Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc và tái sinh tự nhiên quần xã thực vật rừng trên núi đá vôi tại ba địa phương ở miền Bắc Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (729.82 KB, 108 trang )

1

Đặt vấn đề
Nghiên cứu cấu trúc và tái sinh rừng là một trong những nhiệm vụ quan
trọng của các nhà lâm nghiệp. Nắm được đặc điểm cấu trúc và tái sinh rừng,
nhà lâm nghiệp có thể chủ động trong việc xác lập các kế hoạch và biện pháp
kỹ thuật tác động chính xác vào rừng, góp phần quản lý và kinh doanh rừng
lâu bền.
Trên quan điểm sinh thái, đặc điểm cấu trúc và tái sinh rừng thể hiện rõ
nét những mối quan hệ qua lại giữa các thành phần của hệ sinh thái rừng và
giữa chúng với môi trường. Việc nghiên cứu cấu trúc và tái sinh rừng nhằm
duy trì rừng như một hệ sinh thái ổn định, có sự hài hoà của các nhân tố cấu
trúc, lợi dụng tối đa mọi tiềm năng của điều kiện lập địa và phát huy bền vững
các chức năng có lợi của rừng cả về kinh tế, xã hội và sinh thái.
Như vậy, để kinh doanh rừng có hiệu quả thì một trong những công việc
không thể thiếu là nghiên cứu về cấu trúc và tái sinh rừng. Mặc dù vậy, cho
đến nay những nghiên cứu về cấu trúc và tái sinh rừng vẫn chưa thể bao quát
cho mọi khu rừng, chưa thể làm nổi bật những điển hình và đặc thù của mọi
loại hình rừng ở từng khu vực cụ thể, đặc biệt là rừng trên núi đá vôi ở một
số địa phương miền Bắc Việt Nam.
Diện tích núi đá vơi tồn quốc là 1.152.200 ha, chiếm 3,5% diện tích tự
nhiên của cả nước, trong đó diện tích núi đá vơi có rừng là 619.064 ha, nhưng
chủ yếu là rừng thứ sinh nghèo (Viện Điều tra - Quy hoạch rừng, 1995).
Rừng trên núi đá vôi vừa cung cấp nhiều lâm sản quý giá vừa có khả năng
đảm bảo an tồn sinh thái và kiến tạo cảnh quan cho đất nước. Nó là nơi ni
dưỡng nhiều lồi động, thực vật q hiếm đặc trưng mà ở núi đất khơng có
hoặc khơng thể thay thế được như Nghiến, Trai lý, Hoàng đàn,... Một khi hệ
sinh thái rừng trên núi đá vôi bị tàn phá, khả năng tự phục hồi trở lại gặp rất
nhiều khó khăn, đặc điểm này khác hẳn hệ sinh thái rừng núi đất.
Trong thời gian qua, việc khai thác và sử dụng quá mức, công tác quản
lý bảo vệ rừng kém hiệu quả ở nhiều địa phương khiến các khu rừng, đặc biệt




2
là rừng trên núi đá vơi giảm sút nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng.
Những tác động này đã ảnh hưởng lớn đến khả năng tồn tại của rừng, làm xáo
trộn các quy luật cấu trúc và tái sinh tự nhiên của rừng, diễn thế rừng đi theo
chiều hướng tiêu cực bởi sự thiếu hụt những loài cây có giá trị, đất đai bị
thối hố, rừng có sức sản xuất thấp và kém ổn định. Sự mất rừng đã kéo theo
sự suy thoái về các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác, đặc biệt là nguồn tài
nguyên nước. Tại nhiều khu vực hiện nay thường xuyên xảy ra tình trạng
thiếu nước nghiêm trọng. Từ đó, cuộc sống và sự phát triển kinh tế của các
cộng đồng dân cư trong khu vực bị ảnh hưởng, gây khó khăn cho cơng tác
phát triển rừng. Những địa phương nghiên cứu của đề tài, nơi còn tồn tại các
khu rừng trên núi đá vơi cũng đang trong tình trạng như trên.
Vì vậy xác định các biện pháp kỹ thuật tác động phù hợp nhằm phục
hồi và phát triển diện tích rừng trên núi đá vôi là một nhiệm vụ quan trọng.
Tuy nhiên, để có được những biện pháp kỹ thuật tác động chính xác và hiệu
quả thì những hiểu biết về đặc điểm lâm học, trong đó có đặc điểm cấu trúc và
tái sinh tự nhiên được xem là những cơ sở quan trọng nhất.
Do thiếu những nghiên cứu cơ bản và hệ thống về cấu trúc và tái sinh
rừng, ở nhiều nơi người ta không dám tác động vào rừng bằng bất kỳ biện
pháp kỹ thuật nào, hoặc nếu có thì hiệu quả của các biện pháp tác động không
cao, gây nhiều hậu quả tiêu cực đối với rừng. Giải pháp kỹ thuật áp dụng cho
loại hình núi đá vơi hiện nay chủ yếu là khoanh nuôi phục hồi tự nhiên mà ít
có biện pháp tác động mang tính đột phá nhằm phát huy tối đa sức sản xuất
cũng như các chức năng có lợi khác của rừng, đồng thời vẫn bảo tồn các
nguồn gen và tính đa dạng sinh vật nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá này.
Xuất phát từ thực tiễn đó, đề tài: "Nghiên cứu một số đặc điểm cấu
trúc và tái sinh tự nhiên quần xã thực vật rừng trên núi đá vôi tại ba địa
phương ở miền Bắc Việt Nam"được thực hiện nhằm góp phần bổ sung những

hiểu biết mới về cấu trúc và tái sinh tự nhiên quần xã thực vật rừng, tính đa


3
dạng sinh vật và hướng phát triển bền vững hệ sinh thái rừng trên núi đá vôi
tại miền Bắc Việt Nam.


4
CHƯƠNG 1
Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1. Trên thế giới
1.1.1. Nghiên cứu về cấu trúc rừng
- Về cơ sở sinh thái của cấu trúc rừng:
Cấu trúc rừng là hình thức biểu hiện bên ngoài của những mối quan hệ
qua lại bên trong giữa thực vật rừng với nhau và giữa chúng với môi trường
sống. Nghiên cứu cấu trúc rừng để biết được những mối quan hệ sinh thái bên
trong của quần xã, từ đó có cơ sở để đề xuất các biện pháp kỹ thuật tác động phù
hợp.
Trong một thời gian dài, vấn đề duy trì và điều tiết cấu trúc rừng đã được
bàn luận và có rất nhiều quan điểm khác nhau, đặc biệt là việc đề xuất các tác
động xử lý đối với rừng tự nhiên nhiệt đới. Nhiều phương thức lâm sinh ra đời
và được thử nghiệm ở nhiều nơi trên thế giới như phương thức chặt cải thiện tái
sinh (RIF, 1927), phương thức rừng đều tuổi của Malaysia (MUS, 1945), T.S.S
của Nigeria (1944, 1961),...
Baur G.N. (1962) [21] đã nghiên cứu các vấn đề về cơ sở sinh thái học nói
chung và về cơ sở sinh thái học trong kinh doanh rừng mưa nói riêng, trong đó
đã đi sâu nghiên cứu các nhân tố cấu trúc rừng, các kiểu xử lý về mặt lâm sinh
áp dụng cho rừng mưa tự nhiên. Theo tác giả, các phương thức xử lý đều có hai
mục tiêu rõ rệt: "Mục tiêu thứ nhất là nhằm cải thiện rừng nguyên sinh vốn

