Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Tiểu luận cao học quyền lực chính trị cơ chế kiểm soát quyền lực chính trị tại việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.08 KB, 27 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ

Đề tài:

CƠ CHẾ KIỂM SỐT QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ
TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
CHƯƠNG 1......................................................................................................5
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SỐT QUYỀN LỰC CHÍNH
TRỊ VÀ CƠ CHẾ KIỂM SỐT QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ....................5
1.1. Kiểm sốt quyền lực chính trị...............................................................5
1.2. Cơ chế quyền lực chính trị....................................................................8
CHƯƠNG 2....................................................................................................11
THỰC TRẠNG CƠ CHẾ KIỂM SỐT QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY................................................................................11
CHƯƠNG 3....................................................................................................15
GIẢI PHÁP HỒN THIỆN CƠ CHẾ KIỂM SỐT QUYỀN LỰC
CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.....................................................15
KẾT LUẬN....................................................................................................24


MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Trong quá trình tổ chức, thực thi quyền lực, vấn đề kiểm soát quyền lực


được coi là một nhu cầu tất yếu. Nhà nước (với tư cách là một thiết chế đặc
biệt của xã hội) thực hiện chức năng quản lý xã hội dựa vào pháp luật, đảm
bảo thực hiện thông qua bộ máy hành chính nhà nước và cưỡng chế thi hành
bằng các cơng cụ công lực như quân đội, cảnh sát, nhà tù, tịa án. Trong q
trình hoạt động của bộ máy hành chính và cơng quyền, việc xuất hiện khả
năng lạm dụng quyền lực vì một số mục tiêu riêng là rất dễ xảy ra. Vì vậy,
bản thân Nhà nước cần phải kiểm sốt, giới hạn được quyền lực nhằm duy trì
bản chất và chức năng của mình.
Kiểm sốt quyền lực có thể hiểu là một việc bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá
nhân nào khi được giao sử dụng quyền lực đều phải chịu sự kiểm sốt và “ở
mọi cấp chính quyền, quyền lực chính trị đều phải bị phân chia, làm cho
quyền lực đó khơng có cơ hội tập trung”. Sự phân quyền, theo cách hiểu trên
bao gồm: (1) Sự phân bố quyền lực theo chiều ngang: giữa các nhánh quyền
lực riêng rẽ của chính quyền; (2) Phân chia quyền lực theo chiều dọc trong
mối quan hệ giữa cơ quan trong hệ thống chính trị.
Lý luận và thực tiễn cho thấy, vấn đề kiểm sốt quyền lực chính trị là
một yếu tố quan trọng trong hoạt động quản lý quyền lực chính trị. Sự kiểm
sốt này bao gồm sự kiểm sốt giữa các cấp trong cùng một hệ thống chính trị
thông qua việc ban hành các quy chuẩn hoạt động cùng với kiểm tra việc thực
hiện và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước ở các nơi được giao quyền. Việc
kiểm sốt tốt quyền lực chính trị sẽ đảm bảo được chất lượng dịch vụ công
cho cuộc sống của xã hội, đảm bảo quyền lợi của người dân và tránh sự lạm
dụng quyền hạn của cơ quan quyền lực trong hệ thống chính trị ở nước ta.
Tại Việt Nam, vấn đề kiểm sốt quyền lực chính trị giữa các nhánh
quyền lực tuân theo nguyên tắc về tính thống nhất, sự phân công phối hợp và
1


kiểm sốt quyền lực chính trị. Bên cạnh đó, sự phân chia quyền lực giữa các
cấp trong hệ thống chính trị cũng được thực hiện theo nguyên tắc phân cấp,

phân quyền, nâng cao tính tự chủ.
Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, thực tế tồn tại những vấn đề lạm dụng
độc quyền, cửa quyền, tham nhũng xuất phát từ các cơ quan và cá nhân được
giao sử dụng quyền lực ở các cấp trong hệ thống chính trị. Vấn đề thực hành
quyền dân chủ của nhân dân chưa được thực hiện nghiêm túc, quyền được
tham gia các hoạt động quản lý xã hội của người dân cịn mang nặng tính hình
thức, chưa thực sự hiệu quả.
Bên cạnh đó, vấn đề tổ chức, thực hiện quyền lực chính trị từ cấp trên
xuống cấp dưới cịn nhiều bất cập. Trong đó, việc phân quyền giữa cấp trong
hệ thống chính trị đã được quan tâm nhưng trên thực tế vẫn xảy ra tình trạng
tập trung quá mức quyền lực ở một cấp. Mặc dù đã có Hiến pháp được đưa ra
với quy định mới về chính quyền, phần nào đã giải quyết được mối quan hệ
giữa các cấp trong hệ thống chính trị nước ta, nhưng nó vẫn chưa hồn thiện
được cơ chế kiểm sốt quyền lực trong hệ thống chính trị.
Như vậy, hoạt động kiểm sốt quyền lực chính trị tại các cấp chính
quyền trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay có biểu hiện chưa được
kiểm sốt tốt. Nói cách khác, các cơ chế để thực hiện việc kiểm sốt quyền
lực chính trị ở một số cấp chính quyền cịn chưa được hiệu quả.
Do đó, vấn đề kiểm sốt quyền lực chính trị ở nước ta thơng qua các cơ
chế hiến định đã trở thành một yêu cầu vô cùng cấp thiết, đòi hỏi phải được
giải quyết cả về mặt lý luận và thực tiễn. Qua đó, đưa ra các định hướng, giải
pháo nhằm tăng cường kiểm soát quyền lực chính trị, góp phần vào việc
chống th hoa quyền lực trong hệ thống chính trị, tăng cường thực hiện tính
dân chủ, đảm bảo được các quyền lợi và lợi ích chính đáng của tồn dân, tồn
xã hội.
Chính vì những lý do trên nên em xin chọn đề tài “Cơ chế kiểm sốt
quyền lực chính trị tại Việt Nam hiện nay”, làm đề tài tiểu luận kết thúc
môn Quyền lực chính trị.
2



