyền
miệng, văn nghệ cổ động, cổ động trực quan nhỏ lẻ v.v… mới có thể chuyển
tải thơng tin đến bản làng một cách có bài bản và hiệu quả cao. Muốn nâng
cao chất lượng công tác cổ động ở vùng sâu vùng xa phải có kế hoạch chiến
lược trong đó có sử dụng các hình thức văn hóa văn nghệ làm chủ yếu. Ngày
lễ kỷ niệm 66 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ cần có các tiết mục văn nghệ
mang tính sự kiện lịch sử, hoặc phong trào sản xuất xã hội thật súc tích, ngắn
gọn để dễ nhớ. Các phương thức cổ động đã bổ sung nội dung về tham bảo
20