thường hỗn lồi và khơng đồng tuổi bằng cách đào thải những cây quá thành
thục và vô dụng để tạo không gian thích hợp cho các cây cịn lại sinh trưởng.
Mục tiêu thứ hai là tạo lập tái sinh bằng cách xúc tiến tái sinh, thực hiện tái sinh
nhân tạo hoặc giải phóng lớp cây tái sinh sẵn có đang ở trạng thái ngủ để thay
thế cho những cây đã lấy ra khỏi rừng trong khai thác hoặc trong chăm sóc ni
dưỡng rừng sau đó". Từ đó tác giả này đã đưa ra những tổng kết hết sức phong
phú về các nguyên lý tác động xử lý lâm sinh nhằm đem lại rừng cơ bản là đều
tuổi, rừng không đều tuổi và các phương thức xử lý cải thiện rừng mưa.
Catinot (1965) [28] nghiên cứu cấu trúc hình thái rừng thơng qua việc
biểu diễn các phẫu đồ rừng, nghiên cứu các nhân tố cấu trúc sinh thái thông qua
việc mô tả phân loại theo các khái niệm dạng sống, tầng phiến...


5
Odum E.P (1971) [47] đã hoàn chỉnh học thuyết về hệ sinh thái trên cơ sở
thuật ngữ hệ sinh thái (ecosystem) của Tansley A.P, năm 1935. Khái niệm hệ
sinh thái được làm sáng tỏ là cơ sở để nghiên cứu các nhân tố cấu trúc trên quan
điểm sinh thái học.
Khi nghiên cứu tổ thành rừng tự nhiên nhiệt đới thành thục, Evans, J.
(1984) [44] xác định, có tới 70-100 lồi cây gỗ trên 1ha, nhưng hiếm có lồi nào
chiếm hơn 10% tổ thành lồi.
- Về mơ tả hình thái cấu trúc rừng:
Kraft (1884) [10] đã tiến hành phân chia những cây rừng trong một lâm
phần thành 5 cấp dựa vào khả năng sinh trưởng, kích thước và chất lượng của
cây rừng. Phân cấp của Kraft phản ánh được tình hình phân hoá cây rừng, tiêu
chuẩn phân cấp rõ ràng, đơn giản và dễ áp dụng nhưng chỉ phù hợp với rừng
thuần loài đều tuổi.
Richards P.W (1952) [48] đã đi sâu nghiên cứu cấu trúc rừng mưa nhiệt
đới về mặt hình thái. Theo tác giả này, một đặc điểm nổi bật của rừng mưa nhiệt
đới là tuyệt đại bộ phận thực vật đều thuộc thân gỗ. Rừng mưa thường có nhiều

tầng (thường có ba tầng, ngoại trừ tầng cây bụi và tầng cây thân cỏ). Trong rừng
mưa nhiệt đới ngoài cây gỗ lớn, cây bụi và các lồi thân cỏ cịn có nhiều lồi cây
leo đủ hình dáng và kích thước, cùng nhiều thực vật phụ sinh trên thân hoặc
cành cây. "Rừng mưa thực sự là một quần lạc hoàn chỉnh và cầu kỳ nhất về mặt
cấu tạo và cũng phong phú nhất về mặt loài cây".
Khi nghiên cứu về cấu trúc rừng tự nhiên nhiệt đới, nhiều tác giả có ý kiến
khác nhau trong việc xác định tầng thứ, trong đó có ý kiến cho rằng, kiểu rừng
này chỉ có một tầng cây gỗ mà thôi. Richards (1952) [48] phân rừng ở Nigeria
thành 6 tầng với các giới hạn chiều cao là 6-12m, 12-18m, 18-24m, 24-30m,
30*36m và 36-42m, nhưng thực chất đây chỉ là các lớp chiều cao. Odum E.P.
(1971) [47] nghi ngờ sự phân tầng rừng rậm nơi có độ cao dưới 600m ở Puecto Rico và cho rằng khơng có sự tập trung khối tán ở một tầng riêng biệt nào cả.
Như vậy, hầu hết các tác giả khi nghiên cứu về tầng thứ thường đưa ra
những nhận xét mang tính định tính, việc phân chia tầng thứ theo chiều cao
mang tính cơ giới nên chưa phản ánh được sự phân tầng phức tạp của rừng tự
nhiên nhiệt đới.
- Nghiên cứu định lượng cấu trúc rừng:


6
Khi chuyển đổi từ nghiên cứu định tính sang nghiên cứu định lượng cấu
trúc rừng, nhiều tác giả đã sử dụng các cơng thức và hàm tốn học để mơ hình
hố cấu trúc rừng, xác định mối quan hệ giữa các nhân tố cấu trúc của rừng.
Raunkiaer (1934) [33] đã đưa ra công thức xác định phổ dạng sống chuẩn
cho hàng nghìn lồi cây khác nhau. Theo đó, cơng thức phổ dạng sống chuẩn
được xác định theo tỷ lệ phần trăm giữa số lượng cá thể của từng dạng sống so
với tổng số cá thể trong một khu vực. Để biểu thị tính đa dạng về lồi, một số tác
giả đã xây dựng các công thức xác định chỉ số đa dạng loài như Simpson (1949),
Margalef (1958), Menhinik (1964),... và để đánh giá mức độ phân tán hay tập
trung của các loài, đặc biệt là lớp thảm tươi, Drude đã đưa ra khái niệm độ nhiều
và cách xác định. Đây là những nghiên cứu mang tính định lượng nhưng xuất

phát từ những cơ sở sinh thái nên được đề tài lựa chọn và vận dụng.
Các nghiên cứu định lượng cấu trúc rừng cịn phát triển mạnh mẽ khi các
hàm tốn học được đưa vào sử dụng để mô phỏng các quy luật kết cấu lâm phần.
Rollet B. L. (1971) đã biểu diễn mối quan hệ giữa chiều cao và đường kính bằng
các hàm hồi quy, phân bố đường kính ngang ngực, đường kính tán bằng các
dạng phân bố xác suất, Belly (1973) sử dụng hàm Weibull để mơ hình hố cấu
trúc đường kính thân cây lồi Thơng,... Tuy nhiên, việc sử dụng các hàm tốn
học khơng thể phản ánh hết những mối quan hệ sinh thái giữa các cây rừng với
nhau và giữa chúng với hoàn cảnh xung quanh, nên các phương pháp nghiên cứu
cấu trúc rừng theo hướng này không được vận dụng trong đề tài.
Một vấn đề nữa có liên quan đến nghiên cứu cấu trúc rừng đó là việc phân
loại rừng theo cấu trúc và ngoại mạo. Cơ sở phân loại rừng theo xu hướng này là
đặc điểm phân bố, dạng sống ưu thế, cấu trúc tầng thứ và một số đặc điểm hình
thái khác của quần xã thực vật rừng. Đại diện cho hệ thống phân loại rừng theo
hướng này có Humbold (1809), Schimper (1903), Aubreville (1949), UNESCO
(1973)... Nhiều hệ thống phân loại rừng theo xu hướng này, khi nghiên cứu
ngoại mạo của quần xã thực vật đã khơng tách khỏi hồn cảnh sinh thái của nó,
từ đó hình thành xu hướng phân loại rừng theo ngoại mạo sinh thái.
Tóm lại, trên thế giới, các cơng trình nghiên cứu về đặc điểm cấu trúc
rừng nói chung và rừng nhiệt đới nói riêng rất phong phú, đa dạng, có nhiều
cơng trình nghiên cứu cơng phu và đã đem lại hiệu quả cao trong kinh doanh
rừng. Tuy nhiên, chưa thấy một cơng trình nào nghiên cứu đầy đủ về đặc điểm