2.

Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu

Mục đích; Nghiên cứu cơ chế kiểm sốt quyền lực chính trị tại Việt
Nam hiện nay.
Nhiệm vụ; Làm rõ một số vấn đề lý luận chung về kiểm sốt quyền lực
chính trị, cơ chế kiểm sốt quyền lực chính trị ở nước ta; đưa ra nội dung cơ
chế kiểm sốt quyền lực chính trị và chỉ ra những vấn đề đặt ra đối với việc
xây dựng cơ chế kiểm sốt quyền lực chính trị tại Việt Nam trong thời đại
hiện nay; đề ra các giải pháp đẻ hoàn thiện cơ chế quyền lực chính trị.
3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng; Nghiên cứu cơ chế kiểm sốt quyền lực chính trị tại Việt
Nam hiện nay.
Phạm vi; Cơ chế kiểm soát quyền lực chính trị tại Việt Nam hiện nay.
4.

Phương pháp nghiên cứu

Tiểu luận sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học xã
hội như phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, hệ thống, cấu trúc, nghiên
cứu tài liệu lịch sử.
5.

Ý nghĩa của tiểu luận


Tiểu luận hệ thống hóa được một số vấn đề lý luận về cơ chế kiểm sốt
quyền lực chính trị tại Việt Nam. Tiểu luận đi sâu phân tích cơ chế kiểm sốt
quyền lực chính trị ở nước ta trong bối cảnh đất nước hiện nay và chỉ ra các
vấn đề đặt ra đối với việc xây dựng cơ chế kiểm sốt quyền lực chính trị. Từ
đó, tiểu luận đề xuất những giải pháp, phương hướng để hồn thiện cơ chế
kiểm sốt quyền lực chính trị tại Việt Nam hiện nay.
Các kết quả nghiên cứu của tiểu luận sẽ được sử dụng làm tài liệu tham
khảo, học tập, giảng dạy cho các cơng trình nghiên cứu về sau có liên quan
đến hoạt động quyền lực chính trị.
6.

Kết cấu

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dụng bài tiểu luận
bao gồm 3 chương:
3




Chương 1. Một số vấn đề lý luận về kiểm sốt quyền lực chính

trị và cơ chế kiểm sốt quyền lực chính trị


Chương 2. Nội dung cơ chế kiểm sốt quyền lực chính trị và

những vấn đề đặt ra đối với việc xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực chính
trị tại Việt Nam hiện nay



Chương 3. Giải pháp hồn thiện cơ chế kiểm sốt quyền lực

chính trị ở Việt Nam hiện nay

4


CHƯƠNG 1.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC CHÍNH
TRỊ VÀ CƠ CHẾ KIỂM SỐT QUYỀN LỰC CHÍNH

1.1.

TRỊ

Kiểm sốt quyền lực chính trị

1.1.1. Khái niệm kiểm sốt quyền lực chính trị
Trong nguồn gốc ngữ nghĩa, kiểm sốt (Control) được cấu tạo bởi hai
âm vị: Contre (đối lập, đối trọng, chống lại, đương đầu) và rol (vai trò). Trên
lĩnh vực chính trị -xã hội, khái niệm kiểm sốt chứa đựng nội hàm khá phong
phú gồm: xam xét, kiểm tra, thanh tra, ngăn chặn, ca thiệp, xử lý, trừng phạt.
Về mặt lịch sử, hành động kiểm soát ban đầu được áp dụng trong lĩnh vực
kinh tế - tài chính, sau đó được mở rộng, phát triển cùng với sự phát triển của
nhà nước pháp quyền. Ban đầu, nó chỉ áp dụng nhằm kiểm sốt quyền lực
hành pháp, sau đó được mở rộng sang mọi nhánh quyền lực khác. Ngày nay,
khái niệm kiểm soát được hiểu là một chức năng hiến định nhằm mục đích
đảm bảo rằng các cơ quan quyền lực công đều bị đặt trong giới hạn đã được
hiến pháp và pháp luật quy định. Chức năng kiểm sốt được thể hiện bằng

nhiều biện pháp, hình thức đa dạng: ủy quyền, chấp thuận, xác minh, kiểm
tra, thanh tra, xử phạt, phê bình. Các thiết chế kiểm sốt được tổ chức theo hệ
thống gồm nhiều cấp nhằm đảm bảo sự minh bạch, chính xác của hành động
kiểm sốt.
Kiểm sốt quyền lực chính trị là một khái niệm chính trị - pháp lý và
thể chế, bao hàm sự hạn chế nhất định đối với quyền lực chính trị; là một
trong những nguyên tắc cơ bản của nhà nước pháp quyền.
Có hai loại kiểm soát là tiền kiểm soát và hậu kiểm soát. Tiền kiểm soát
là hành động tự kiểm soát của từng chủ thể trước khi thực hiện hành động.
Hậu kiểm soát là hành động tự kiểm soát của từng chủ thể trước khi thực hiện
hành động. Hâu kiểm soát là hành động kiểm sốt những gì đã xảy ra, đã