7
cấu trúc rừng tự nhiên trên núi đá vôi. Cấu trúc rừng trên núi đá vôi thường được
đề cập cùng với các đối tượng rừng khác nên chưa làm nổi bật những đặc điểm
khác biệt về cấu trúc của loại rừng này so với các loại rừng khác. Do đó, cơ sở
khoa học cho việc đề xuất các biện pháp kỹ thuật cho rừng trên núi đá vơi vẫn
cịn nhiều vấn đề chưa được làm sáng tỏ.

1.1.2. Nghiên cứu về tái sinh rừng
Do sự phát triển công nghiệp thế kỷ XIX, trong ngành lâm nghiệp của thế
giới đã hình thành xu hướng thay thế rừng tự nhiên bằng rừng nhân tạo năng
suất cao nhằm đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế. Nhưng sau thất bại về tái sinh
nhân tạo ở Đức và một số nước nhiệt đới mà Beard (1947) [21] đã gọi là "bệnh
sởi trồng rừng"do thiếu sinh tố sinh thái học, nhiều nhà khoa học đã nghĩ tới việc
quay trở lại với tái sinh tự nhiên.
Khi đề cập vấn đề điều tra tái sinh tự nhiên, nhiều tác giả đã sử dụng cách
lấy mẫu ô vuông theo hệ thống của Lowdermilk (1927), với ô đo đếm điều tra tái
sinh có diện tích từ 1 đến 4 m2. Do diện tích ơ điều tra nhỏ nên việc đo đếm gặp
nhiều thuận lợi nhưng số lượng ô phải đủ lớn và trải đều trên diện tích khu rừng
mới phản ánh trung thực tình hình tái sinh rừng.
Trong phương thức rừng đều tuổi của Malaysia (MUS, 1945) [21], nhiệm
vụ đầu tiên được ghi trong lịch trình là điều tra tái sinh theo ô vuông 1/1000 mẫu
Anh (4 m2), để biết xem tái sinh có đủ hay khơng và sau đó mới tiến hành các tác
động tiếp theo.
Richards P.W (1952) [48] đã tổng kết việc nghiên cứu tái sinh trên các ô
dạng bản và phân bố tái sinh tự nhiên ở rừng nhiệt đới. Để giảm sai số trong khi
thống kê tái sinh tự nhiên, Barnard (1955) [46] đã đề nghị một phương pháp
"điều tra chẩn đốn" mà theo đó kích thước ơ đo đếm có thể thay đổi tuỳ theo
giai đoạn phát triển của cây tái sinh.
Một số tác giả nghiên cứu tái sinh tự nhiên rừng nhiệt đới châu Á như
Bara (1954), Budowski (1956), có nhận định, dưới tán rừng nhiệt đới nhìn chung
có đủ lượng cây tái sinh có giá trị kinh tế, nên việc đề xuất các biện pháp lâm
sinh để bảo vệ lớp cây tái sinh này là cần thiết. Nhờ những nghiên cứu này nhiều
biện pháp tác động vào lớp cây tái sinh đã được xây dựng và đem lại hiệu quả
đáng kể.


8

Van Steenis (1956) [50] đã nghiên cứu hai đặc điểm tái sinh phổ biến của
rừng nhiệt đới đó là tái sinh phân tán liên tục và tái sinh vệt (tái sinh lỗ trống).
Hai đặc điểm này không chỉ thấy ở rừng nguyên sinh mà còn thấy cả ở rừng thứ
sinh - một đối tượng rừng khá phổ biến ở nhiều nước nhiệt đới.
Khi nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố sinh thái đến tái sinh tự nhiên,
nhân tố ánh sáng (thông qua độ tàn che của rừng), độ ẩm của đất, kết cấu quần
thụ, cây bụi, thảm tươi được đề cập thường xuyên. Baur G.N., (1962) [21] cho
rằng, trong rừng nhiệt đới sự thiếu hụt ánh sáng ảnh hưởng đến phát triển của
cây con còn đối với sự nảy mầm và phát triển của cây mầm, ảnh hưởng này
thường khơng rõ ràng. Ngồi ra, các tác giả nhận định, thảm cỏ và cây bụi có
ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của cây tái sinh. Mặc dù ở những quần
thụ kín tán, thảm cỏ và cây bụi kém phát triển nhưng chúng vẫn có ảnh hưởng
đến cây tái sinh. Đối với rừng nhiệt đới, số lượng loài cây trên một đơn vị diện
tích và mật độ tái sinh thường khá lớn. Nhưng số lượng lồi cây có giá trị kinh tế
thường không nhiều và được chú ý hơn, cịn các lồi cây có giá trị kinh tế thấp
lại ít được quan tâm mặc dù chúng có vai trị sinh thái quan trọng. Vì vậy, khi
nghiên cứu tái sinh tự nhiên cần phải đề cập một cách đầy đủ tất cả các loài cây
xuất hiện trong lớp cây tái sinh để có những đánh giá chính xác tình hình tái sinh
rừng và có những biện pháp tác động phù hợp.
Như trên đã đề cập, mục tiêu thứ hai của các tác động xử lý ở rừng mưa
nhiệt đới là tạo lập tái sinh bằng mọi cách nhằm thực hiện tái sinh thành công.
Việc áp dụng hàng loạt các biện pháp kỹ thuật nhằm gây dựng và duy trì lớp cây
tái sinh trong tình trạng lành mạnh, đưa lớp cây tái sinh này tới tuổi thành thục
được coi là nền tảng của một phương thức lâm sinh.
Tón lại, các cơng trình nghiên cứu được đề cập trên đây phần nào làm
sáng tỏ việc nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và tái sinh rừng tự nhiên nói chung và
rừng nhiệt đới nói riêng. Đó là những cơ sở để lựa chọn cho việc nghiên cứu cấu
trúc và tái sinh rừng trong đề tài này. Việc nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và tái
sinh tự nhiên là việc làm hết sức quan trọng nên với từng đối tượng cụ thể, cần
có những phương pháp nghiên cứu phù hợp.

1.1.3. Một số nghiên cứu về rừng trên núi đá vôi:


9
Viện Lâm nghiệp Quảng Tây và Quảng Đông (Trung Quốc) đã tiến hành
nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng của một số lồi cây trên núi đá vơi như: Tơng
dù, Mắc rạc (Dầu choòng), Xoan nhừ, Lát hoa, Nghiến,... trong thời kỳ 19851998. Những nghiên cứu đó đã được tổng kết sơ bộ sau nhiều hội thảo khoa học
ở Học viện Lâm nghiệp Bắc Kinh với sự tham gia của nhiều nhà khoa học lâm
nghiệp đầu ngành của nước này và những hướng dẫn tạm thời về kỹ thuật phục
hồi rừng trên núi đá vôi đã được xây dựng. Tuy nhiên, những nguyên lý về phục
hồi và phát triển rừng trên núi đá vơi chưa được tổng kết một cách có hệ thống
nên việc áp dụng những hướng dẫn này cho nhiều quốc gia khác, trong đó có
Việt Nam cịn khiêm tốn và đang trong giai đoạn thử nghiệm.
1.2. ở Việt Nam
1.2.1. Phân vùng núi đá vôi Việt Nam
Theo kết quả điều tra năm 1995 (Viện Điều tra - Quy hoạch rừng) [39],
tổng diện tích núi đá vơi tồn quốc là 1.152.200 ha, chiếm 3,5% diện tích tồn
quốc và tập trung chủ yếu ở ba vùng là:
a) Vùng Đông Bắc: Tổng diện tích núi đá vơi vùng này là 639.900ha,
chiếm 55,54% tổng diện tích núi đá vơi tồn quốc. Theo địa hình và cấu tạo địa
chất vùng này được chia thành 5 vùng nhỏ: Bắc Sơn, Bắc Hà, Đồng Văn - Trùng
Khánh, Quản Bạ - Phia Phương và vùng quần đảo.
b) Vùng Tây Bắc: Chủ yếu là dạng địa hình núi và cao ngun đá vơi, có
các vùng cao ngun đá vơi chính là: Tả Phình - Sìn Chải, Sơn La, Mộc châu với
diện tích 229.700ha, chiếm 19,94%.
c) Vùng Trường Sơn Bắc: Điển hình là vùng núi đá vơi Kẻ Bàng - Khe
Ngang kéo dài. Đây là vùng núi đá vôi rộng lớn, hiểm trở và ít bị tác động của
con người với diện tích 249.800ha, chiếm 21,68%.
Dựa vào phân bố địa lý và cấu tạo của núi đá vơi có thể phân chia theo
các vùng sinh thái:

1. Vùng Cao Bằng - Lạng Sơn (Vùng Đơng Bắc): Diện tích núi đá vơi
phân bố tập trung. Địa hình núi trung bình và thấp, bao gồm một số cao nguyên
đá vôi khối uốn nếp có hoạt động Karst là kiểu địa mạo chủ yếu. Hệ thực vật đặc
trưng là luồng thực vật bản địa Bắc Việt Nam - Nam Trung Hoa.


10
2. Vùng Tuyên Quang - Hà Giang (vùng Trung tâm): Núi đá vôi tạo thành
từng khối lớn. Độ cao vùng này lớn hơn vùng Cao Bằng - Lạng Sơn. Hệ thực vật
ở đây chịu nhiều ảnh hưởng của luồng thực vật Hymalaya - Vân Nam - Quí
Châu.
3. Vùng Tây Bắc - Tây Thanh Hoá - Nghệ An (Vùng Tây Bắc): Đây là
vùng tương đối rộng lớn và kéo dài, chịu ảnh hưởng của các chế độ khí hậu khác
nhau nên có đầy đủ các vành đai từ nhiệt đới, á nhiệt đới. Tiêu biểu là các loài
của ngành Hạt trần như Pơ mu, Thơng Pà cị, Thơng nàng, Thơng tre, ngồi ra
cịn xuất hiện một số lồi đặc trưng của vùng phía Nam như Chị chỉ, Táu nước,
Sang lẻ…
4. Vùng Trường Sơn Bắc: Núi đá vôi ở đây chủ yếu tập trung ở Kẻ Bàng
và Khe Ngang, là nơi gặp gỡ của hai luồng thực vật từ Hymalaya qua Vân Nam
xuống và từ Indonesia lên. Do vậy, thực vật trên núi đá vơi vùng này có những
nét khác biệt, thành phần thực vật chủ yếu là các họ phân bố rộng ở rừng nhiệt
đới như họ Xoan, họ Đậu, họ Mộc lan, họ Dầu, họ Bồ hòn, họ Dâu tằm, họ Thị...
1.2.2. Lược sử nghiên cứu thảm thực vật rừng trên núi đá vơi ở Việt Nam
Trong q trình phân loại thảm thực vật rừng Việt Nam, Thái Văn Trừng
(1978) [33] đã xem xét loại hình thực vật trên núi đá vơi. Theo đó rừng trên núi
đá vơi được xác định thuộc kiểu phụ thổ nhưỡng kiệt nước trên đất đá vôi xương
xẩu (Đk) và nằm trong các kiểu thảm thực vật sau:
- Kiểu rừng kín thường xanh, mưa ẩm nhiệt đới (Rkx).
Đây là kiểu thảm thực vật chủ yếu của rừng trên núi đá vôi với ưu hợp
Nghiến + Trai lý (Burretiodendron hsienmu + Garcinia fragraoides) xuất hiện ở

những lèn, sườn núi đá vơi có độ dốc lớn, đặc trưng của những cảnh quan Karst,
có nhiều khoảng trống lớn để lộ đá gốc, sườn núi thường lởm chởm thấp dưới
700m thuộc một số tỉnh miền Bắc Việt Nam (Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang,
Tuyên Quang, Bắc Cạn, Ninh Bình). Tuy nhiên do quá trình khai thác và sử
dụng quá mức nên diện tích rừng nguyên sinh hoặc ít bị tác động cịn lại rất ít,
thường nằm ở các VQG và các KBTTN như Cúc Phương, Pù Lng,... Loại
thực bì này niện nay chủ yếu là những khu rừng thứ sinh trên núi đá vôi, phân bố
chủ yếu ở vùng gần dân cư, ven các trục đường, nơi mà việc khai thác vận
chuyển gặp nhiều thuận lợi. Tại nhiều nơi, do khai thác mạnh và cháy, rừng đã