5


được tiến hành. Trong trường hợp này, chủ thể kiểm soát và đối tượng kiểm
soát là những pháp nhân khác nhau; chủ thể kiểm sốt khơng tham gia vào
những gì đã diễn ra nên có khả năng tiến hành kiểm sốt một cách khách
quan, khơng thiên vị.
Có nhiều cách phân loại kiểm soát. Căn cứ và bản chất và đặc điểm chủ
thể kiểm sốt, có loại hình kiểm sốt thể chế do các cơ quan nhà nước thực
hiện và loại hình kiểm sốt phi thể chế do các tổ chức, nhóm xã hội phi chính
thức thực hiện. Loại hình kiểm sốt thể chế bao gồm kiểm sốt chính trị, kiểm
sốt tư pháp, kiểm sốt hành chính và kiểm sốt xã hội. Loại hình kiểm sốt
phi thể chế bao gồm kiểm sốt do các phương tiện thơng tin, dư luận xã hội
thực hiện và kiểm soát do các tổ chức phi chính phủ, các nhóm đại diện tiến
hành.
Kiểm sốt chính trị thuộc chức năng của nghị viện (Quốc hội) và trước
hết được hiểu là một công cụ để hạn chế quyền lực hành pháp. Đối tượng của
kiểm sốt chính trị có thể là một hành động chính trị cụ thể, hoặc hoạt động

chính trị chung, hoặc một quy định đã ban hành… và đặc biệt là các thiết chế
quyền lực. Ví dụ: khi quốc hội thông qua hay phủ quyết một pháp lệnh nào
đó, tức là đã thực hiện kiểm sốt đối với văn bản pháp lý và cả quyền lực
hành pháp – thiết chế đưa ra dự thảo pháp lệnh. Kiểm sốt chính trị khơng có
chế tà xử phạt, nhưng khơng vì thế mà khơng có vai trị, vị trí và sức mạnh
trong đời sống chính trị. Bản thân việc đưa các hoạt động của quyền lực công
ra cho công luận xem xét, đánh giá, phản biện, tự nó đã có ý nghĩa hạn chế và
kiểm sốt. Để thực hiện được quyền kiểm sốt chính trị đối với quyền lực
hành pháp, quốc hội cần đảm bảo được quyền xác định quyền hạn của quan
chức các cấp, quyền hạn chính trị của nguyên thủ quốc gia và quyền quyết
định, phê chuẩn ngân sách.
Kiểm sốt tư pháp là loại hình kiểm sốt quyền lực nhằm đảm bảo tính
tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội và trong hoạt động của các cơ
quan quyền lực. Đây được xem là loại kiểm soát cứng, với những quy định
6


nghiêm ngặt của pháp luật, khác với kiểm sốt chính trị là loại kiểm soát mềm
đối với quyền lực. Kiểm sốt tư pháp, với tính cách là hoạt động thuần túy tư
pháp, chỉ do các lực lượng nghiệp vụ (thẩm phán, quan tịa…) tiến hành.
Chức năng của kiểm sốt tư pháp là bác bỏ mọi quyết định và những hành
động của quyền lực công cộng khi chúng trai lại với hiến pháp hay gây tổn
hại tới các quyền hiến định. Thơng thường, kiểm sốt tư pháp sẽ hướng vào
đảm bảo tính hiến định của các đạo luật quốc gia; các văn bản quy phạm pháp
luật của chính quyền địa phương và các cơ quan quản lý nhà nước; các hành
động của chính quyền; các hiệp ước quốc tế;…
Kiểm sốt hành chính, là loại hình kiếm sốt do quyền lực hành pháp
tiến hành đối với hoạt động của tổ chức bộ máy chính quyền của chính mình.
Kiểm sốt xã hội là loại hình kiểm sốt do nhân dân tiến hành một cách
trực tiếp, hoặc thơng qua đại diện của mình. Để đảm bảo cơ chế dân chủ tham

dự của người dân, hiến pháp nhiều nước cụ thể hóa rằng mọi cơng dân đều có
quyền tham gia vào các quan chức trở thành một trong những hình thức phổ
biến nhất của kiểm sốt xã hội.
1.1.2. Mục đích của kiểm sốt quyền lực chính trị