11
trở nên nghèo kiệt, cịn ít những lồi cây gỗ, tổ thành rừng đã thay đổi, các loài
cây mọc nhanh chiếm ưu thế như Mạy tèo, Ơ rơ, Ba bét, Ràng ràng mít, Chẩn,...
Do vậy, kiểu thảm thực vật này còn được xác định là kiểu phụ thứ sinh nhân tác
trên đất đá vơi xương xẩu.
- Kiểu rừng kín nửa rụng lá, ẩm nhiệt đới (Rkn):
Rừng trên núi đá vôi ở đây có sự kết hợp của nhiều lồi cây khác nhau như
Nghiến + Trai lý + Chò nhai + Ơ rơ cùng các lồi rụng lá như Trường sâng, Xoan
nhừ, Gạo, Dâu da xoan, Lòng mang, Cui rừng… ở một số nơi thuộc các tỉnh Cao
Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn và Quảng Bình. Loại thảm thực vật này thường gặp
trên những sườn núi đá vôi dốc đứng hoặc tại các thung lũng núi đá vôi với đất
dốc tụ, thấp ẩm, thực vật phát triển cao, lớn gần giống với thực vật trên núi đất.
- Kiểu rừng kín thường xanh, mưa ẩm á nhiệt đới núi thấp (Rka):
Kiểu rừng này phân bố ở đai cao trên 700m: Chợ Rã (Bắc Cạn), Nguyên
Bình (Cao Bằng), Quản Bạ, Đồng Văn (Hà Giang), và vùng Tây Bắc... Đặc điểm
nổi bật là thực vật thuộc ngành Hạt trần có tỷ lệ tương đối lớn và tập trung, có các
lồi như Thơng Pà cị, Sam kim hỷ, Trắc bách Quản bạ,... Ở độ cao 1000m thuộc
vùng Tây Bắc, xuất hiện ưu hợp Kiêng + Heo (Burretiodendron brilletti + Croton
pseudoverticillata) thuộc kiểu phụ thổ nhưỡng kiệt nước trên đất rendzina giàu

chất dinh dưỡng.
- Kiểu rừng kín hỗn hợp cây lá rộng, lá kim ẩm á nhiệt đới núi thấp (Rkh)
ở Hà Giang, Tuyên Quang và Ninh Bình ở độ cao dưới 700m, với ưu hợp
Nghiến + Kim giao + Hoàng đàn (Burretiodendron hsienmu + Podocarpus
latiofolia + Cupressus terulus) cùng một số loài cây thuộc các họ Thích, Dẻ,...
Ngồi ra, tại những khu vực sau hoạt động nương rãy hoặc những khu
rừng đã bị khai thác nhiều lần đến cạn kiệt ở nhiều tỉnh như Lạng Sơn, Cao
Bằng, Hà Giang, Hồ Bình, Quảng Bình..., xuất hiện một dạng thực bì có diện
tích tương đối lớn với những lồi cây bụi, cây gỗ nhỏ như Ơ rơ, Mạy tèo, Xẻn
gai,... Dạng thực bì này được gọi là Quần lạc cây bụi, cây gỗ rải rác trên núi đá
vôi.
Trần Ngũ Phương (1970) [25], khi đề cập đến rừng ở miền Bắc Việt Nam
đã xếp rừng trên núi đá vôi vào: (1) đai rừng nhiệt đới mưa mùa với kiểu rừng
nhiệt đới lá rộng thường xanh núi đá vôi, kiểu này có 4 kiểu phụ thổ nhưỡng
nguyên sinh 1-2 tầng cây gỗ, trong đó Nghiến là lồi cây ưu thế; (2) đai rừng á


12
nhiệt đới mưa mùa với kiểu rừng á nhiệt đới lá kim trên núi đá vơi, kiểu này có 3
kiểu phụ một tầng, trong đó các lồi Vân sam (Keteeleria calcarea), Hoàng đàn
(Cupressus terulus) và Kim giao (Podocarpus latiofolia) chiếm ưu thế.
Ngoài ra, Theo Nguyễn Bá Thụ (1995) [32], rừng trên núi đá vôi ở Cúc
Phương được xếp vào quần hệ phụ rừng rậm nhiệt đới thường xanh mưa mùa
cây lá rộng trên đất thấp (dưới 500m so với mặt nước biển) thốt nước phong
hố từ đá vơi và quần hệ phụ này bao gồm 6 quần xã, trong đó các lồi cây
chính tham gia gồm Chị đãi, Sấu, Nhội, Vàng anh, Chò nhai, Mạy tèo, Sâng, Dẻ
gai, Re đá, Côm lá lớn, Trường nhãn, Vải guốc, Mang cát, Hồng bì rừng và Ơ rơ.
Thơng qua kết quả phân loại thảm thực vật rừng trên núi đá vôi của một
số tác giả trên đây, chúng tơi có một số nhận xét sau:
Trần Ngũ Phương (1970) chỉ tiến hành phân loại rừng trên núi đá vôi ở

trạng thái nguyên sinh, nên ở kiểu rừng nhiệt đới lá rộng thường xanh núi đá vơi
Nghiến (Burretiodendron hsienmu) là lồi cây ln giữ vai trị ưu thế. Trong
thực tế, phần lớn các diện tích rừng trên núi đá vôi hiện nay đã bị tác động, số
lượng tầng và loài cây ưu thế ở các kiểu rừng này đã thay đổi. Vì vậy, cách phân
chia của Trần Ngũ Phương không phù hợp với những đối tượng rừng nghiên cứu
của đề tài.
Hệ thống phân loại rừng của UNESCO (1973) mặc dù khá chi tiết và dễ
dàng vận dụng nhưng chỉ thích hợp cho việc phân loại thảm thực vật trong phạm
vi một vùng khí hậu như phân loại thảm thực vật cho một VQG, KBTTN. Hơn
nữa hệ thống phân loại này không đề cập đến thảm thực vật nhân tạo nên nó
thường được sử dụng trong các cơng trình nghiên cứu về tính đa dạng của thực
vật.
Hệ thống phân loại thảm thực vật rừng của Thái Văn Trừng được xây
dựng trên cơ sở học thuyết về hệ sinh thái của Tansley A.P (1935) và học thuyết
sinh địa quần học của Sucasev (1957) theo nguyên lý "sinh thái phát sinh thảm
thực vật". Do vậy, lý luận của phân loại này hoàn toàn chặt chẽ và đáp ứng được
thực tiễn, vì khả năng áp dụng dễ dàng. Để xác định một kiểu rừng chính, theo
Thái Văn Trừng, chỉ cần dựa vào 4 tiêu chuẩn là dạng sống ưu thế, tàn che, hình
thái sinh thái của lá và trạng mùa của tán lá của tầng cây ưu thế sinh thái. Mặt
khác, hệ thống phân loại của Thái Văn Trừng có thể áp dụng cho tất cả các loại
thảm thực vật dù đó là rừng nguyên sinh hay rừng thứ sinh bị tác động, thậm chí


13
là những khu rừng nhân tạo do con người xây dựng. Vì những lý do trên, chúng
tơi đã sử dụng các tiêu chuẩn phân loại rừng của Thái Văn Trừng để tiến hành
xác định các kiểu phụ và các QXTV rừng ở các địa phương nghiên cứu của đề
tài.
1.2.3. Nghiên cứu cấu trúc và tái sinh rừng
1.2.3.1. Nghiên cứu cấu trúc rừng

Trong vòng vài chục năm qua, nghiên cứu về cấu trúc rừng là một trong
những nội dung quan trọng nhằm đề xuất các giải pháp kỹ thuật phù hợp. Tuy
nhiên, cấu trúc rừng là một vấn đề có nội dung phong phú và đa dạng, nên ở đây,
chỉ những đặc trưng cấu trúc có liên quan đến đề tài mới được đề cập.
Trần Ngũ Phương (1970) [25] đã chỉ ra những đặc điểm cấu trúc của các
thảm thực vật rừng miền Bắc Việt Nam trên cơ sở kết quả điều tra tổng quát về
tình hình rừng miền Bắc Việt Nam từ 1961 đến 1965. Nhân tố cấu trúc đầu tiên
được nghiên cứu là tổ thành và thơng qua đó một số quy luật phát triển của các
hệ sinh thái rừng được phát hiện và ứng dụng vào thực tiễn sản xuất.
Thái Văn Trừng (1978) [33] đã tiến hành phân chia thực vật rừng nhiệt
đới thành 5 tầng: tầng vượt tán (A 1), tầng ưu thế sinh thái (A 2), tầng dưới tán
(A3), tầng cây bụi (B) và tầng cỏ quyết (C). Việc áp dụng phương pháp vẽ "biểu
đồ phẫu diện" sau khi đã đo tính chính xác vị trí, chiều cao và đường kính thân
cây, bề rộng và bề dày tán lá của toàn bộ những cây gỗ (tầng A) trên một dải hẹp
điển hình của khu tiêu chuẩn theo Richards và Davis (1934) đã thể hiện khá rõ
sự phân chia theo tầng của thực vật trong hệ sinh thái rừng. Bên cạnh đó, tác giả
này cịn dựa vào 4 tiêu chuẩn để phân chia kiểu thảm thực vật rừng Việt Nam,
đó là dạng sống ưu thế của những thực vật trong tầng cây lập quần, độ tàn che
nền đất đá của tầng ưu thế, hình thái sinh thái lá và trạng mùa của tán lá. Như
vậy, các nhân tố cấu trúc rừng được vận dụng triệt để trong phân loại rừng theo
quan điểm sinh thái phát sinh quần thể.
Nguyễn Văn Trương (1983) [34] khi nghiên cứu cấu trúc rừng hỗn loài đã
xem xét sự phân tầng theo hướng định lượng, phân tầng theo cấp chiều cao một
cách cơ giới. Từ những kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước, Vũ Đình
Phương (1987) [27] đã nhận định, việc xác định tầng thứ của rừng lá rộng
thường xanh là hoàn toàn hợp lý và cần thiết, nhưng chỉ trong trường hợp rừng
có sự phân tầng rõ rệt (khi đã phát triển ổn định) mới sử dụng phương pháp định


14

lượng để xác định giới hạn của các tầng cây. Đào Công Khanh (1996) [16] đã
tiến hành nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc rừng lá rộng thường xanh ở
Hương Sơn, Hà Tĩnh làm cơ sở đề xuất một số biện pháp lâm sinh phục vụ khai
thác và nuôi dưỡng rừng. Nguyễn Anh Dũng (2000) [8] đã tiến hành nghiên cứu
một số đặc điểm cấu trúc tầng cây gỗ cho hai trạng thái rừng là IIA và IIIA1 ở
lâm trường Sơng Đà - Hồ Bình. Các nghiên cứu này sẽ được đề tài xem xét và
lựa chọn để vận dụng vào các nội dung nghiên cứu.
Trong những năm gần đây, do có sự hỗ trợ của các phần mềm tính tốn,
nên có rất nhiều cơng trình nghiên cứu định lượng về cấu trúc rừng, nổi bật là
các cơng trình của các tác giả sau: Đồng Sĩ Hiền (1974) dùng hàm Meyer và hệ
đường cong Poisson để nắn phân bố thực nghiệm số cây theo cỡ đường kính cho
rừng tự nhiên làm cơ sở cho việc lập biểu độ thon cây đứng ở Việt Nam. Nguyễn
Hải Tuất (1975) đã sử dụng hàm phân bố giảm, phân bố khoảng cách để biểu
diễn cấu trúc rừng thứ sinh và áp dụng quá trình Poisson vào nghiên cứu cấu trúc
quần thể rừng...
Như vậy, trong thời gian qua, việc nghiên cứu cấu trúc rừng ở nước ta đã
có những bước phát triển nhanh chóng và có nhiều đóng góp nhằm nâng cao
hiểu biết về rừng, nâng cao hiệu quả trong nghiên cứu cũng như sản xuất kinh
doanh rừng. Tuy nhiên, các nghiên cứu về cấu trúc rừng gần đây thường thiên về
việc mơ hình hoá các quy luật kết cấu lâm phần và việc đề xuất các biện pháp kỹ
thuật tác động vào rừng thường thiếu yếu tố sinh thái nên chưa thực sự đáp ứng
mục tiêu kinh doanh rừng ổn định lâu dài. Bởi lẽ bản chất của các biện pháp kỹ
thuật lâm sinh là giải quyết những mâu thuẫn sinh thái phát sinh trong quá trình
sống giữa các cây rừng và giữa chúng với môi trường. Muốn đề xuất được các
biện pháp kỹ thuật lâm sinh chính xác, địi hỏi phải nghiên cứu cấu trúc rừng
một cách đầy đủ và phải đứng trên quan điểm tổng hợp về sinh thái học, lâm học
và sản lượng. Mặt khác, các nghiên cứu về đặc điểm cấu trúc rừng tự nhiên
thường ít đề cập cụ thể đến đối tượng là loại rừng trên núi đất hay trên núi đá,
đặc biệt là rừng trên núi đá vơi. Vì vậy, nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc
rừng trên núi đá vơi khơng chỉ có ý nghĩa lý luận mà cịn có ý nghĩa thực tiễn sâu

sắc nhằm đề xuất những biện pháp kỹ thuật tác động hợp lý.
1.2.3.2. Nghiên cứu về tái sinh rừng


15
Ở nước ta, chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ
thống về tái sinh rừng, đặc biệt là tái sinh tự nhiên. Một số kết quả nghiên cứu
về tái sinh thường được đề cập trong các cơng trình nghiên cứu về thảm thực vật,
trong các báo cáo khoa học và một phần công bố trên các tạp chí.
Khi bàn về vấn đề đảm bảo tái sinh trong khai thác rừng, Phùng Ngọc Lan
(1964) [18] đã nêu kết quả tra dặm hạt Lim xanh dưới tán rừng ở lâm trường
Hữu Lũng, Lạng Sơn. Ngay từ giai đoạn nảy mầm, bọ xít là nhân tố gây ảnh
hưởng đáng kể đến tỷ lệ nảy mầm.
Trong thời gian từ năm 1962 đến năm 1969, Viện Điều tra - Quy hoạch
rừng đã điều tra tình hình tái sinh tự nhiên theo các "loại hình thực vật ưu thế"
rừng thứ sinh ở Yên Bái (1965), Hà Tĩnh (1966), Quảng Bình (1969) và Lạng
Sơn (1969). Đáng chú ý là kết quả điều tra tái sinh tự nhiên ở vùng sông Hiếu
(1962-1964) bằng phương pháp đo đếm điển hình. Từ kết quả điều tra tái sinh,
dựa vào mật độ cây tái sinh, Vũ Đình Huề (1969) [14] đã phân chia khả năng tái
sinh rừng thành 5 cấp, rất tốt, tốt, trung bình, xấu và rất xấu với mật độ tái sinh
tương ứng là trên 12.000 c/ha, 8.000-12.000 c/ha, 4.000-8.000 c/ha; 2.000-4.000
c/ha và dưới 2.000 c/ha. Nhìn chung nghiên cứu này mới chỉ chú trọng đến số
lượng mà chưa đề cập đến chất lượng cây tái sinh. Cũng từ kết quả điều tra trên,
Vũ Đình Huề (1975) [15] đã tổng kết và rút ra nhận xét, tái sinh tự nhiên rừng
miền Bắc Việt Nam mang những đặc điểm tái sinh của rừng nhiệt đới. Dưới tán
rừng nguyên sinh, tổ thành loài cây tái sinh tương tự như tầng cây gỗ; dưới tán
rừng thứ sinh tồn tại nhiều loài cây gỗ mềm kém giá trị và hiện tượng tái sinh
theo đám được thể hiện rõ nét tạo nên sự phân bố số cây không đồng đều trên
mặt đất rừng. Những nhận xét trên sẽ được đề tài vận dụng trong việc đánh giá
mật độ tái sinh rừng và so sánh tổ thành tầng cây tái sinh với tổ thành tầng cây