Mục tiêu của kiểm sốt quyền lực chính trị

Sự kiểm sốt dù nhìn dưới góc độ nào cũng đều có mục đích phổ qt –
để thực thi quyền lực và ngăn chặn sự tha hóa của quyền lực, từ đó có thể xác
định những mục tiêu của kiểm sốt quyền lực chính trị:
+ Làm cho quyền lực được thực hiện đúng mục đích, có hiệu lực và
hiệu quả; ngăn chặn, phát hiện và xử lý những hành vi sai phạm, điều chỉnh
và hoàn thiện phương thức thực thi quyền lực, tiết kiệm thời gian, nguồn lực
và chi phí cho việc thực thi quyền lực.
+ Kiểm soát quyền lực diễn ra trong suốt quá trình vận hành của quyền
lực và hệ thống tổ chức, bộ máy quyền lực vì vậy quyền lực phải được kiểm
sốt cả khi quyền lưc khơng được sử dụng đủ mức, quá mức hay sai mục
đích.
7


+ Kiểm soát quyền lực bao hàm nghĩa rộng và nghĩa hẹp, trực tiếp và
gián tiếp với những nội dung và hình thức, mức độ và phạm vi phương pháp
và phương tiện khác nhau.
+ Mức độ kiểm soát quyền lực phụ thuộc vào hoại hình, quy mơ và
dung lượng quyền lực được sử dụng, vào quyền lực tương đối của đối tượng
quyền lực.



Mục tiêu kiểm soát quyền lực nhà nước

Từ những mục tiêu chung của kiểm soát quyền lực, việc kiểm soát
quyền lực nhà nước (với tư cách là trung tâm của quyền lực) có những mục
tiêu chính sau: đảm bảo quyền lực nhà nước được sử dụng đúng mục đích,
hiệu quả; hạn chế phạm vi quyền lực nhà nước trong khuôn khổ Hiến pháp,
pháp luật, bảo đảm các quyền và lợi ích của nhân dân, cơng dân; ngăn chặn và
khắc phục sự tha hóa của quyền lực, đưa quyền lực nhà nước trở về đúng
nghĩa của nó là quyền lực của nhân dân, quyền lực công thực hiện chức năng
cơng quản của xã hội.
1.2.

Cơ chế quyền lực chính trị

1.2.1. Khái niệm cơ chế quyền lực chính trị
Cơ chế kiểm sốt quyền lực có biểu hiện là sự kết hợp giữa các chế độ,
phương thức, cách thức, biện pháo và quy trình giải quyết các mối quan hệ
giữa các thể chế chính trị, thể chế nhà nước với nhai và với xã hội nhằm bảo
đảm quyền lực khơng bị thối hóa và biến chất trong q trình vận hành.
1.2.2. Cách thức thực thi cơ chế kiểm sốt quyền lực chính trị
Việc lựa chọn và sử dụng các cơ chế kiểm sốt quyền lực do hồn cảnh
khách quan quy định, nhưng cũng phụ thuộc vào ý chí và năng lực chủ quan
và đạo đức
của người cầm quyền. Tính chất, bản chất và mục tiêu của các chế độ
chính trị và nhà nước quy định cách thức lựa chọn và sử dụng các cơ chế
kiểm sốt quyền lực. Có những cơ chế kiểm sốt quyền lực phục vụ cho lợi
ích của tồn xã hội mang ý nghĩa tích cực, nhưng cũng có những cơ chế kiểm
8



sốt quyền lực chỉ phục vụ các lợi ích phe nhóm hay lợi ích của giai tầng cầm
quyền để lại những hậu quả tiêu cực. Trong xã hội hiện đại (dân chủ) việc
kiểm sốt quyền lực khơng chỉ là u cầu và nguyên tắc xuất phát từ bản chất,
mà còn là u cầu và ngun tắc có tính kỹ thuật của tổ chức và thực thi
quyền lực.
Từ góc độ kết cấu hay hệ thống tổ chức thực thi quyền lực chính trị,
quyền lực nhà nước, cịn goi là hệ thống chính trị, quyền lực có thể được
kiểm sốt bằng sự kiểm soát lẫn nhau giữa các tổ chức cấu thành của hệ thống
chính trị như đảng, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội,… Trong mỗi
loại tổ chức chính trị ấy lại cần đến những cơ chế kiểm soát quyền lực nội tại
– với các cơ chế trách nhiệm và giải trình trong tổ chức và tư pháp trong bộ
máy nhà nươc; công khai và minh bạch trong các tổ chức chính trị - xã hội…
Ở các nước phát triển, đó cịn là các cơ chế kiểm thúc – kiểm soát và cân
bằng, kéo và đẩy; giải trình, chất vấn và phúc đáp; điều trần, tín nhiệm, miễn
nhiễm và bãi nhiễm định kỳ và không định kỳ,… trên cơ sở các nguyên tắc,
các quy định của đảng như điều lệ, nghị quyết và chỉ thị của đảng; hiến pháp,
pháp luật của nhà nước; quy định, chương trình hành động của các nhóm lợi
ích.
Từ góc độ kết cấu hay hệ thống xã hội, quyền lực có thể được kiểm sốt
bằng các phương tiện truyền thơng đại chúng, các tổ chức của xã hội dân sự,
dư luận, đạo đức xã hội và cơng dân. Cơ chế kiểm sốt quyền lực có hiệu lực,
hiệu quả phải là sự kết hợp hữu cơ giữa những cơ chế kiểm soát từ bên trong
hệ thống quyền lực với các cơ chế kiểm soát từ bên ngồi hệ thống ấy, giữa
tự kiểm sốt từ bên trong và áp lực kiểm sốt từ bên ngồi. Tất cả các cơ chế
kiểm soát quyền lực trên đây phải được đảm bảo bằng những cơ sở chính trị
và pháp lý nhất định, bảo đảm trách nhiệm chính trị và pháp lý các tổ chức và
cá nhân tham gia vào q trình kiểm sốt quyền lực. Trong điều kiện của xã
hội hiện đại, những tiêu chí cơ bản đánh giá việc kiểm soát quyền lực là bộ
máy nhà nước trong sạch, hiệu lực và hiệu quả; hệ thống chính trị, đảng chính
9