cao tại các QXTV nghiên cứu để có thể nhận biết chiều hướng phát triển của
rừng trong tương lai.
Khi nghiên cứu về thảm thực vật rừng Việt Nam, Thái Văn Trừng (1978)
[33] đã nhấn mạnh tới ý nghĩa của điều kiện ngoại cảnh đến các giai đoạn phát
triển của cây tái sinh. Theo tác giả, ánh sáng là nhân tố sinh thái khống chế và
điều khiển quá trình tái sinh tự nhiên ở cả rừng nguyên sinh lẫn rừng thứ sinh.
Nguyễn Văn Trương (1983) [34] đã đề cập mối quan hệ giữa cấu trúc
QXTV rừng với tái sinh tự nhiên trong rừng hỗn loài. Điều này sẽ được đề tài


16
vận dụng trong nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố sinh thái đến tái sinh tự
nhiên, đặc biệt là độ tàn che của tán rừng.
Hiện tượng tái sinh lỗ trống ở rừng thứ sinh Hương Sơn, Hà Tĩnh đã được
Phạm Đình Tam (1987) [30] làm sáng tỏ. Theo tác giả, số lượng cây tái sinh
xuất hiện khá nhiều dưới các lỗ trống khác nhau. Lỗ trống càng lớn, cây tái sinh
càng nhiều và hơn hẳn những nơi kín tán. Từ đó tác giả đề xuất phương thức
khai thác chọn, tái sinh tự nhiên cho đối tượng rừng khu vực này. Đây là một
trong những đặc điểm tái sinh phổ biến ở rừng nhiệt đới, nhưng đối với rừng núi
đá vôi với nền đất đá xương xẩu, liệu tại những chỗ trống trong rừng, hiện tượng
tái sinh này có gì khác biệt.
Trong một cơng trình nghiên cứu về cấu trúc, tăng trưởng trữ lượng và tái
sinh tự nhiên rừng thường xanh lá rộng hỗn loài ở ba vùng kinh tế (Sông Hiếu,
Yên Bái và Lạng Sơn), Nguyễn Duy Chuyên (1988) [5] đã khái quát đặc điểm
phân bố của nhiều loài cây có giá trị kinh doanh và biểu diễn bằng các hàm lý
thuyết. Từ đó làm cơ sở định hướng các giải pháp lâm sinh cho các vùng sản
xuất nguyên liệu. Trần Cẩm Tú (1998) [29] tiến hành nghiên cứu tái sinh tự
nhiên sau khai thác chọn ở Hương Sơn, Hà Tĩnh và đã rút ra kết luận, áp dụng
phương thức xúc tiến tái sinh tự nhiên có thể đảm bảo khôi phục vốn rừng, đáp
ứng mục tiêu sử dụng tài nguyên rừng bền vững. Tuy nhiên, các biện pháp kỹ

thuật tác động phải có tác dụng thúc đẩy cây tái sinh mục đích sinh trưởng và
phát triển tốt, khai thác rừng phải đồng nghĩa với tái sinh rừng, phải chú trọng
điều tiết tầng tán của rừng; đảm bảo cây tái sinh phân bố đều trên tồn bộ diện
tích rừng; trước khi khai thác, cần thực hiện các biện pháp mở tán rừng, chặt cây
gieo giống, phát dọn dây leo cây bụi và sau khai thác phải tiến hành dọn vệ sinh
rừng.
Những kết luận trên đây có thể sử dụng để tham khảo cho những đề xuất
biện pháp kỹ thuật tác động vào rừng khi nghiên cứu phân bố cây tái sinh theo
chiều cao và phân bố cây tái sinh trên mặt đất ở các QXTV rừng trên núi đá vôi
trong đề tài này.
Trần Ngũ Phương (2000) [26] khi nghiên cứu các quy luật phát triển rừng
tự nhiên miền Bắc Việt Nam đã nhấn mạnh quá trình diễn thế thứ sinh của rừng
tự nhiên như sau: "Trường hợp rừng tự nhiên có nhiều tầng khi tầng trên già
cỗi, tàn lụi rồi tiêu vong thì tầng kế tiếp sẽ thay thế; trường hợp nếu chỉ có một


17
tầng thì trong khi nó già cỗi một lớp cây con tái sinh xuất hiện và sẽ thay thế nó
sau khi nó tiêu vong, hoặc cũng có thể một thảm thực vật trung gian xuất hiện
thay thế, nhưng về sau, dưới lớp thảm thực vật trung gian này sẽ xuất hiện một
lớp cây con tái sinh lại rừng cũ trong tương lai và sẽ thay thế thảm thực vật
trung gian này, lúc bấy giờ rừng cũ sẽ được phục hồi". Tuy nhiên, sau một thời
gian nghiên cứu tìm hiểu quy luật phát triển của các loại hình rừng tự nhiên, xây
dựng bảng cân đối giữa một bên là mặt thoái hoá và một bên là mặt phục hồi tự
nhiên, tác giả này và các cộng tác viên đã kết luận: "mặt phục hồi tự nhiên
không bao giờ cân đối được với mặt thoái hoá về số lượng cũng như chất lượng,
nên muốn đảm bảo cho đất nước một độ che phủ thích hợp, chúng ta khơng thể
trơng cậy vào quy luật tái sinh tự nhiên mà chỉ có thể đi theo con đường tái sinh
nhân tạo, và phương thức chặt tỉa kết hợp với tái sinh tự nhiên hiện nay phải bị
lên án".

Thực tế cho thấy, với điều kiện nước ta hiện nay, nhiều khu vực vẫn phải
trông cậy vào tái sinh tự nhiên còn tái sinh nhân tạo mới chỉ được triển khai trên
quy mơ hạn chế. Vì vậy, những nghiên cứu đầy đủ về tái sinh tự nhiên cho từng
đối tượng rừng cụ thể là hết sức cần thiết nếu muốn đề xuất biện pháp kỹ thuật
chính xác.
1.2.4. Một số nghiên cứu khác về rừng trên núi đá vôi ở Việt Nam
Viện Điều tra - Quy hoạch rừng (1965) [9] cùng với Viện sinh thái tài
nguyên sinh vật, Viện Dược liệu,... đã tiến hành nghiên cứu mức độ đa dạng sinh
vật, công tác quản lý bảo vệ và sử dụng tài nguyên rừng trên núi đá vôi ở Cao
Bằng và một số địa phương khác.
Trong hai năm 1967 và 1968, Nguyễn Vạn Thường và đội 9 Lâm học Viện Điều tra Quy hoạch (Bộ Lâm nghiệp) thực hiện điều tra chuyên đề rừng núi
đá vôi tại một số khu vực thuộc tỉnh Hà Giang, Tun Quang, Hồ Bình, Cao
Bằng, Quảng Ninh. Kết quả điều tra đã đưa ra nhận xét khái quát: sự biến đổi
các đặc trưng lâm học của các quần hệ rừng trên núi đá vôi miền Bắc Việt Nam
có sự sai khác rõ rệt về cấu trúc (ngay cả trong trạng thái rừng nguyên sinh) trên
các dạng địa hình chủ yếu.
Báo cáo Đ
" ặc điểm tự nhiên rừng núi đá vôi Na Hang, Tuyên Quang"
(1968) [9] đã đưa ra số liệu về diện tích và trữ lượng tài nguyên rừng núi đá vôi


18
đồng thời xác định các đặc điểm chủ yếu của một số lồi cây trên núi đá vơi như
Nghiến, Trai, Tre trinh, Đao, Báng,... và tình hình sâu bệnh hại trong vùng.
Ngồi ra, báo cáo này cịn đưa ra một số nhận định về tái sinh của Nghiến, Trai
lý...
Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu về rừng núi đá vơi trên đây chủ yếu
được thực hiện dưới dạng mô tả, thống kê tài nguyên và đưa ra một số kiến nghị
bảo vệ và kinh doanh rừng, chưa đi sâu phân tích đặc điểm cấu trúc và đánh giá
tái sinh cũng như chiều hướng diễn thế của rừng trên núi đá vôi ở từng địa

phương cụ thể. Mặt khác, những biến đổi theo chiều hướng tiêu cực của điều
kiện hoàn cảnh núi đá vôi sau khi rừng bị khai thác đã chỉ ra mức độ nghiêm
trọng của việc mất rừng và nhất thiết phải có biện pháp duy trì các diện tích rừng
hiện có và khơi phục diện tích rừng đá vơi đã mất.
Hồng Kim Ngũ (1990-1998) đã tiến hành nghiên cứu đặc điểm sinh vật
học và khả năng gây trồng các loài cây như Nghiến, Mạy sao, Trai lý, Hoàng
đàn, Mắc rạc, Xoan nhừ, Mắc mật... trên núi đá vôi ở Hà Giang, Cao Bằng, Bắc
Cạn [24]. Tác giả này đã xác định được một số đặc điểm sinh thái và đề xuất kỹ
thuật gây trồng các loài cây này ở các địa phương trên. Từ năm 1999 tác giả tiến
hành gây trồng thử nghiệm các loài cây này trên đất đá vôi ở một số nơi khác ở
Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn và các tỉnh vùng Tây Bắc. Tuy nhiên, do còn
đang trong thời gian thử nghiệm nên đây chỉ là những khẳng định ban đầu về
khả năng thành cơng của các mơ hình phục hồi rừng, đặc biệt là các mơ hình ở
vùng Tây Bắc.
Tại Phúc Sen, Cao Bằng, người dân địa phương (chủ yếu là người Nùng
Inh) đã tiến hành trồng rừng trên đất đá vôi bằng loài Mắc rạc. Kết quả cho thấy,
khả năng thành rừng khi trồng lồi cây này rất cao, góp phần che phủ những diện
tích đất trống và cung cấp chất đốt cho bà con. Đây được xem là những đóng
góp quan trọng cho việc nghiên cứu phục hồi rừng trên núi đá vơi.
Tóm lại, trong thời gian qua, nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và tái sinh
rừng đã trở thành vấn đề trọng tâm của các nghiên cứu về rừng. Tuy nhiên, các
cơng trình nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và tái sinh tự nhiên và đề xuất các biện
pháp kỹ thuật hợp lý chủ yếu cho đối tượng rừng núi đất hoặc núi đá khác. Còn
với rừng trên núi đá vơi, ít có cơng trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và tồn
diện. Vì vậy, nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc và tái sinh tự nhiên các


19
QXTV rừng trên núi đá vôi tại ba địa phương miền Bắc Việt Nam được thực
hiện trên cơ sở lựa chọn và vận dụng những kết quả của các tác giả đi trước.

Thơng qua đó, đề tài sẽ đề xuất một số biện pháp kỹ thuật phù hợp góp phần
phục hồi và phát triển hệ sinh thái rừng trên núi đá vôi ở các địa phương nghiên
cứu.


20

CHƯƠNG 2
Mục tiêu, giới hạn, nội dung và phương pháp nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Về lý luận
Làm sáng tỏ cơ sở khoa học phục hồi và phát triển rừng trên núi đá vôi.
2.1.2. Về thực tiễn
Nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc và tái sinh QXTV rừng trên núi đá
vôi làm cơ sở đề xuất một số biện pháp kỹ thuật lâm sinh nhằm phục hồi và phát
triển rừng tại ba địa phương miền Bắc Việt Nam.
2.2. Phạm vi và giới hạn của đề tài
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là một số QXTV rừng tự nhiên điển hình
trên núi đá vơi hiện có tại ba địa phương ở miền Bắc Việt Nam.
2.2.2. Giới hạn vấn đề nghiên cứu
2.2.2.1. Về nội dung:
- Xác định các QXTV rừng tự nhiên trên núi đá vơi hiện có ở ba địa
phương nghiên cứu theo hệ thống phân loại thảm thực vật rừng Việt Nam của
Thái Văn Trừng (1978).
- Về nghiên cứu cấu trúc rừng:
Cấu trúc rừng tự nhiên rất đa dạng, phức tạp, đề tài chỉ tiến hành nghiên
cứu một số đặc điểm cấu trúc sau: tổ thành, mật độ, tầng thứ, độ tàn che, mức độ
thường gặp, mức độ thân thuộc và một số chỉ tiêu đa dạng loài của tầng cây gỗ.
Ngoài ra đề tài còn tiến hành xác định các dạng sống của thực vật trên núi đá vôi

ở ba địa phương.
- Về nghiên cứu tái sinh rừng: Đề tài chỉ tiến hành nghiên cứu một số đặc
điểm tái sinh của các loài cây gỗ trong giai đoạn cây mạ và cây con dưới tán
rừng thông qua các chỉ tiêu: tổ thành, mật độ, chất lượng, nguồn gốc, tỷ lệ cây
triển vọng, phân bố cây tái sinh theo chiều cao, phân bố cây tái sinh trên mặt đất.
Việc nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố sinh thái đến tái sinh tự nhiên của
các QXTV rừng ở ba địa phương được tiến hành với một số nhân tố sau: độ tàn
che của tầng cây cao, độ che phủ của cây bụi, thảm tươi và độ dốc mặt đất.
2.2.2.2. Về địa điểm:



×