trị và các tổ chức chính trị - xã hội ổn định, trong sạch vững mạnh; nạn tham
những được ngăn chặn và xử lý; mức độ sự ổn định chính trị - xã hội, tăng
trưởng kinh tế và an sinh xã hội cao; sự tham gia chính trị của người dân được
mở rộng và thực chất.
Cơ chế kiểm soát quyền lực chính trị từ bên trong là sự kiểm sốt trong
nội bộ đảng, nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội; là sự phối hợp kiểm soát
giữa đảng, nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị. Cơ
chế kiểm sốt quyền lực nhà nước từ bên trong là sự phối hợp kiểm soát giữa
các nhánh quyền lực, các cơ quan quyền lực, các cấp chính quyền, các cơ
quan nhà nước, cơng chức và nhân dân,…
Cơ chế kiểm sốt quyền lực chính trị từ bên ngồi là sự phối hợp kiểm
sốt của xã hội, các phương tiện truyền thông đại chúng, quốc tế - kiểm sốt
quốc tế (nếu có),… Cơ chế kiểm sốt quyền lực nhà nước từ bên ngoài là sự
phối hợp kiểm sốt của các đảng chính trị (nhất là đảng hoặc liên minh đảng
đối lập), các tổ chức chính tri – xã hội, các nhóm lợi ích, nhóm áp lực, các
phương tiện truyền thông đại chúng và nhân dân,…

10


CHƯƠNG 2.
THỰC TRẠNG CƠ CHẾ KIỂM SỐT QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
Cơ chế kiểm soát quyền lực chính trị là một chỉnh thế các thể chế pháp
lý và các thiết chế của các tổ chức trong hệ thống chị trị ở Việt Nam có liên
quan đến việc kiểm sốt quyền lực chính trị của các tổ chức, cơ quan trong hệ
thống chính trị, có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, cùng vận hành nhằm ngăn
ngừa, loại bỏ những hành vi vi phạm của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống

chính trị Việt Nam, bảm đảm quyền lực chính trị được tổ chức và thực hiện
theo đúng Hiến pháp và pháp luật.
Trong một số Hiến pháp của nhà nước ta đã nêu rõ, thường xuyên được
hiến định và bổ sung thêm cơ chế kiểm soát quyền lực chính trị. Qua đó, cũng
để tạo được nền tảng pháp lý cho cơ chế kiểm soát quyền lực bên trong hệ
thống chính trị như Đảng, bộ máy nhà nước,… dựa trên việc phân công mạch
lạc những nhiệm vụ, quyền hạn của các quyền để tạp cơ sở cho cơ chế kiểm
soát quyền lực.
Tuy nhiên, hiện nay ở Việt Nam, cơ chế phân cơng, phối hợp và kiểm
sốt quyền lực chính trị ở các tổ chức trong hệ thống chính trị đôi khi chưa
được chế định rõ ràng. Trên thực tế, tổ chức hệ thống chính trị và cơ chế hoạt
động của các thiết chế cơ bản trong hệ thống chính trị của Việt Nam. Trong
đó, cơ chế kiểm sốt quyền lực chính trị ở Việt Nam vẫn cịn tồn tại những
hạn chế, những điểm chưa thực sự hợp lý, hiệu lực và đem tới hiệu quả như
mong muốn.
Một số hạn chế trong cơ chế kiểm sốt quyền lực chính trị ở nước
ta
Một là, hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội chưa mạnh, hiệu quả
chưa cao; cơ chế bảo vệ Hiến pháp chưa cụ thể.
Chủ thể và đối tượng giám sát của Quốc hội nhận thức chưa đúng và
đầy đủ về vai trò giám sát của Quốc hội. Phạm vi giám sát tối cao của Quốc
11


hội được quy định chưa hợp lý. Việc giao cho Quốc hội, các ủy ban của Quốc
hội, các đại biểu Quốc hội giám sát hoạt động tư pháp và việc ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật là quá rộng, chưa phù hợp bởi đối tượng trực tiếp
chịu sự giám sát của Quốc hội là những người giữ chức vụ cao trong Đảng và
Nhà nước. Họ là những người vừa quyết định thân phận chính trị của bản thân
đại biểu Quốc hội, vừa quyết định lợi ích kinh tế, tài chính của các địa

phương nơi đại biểu tổ chức thành đồn. Đặc điểm đó khó có thể bảo đảm cho
đại biểu Quốc hội thực hành quyền giám sát của mình.
Cơ chế bảo vệ Hiến pháp chưa cụ thể: Khoản 2 Điều 19 Hiến pháp
2013 quy định: “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính
phủ, Tịa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà
nước và tồn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp. Cơ chế bảo vệ
Hiến pháp do luật định”. Theo đó, hệ thống pháp luật hiện hành chưa quy
định cụ thể cơ chế bảo vệ Hiến pháp, mà quy định thành các quy phạm chứa
đựng trong các ngành luật cụ thể. Mặt khác, khác với các nước theo hệ thống
pháp luật Common Law như Mỹ có cơ quan tài phán Hiến pháp, Việt Nam
khơng thành lập và trao quyền cho một cơ quan tài pháp cụ thể, độc lập.
Hai là, hoạt động thanh tra, kiểm tra của hệ thống hành pháp còn nhiều
hạn chế.
Trong hệ thống hành pháp, chức năng kiểm tra, giám sát chung của
những người đứng đầu như Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng… chưa được
thực hiện thường xuyên trên thực tế, dù trên thực tế nhiều văn bản quy phạm
pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật có nội dung trái với Hiến pháp và pháp
luật.
Hệ thống thanh tra nhà nước: Thanh tra Chính phủ, Thanh tra tỉnh,
Thanh tra huyện; thanh tra các bộ, sở là cơ quan có chức năng thanh tra hoạt
động thường xuyên, liên tục. Tuy nhiên, bất cập chủ yếu trong tổ chức và hoạt
động của Thanh tra Chính phủ, Thanh tra tỉnh, Thanh tra huyện là tính phụ
thuộc vào cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung cùng cấp, trong
12


khi đó bảo đảm tính độc lập về tổ chức và tính chuyên nghiệp trong hoạt động
là hai yếu tố quan trọng khơng thể thiếu trong q trình thực hiện chức năng
thanh tra.
Ba là, hoạt động kiểm soát quyền lực của tư pháp còn yếu.

Theo quy định của pháp luật hiện hành thì Tịa án nhân dân là cơ quan
xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư
pháp; Viện kiểm sát nhân dân có chức năng là thực hành quyền cơng tố, kiểm
sát hoạt động tư pháp. Như vậy, chức năng thực hiện quyền tư pháp là thuộc
Tịa án nhân dân, thơng qua quyền hạn, nhiệm vụ thì cơ chế kiểm tra, giám sát
thực hiện chủ yếu bằng chức năng xét xử, giải thích pháp luật.
Các chế tài kiểm sốt quyền lực nhà nước của tư pháp với hành pháp
chưa đủ mạnh. Do nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước là quyền tư pháp
không thể lấn sân sang quyền hành pháp, các quan tịa khơng thể can thiệp
sâu vào hoạt động của cơ quan hành chính.
Vì vậy, trong vụ khiếu kiện hành chính, quyền của Tịa án chỉ dừng lại
ở mức độ phán xét tính hợp pháp của một quyết định hành chính, hành vi
hành chính mà khơng thể chỉ định một phương thức xử sự cụ thể cho cơ quan
hành chính.
Khi các quyết định hành chính sai trái bị hủy bỏ, quyền hay lợi ích của
người khởi kiện có được khơi phục hay khơng lại hồn tồn phụ thuộc vào cơ
quan hành chính. Hơn nữa, cơ quan thi hành án lại khó có thể độc lập với cơ
quan hành chính - đối tượng thi hành án. Vì vậy, các phán quyết của Tòa án
chưa được thực thi nghiêm túc.
Cơ chế kiểm soát quyền lực của tư pháp đối với hành pháp cịn mang
tính thụ động: Kiểm tra của Tịa hành chính đối với quyền lực hành pháp chỉ
là kiểm tra khi có tranh chấp hành chính, trong lĩnh vực quản lý hành chính
giữa cá nhân, tổ chức với cơ quan, cơng chức nhà nước khi có khiếu kiện của
người dân. Vì vậy, sự kiểm sốt quyền lực nhà nước này cịn mang tính thụ

13


động, nếu khơng có khiếu kiện của cơng dân, tổ chức thì khơng thể hình thành
hoạt động kiểm sốt quyền lực nhà nước của hành pháp.

Hiện nay, tổ chức Tòa án theo đơn vị hành chính lãnh thổ nên chưa
đảm bảo tính độc lập cao trong hoạt động xét xử, phán quyết của Tịa án hành
chính đối với các cơ quan hành chính. Điều đó sẽ ảnh hướng đến sự cơng tâm,
cơng bằng, khách quan trong phán quyết của Tịa đối với các quyết định, hành
vi hành chính của các cán bộ, công chức cùng cấp.
Người bị kiện thường là người có chức vụ quyền hạn ở địa phương nơi
thẩm phán cơng tác và là những người có thể có ý kiến đối với việc bổ nhiệm
thẩm phán, nên còn xuất hiện tư tưởng ngại va chạm trong đội ngũ thẩm phán
hành chính, dẫn tới đánh giá chứng cứ cịn phiến diện, áp dụng pháp luật chưa
chặt chẽ.
Vì vậy, chúng ta thấy thực tế Tòa án nhân dân tối cao hoặc các thẩm
phán có xu hướng giải thích thu hẹp quyền hạn của mình khi xử hành chính.
Điều này cũng làm hạn chế khả năng kiểm soát quyền lực của tư pháp đối với
hành pháp.
Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của Hiến pháp 2013 thì chức
năng của Viện kiểm sát nhân dân là thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt
động tư pháp. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì Viện kiểm sát nhân
dân chỉ kiểm sát hoạt động tư pháp, phạm vi kiểm sát hẹp hơn nhiều so với
Hiến pháp năm 1992.
Theo quy định tại Điều 137 Hiến pháp năm 1992 thì Viện kiểm sát
nhân dân tối cao có chức năng như sau: “Viện kiểm sát nhân dân tối cao kiểm
sát việc tuân theo pháp luật của các bộ, các cơ quan ngang bộ, các cơ quan
khác thuộc Chính phủ, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân, thực hành quyền công
tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.

14


CHƯƠNG 3.

GIẢI PHÁP HỒN THIỆN CƠ CHẾ KIỂM SỐT QUYỀN LỰC
CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Đảng cương - Quốc pháp - Lịng Dân và Tín nhiệm quốc tế là bốn
phương diện hợp thành công cụ và động lực của cơ chế kiểm sốt quyền
lực chính trị của hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay.
Cơ chế kiểm sốt quyền lực chính trị là sự vận hành một cách đồng bộ
và thống nhất hệ thống các thể chế, thiết chế liên quan trong thực thi và kiểm
soát quyền lực của Đảng, Nhà nước và các thành viên của hệ thống chính trị,
trên nền tảng Quốc pháp, Đảng cương và truyền thống chính trị dân tộc phù
hợp với luật pháp và các thơng lệ quốc tế. Kiểm sốt quyền lực chính trị nhằm
bảo đảm các chủ thể kiểm soát và các đối tượng được kiểm soát hoạt động
đúng vị thế, chức năng và nhiệm vụ của mình được Hiến định, theo pháp luật
và Cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng.
Về cơ chế kiểm sốt quyền lực chính trị đối với Đảng
Quyền lực lãnh đạo của Đảng, khi khơng chính thức, nghĩa là chưa
Hiến định, được thừa nhận bởi Nhân dân (trong thời kỳ hoạt động bí mật lãnh
đạo dân tộc giành chính quyền về tay Nhân dân); và trở thành chính thức,
được chế định trong Hiến pháp. Nhưng, dưới hình thức lãnh đạo nào, ở bất cứ
thời kỳ nào, đặc trưng xuyên suốt trong quyền lực lãnh đạo của Đảng được
thực thi và thể hiện bằng sự lôi cuốn từ mục tiêu chính trị: độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội; thể hiện ở cương lĩnh chính trị, đường lối chính trị; bằng sự
vận động, thuyết phục Nhân dân qua hành động của đảng viên; tập trung cao
nhất bằng sự ảnh hưởng, hấp dẫn và tỏa sáng một cách tự nhiên của Đảng một thực thể chính trị trong xã hội bên cạnh các thực thể chính trị khác.
Đảng là một chủ thể lãnh đạo, thực thi quyền lực chính trị của giai cấp
mà Đảng đại diện, chứ khơng phải là một chủ thể thực thi quyền lực nhà
nước, dù trên thực tế, là đảng duy nhất lãnh đạo và cầm quyền, có vai trị
15


quyết định trong quá trình tổ chức ra Nhà nước. Đây là vấn đề căn bản, không

thể lầm lẫn. Mặt khác, quyền lực của Đảng khi là “lực lượng lãnh đạo”, thì
được giới hạn bởi quyền lực của Nhà nước. Bởi, Đảng không phải là Nhà
nước, nên không được phép làm thay cơng việc của Nhà nước. Cương lĩnh
chính trị, đường lối chính trị của Đảng được “khế ước hóa” bằng các văn bản
quy phạm pháp luật của Nhà nước và việc tổ chức thực thi và bảo vệ pháp
luật là công việc của Nhà nước mà Đảng, với tất cả các tổ chức và tất cả các
đảng viên của Đảng, có nghĩa vụ và quyền lợi gương mẫu chấp hành, khơng
có ngoại lệ, khơng đứng trên hay bên cạnh luật pháp. Đó chính là thước đo
tính đúng đắn, tính khả thi, sức mạnh và hấp lực của cương lĩnh chính trị,
đường lối chính trị của Đảng được pháp luật hóa, với ba tính chất chính danh,
chính pháp và chính năng của người cầm quyền dẫn dắt dân tộc.
Đồng thời, theo Hiến định: “Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng
Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”,
“Đảng chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về
những quyết định của mình” đã đặt Đảng bình đẳng trước pháp luật như mọi
đối tượng điều chỉnh của pháp luật Việt Nam. Đó chính là thước đo vị thế
cầm quyền, năng lực cầm quyền và trách nhiệm lịch sử cầm quyền của Đảng.
Tức là kiểm soát quyền lực của Đảng bằng Quốc pháp, tức Hiến pháp và pháp
luật của Nhà nước. Tính chính danh và chính pháp cầm quyền của Đảng được
Hiến định và pháp luật hóa.
Để kiểm sốt quyền lực của Đảng, Nhân dân thực hiện quyền giám sát
hoạt động của Đảng theo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng và tại Điều 4,
Hiến pháp 2013. Nhân dân giám sát Đảng một cách đa diện: phục vụ Nhân
dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về các quyết định của mình, gắn bó mật
thiết với Nhân dân, sự vi phạm pháp luật của tổ chức và đảng viên của Đảng...
Mặt khác, việc kiểm soát quyền lực lãnh đạo của Đảng còn được thực hiện

16



với các hình thức giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
của các tổ chức chính trị - xã hội...
Việc kiểm sốt quyền lực lãnh đạo của Đảng được thực thi bởi việc đo
lường hay định lượng hiệu quả lãnh đạo, lòng tin của Nhân dân, uy tín của
Đảng trên trường quốc tế theo vai trò, chức năng của Đảng cầm quyền được
chế định bởi Hiến pháp và pháp luật.
Đảng thực hiện cơ chế kiểm sốt quyền lực của mình thơng qua “tự
kiểm sốt” bằng các nguyên tắc, quy chế, quy định nội bộ, kỷ luật của Đảng,
bảo đảm tổ chức và hoạt động của Đảng ở tất cả các cấp và từng đối tượng
đảng viên theo Điều lệ Đảng bảo đảm phù hợp với pháp luật.
Kiểm sốt quyền lực của cán bộ, cơng tác cán bộ, các tổ chức của Đảng
là công việc gốc của kiểm soát quyền lực trong Đảng. Mọi mầm họa đối với
bộ máy và thể chế thường bắt đầu từ khâu căn bản này.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy;
gắn bó mật thiết với Nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của
Nhân dân, dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của Nhân
dân, hoạt động và chịu trách nhiệm trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Theo đó, ở đây, chủ thể quan trọng nhất trong kiểm soát quyền lực lãnh đạo
của Đảng là Nhân dân. Cơng cụ kiểm sốt mạnh mẽ nhất hiện nay là chế định
và các định chế của Hiến pháp và pháp luật.
Thực thi các chế định của Hiến pháp, pháp luật về vai trò lãnh đạo của
Đảng; về giám sát của Nhân dân đối với cán bộ, đảng viên; về giám sát, phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, khuôn khổ pháp luật, về giám sát
nội bộ Đảng... là những nhân tố bảo đảm kiểm soát hữu hiệu quyền lực chính
trị của Đảng, kiểm sốt quyền và trách nhiệm lãnh đạo của Đảng.
Lòng tin của Nhân dân đối với Đảng là thước đo quyết định vị thế, vai
trị và trách nhiệm cầm quyền và uy tín của Đảng.
Về cơ chế kiểm soát quyền lực của Nhân dân và Nhà nước đối với
Nhân dân

17


Chỉ Nhân dân mới có chủ quyền đối với quyền lực nhà nước. Nhưng
Nhân dân ủy quyền cho các đại biểu của mình và giám sát đại biểu đó trong
q trình thực thi quyền lực nhà nước. Nhân dân làm chủ bằng các hình thức
trực tiếp và gián tiếp (thơng qua các đại biểu, các cơ quan dân cử và các đồn
thể của dân).
Quyền của cơng dân khơng tách rời nghĩa vụ công dân. Nhân dân thực
hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính
trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện.
Quyền làm chủ của Nhân dân không chỉ được đảm bảo bằng Hiến
pháp, pháp luật, mà bằng hệ thống các phương tiện khác: báo chí và truyền
thơng, các thiết chế Quy chế Dân chủ ở cơ sở, bảo đảm Dân biết, Dân bàn,
Dân làm, Dân kiểm tra, Dân thụ hưởng, thông qua Mặt trận Tổ quốc và các
đồn thể nhân dân. Vì vậy, Nhân dân phải biết quyền hạn của mình, phải biết
quyền và phương diện được kiểm sốt.
Vì nhiều lẽ, cơng dân cũng có thể lạm quyền hoặc vơ hình bng bỏ
quyền lực, khi sử dụng các quyền của mình: vì tự do cá nhân dẫn tới xâm hại
tự do của xã hội và tự do của cá nhân khác, xâm hại đến ý chí chung, thậm chí
phạm tội; dùng quyền tự do ngơn luận, quyền dân chủ, quyền biểu tình,... để
gây rối, vơ hình tùy tiện hoặc vô thức chống lại cộng đồng và xã hội; tình
trạng bầu thay các cử tri trong việc lựa chọn đại biểu đại diện cho mình trong
các cơ quan của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, ...
Như vậy, một mặt, bảo đảm quyền dân chủ của Nhân dân, để Nhân dân
có điều kiện thực hành dân chủ, hiện thực hóa quyền, nghĩa vụ và lợi ích của
mình; mặt khác, Nhà nước, Đảng và tự Nhân dân cũng cần có cơ chế kiểm
sốt các hoạt động tự do ngoài quy định của pháp luật.
Với chức năng của mình, Đảng tuyên truyền, vận động Nhân dân biết
sử dụng quyền lực của mình một cách hiệu quả, từ việc lựa chọn người đại

diện cho mình đến giám sát, phản biện xã hội; từ việc khiếu nại, tố cáo đến
biểu thị ý kiến đúng pháp luật... Từ nhiệm vụ của mình, Nhà nước kiểm sốt
18



×