Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Chuyên Đề Văn 7.Doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.83 KB, 23 trang )

CHUYÊN ĐỀ
DẠY HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CHO HỌC SINH QUA MÔN NGỮ VĂN
7
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngữ văn là môn học vô cùng quan trọng trong chương trình GDPT nói chung, trong bậc THCS nói riêng. Làm thế nào để dạy môn
Ngữ văn một cách hiệu quả nhất đối với cả người dạy và người học là câu hỏi trăn trở của tất cả giáo viên trực tiếp giảng dạy.
Dạy học phát triển năng lực của học sinh có nghĩa là phải thay đổi cách dạy và cách học. Chuyển cách dạy thụ động, truyền thụ một
chiều “đọc-chép”, giáo viên làm trung tâm sang cách dạy lấy học sinh làm trung tâm hay còn được gọi là dạy và học tích cực. Trong cách
dạy này học sinh là chủ thể hoạt động, giáo viên là người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn, tạo nên sự tương tác tích cực giữa người dạy và
người học.
Lớp 7 lớp thứ 2 của bậc THCS và cũng là năm thứ 2 thực hiện CTGDPT 2018 nên nó đóng một vai trị hết sức quan trọng. Phương
pháp dạy học đối với khối lớp này cần hết sức quan tâm, đặc biệt là môn Ngữ văn. Qua nhiều năm tham gia giảng dạy và tích cực đổi mới
phương pháp dạy học bản thân mỗi giáo viên Ngữ văn chúng tôi thấy mỗi học sinh rất hứng thú và rất thích được học theo phương pháp
mới này. Đặc biệt hơn học sinh lớp 7 các em đã có cơ hội tiếp cận với PPDH mới, tuy nhiên để củng cố khắc sâu và giúp các em quen dần
với PP học tập mới tạo tiền đề vững chắc cho những năm học tiếp theo. Vì vậy, tôi mạnh dạn thực hiện chuyên đề “ Dạy học theo định
hướng phát triển năng lực cho học sinh qua bộ môn Ngữ văn 7”. Với mong muốn được trao đổi, học hỏi kinh nghiệm của các đồng
nghiệp để rèn luyện nâng cao tay nghề cũng như nâng cao chất lượng bộ mơn Ngữ văn trong nhà trường, góp phần khơi dậy tình u, niềm
đam dành cho mơn học vốn đang bị học sinh lãng quên, chán ghét.
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận


Trong xu thế chung của nhiều nền giáo dục tiên tiến trên thế giới hiện nay, giáo dục Việt Nam trong những năm gần đây đã và đang
thực hiện bước chuyển đổi từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học. Nghĩa là từ chỗ quan tâm đến
việc học sinh học cái gì đến chỗ quan tâm học sinh học như thế nào, vận dụng được cái gì qua việc học. Chính vì vậy, yêu cầu của đổi mới
giáo dục là phải thực hiện thành công việc chuyển đổi từ phương pháp dạy học theo lối truyền thụ một chiều sang dạy cách học, cách vận
dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Đồng thời cũng chuyển cách đánh giá kết quả giáo dục từ nặng về
kiểm tra trí nhớ sang kiểm tra đánh giá năng lực vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề coi trọng cả kiểm tra đánh giá kết quả học tập với
kiểm tra đánh giá trong quá trình học tập để tác động kịp thời nhằm nâng cao chất lượng của các hoạt động dạy học.
Một trong những định hướng cơ bản của việc đổi mới giáo dục là chuyển từ nền giáo dục mang tính hàn lâm, xa rời thực tiễn sang
một nền giáo dục chú trọng việc hình thành năng lực hành động, phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học.


Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ
phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học;
khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người
học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực.
II. Cơ sở thực tiễn
1. Thực trạng dạy học văn trong nhà trường hiện nay
Thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW về đổ mới căn bản và toàn diện GD&ĐT, từ năm học 2021-2022 toàn ngành Giáo dục sẽ tiến
hành đổi mới nội dung chương trình giáo dục phổ thổng cũng như là đổi mới đồng bộ phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá kết quả
giáo dục theo định hướng phát triển năng lực người học là vô cùng cần thiết. Trong đó, mơn Ngữ văn được coi là mơn học cơng cụ có vai
trị rất quan trọng đối với việc định hướng phát triển năng lực học sinh. Bởi dạy văn là dạy kĩ năng đọc- hiểu, nghe, nói, viết, hướng tới
khám phá cái hay, cái đẹp từ những tác phẩm văn chương nhằm khơi dậy, hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh, bồi dưỡng cho
các em tri thức hiểu biết và làm phong phú đời sống tâm hồn, hướng các em tới Chân- Thiện- Mĩ là những giá trị đích thực của cuộc
sống.
Trong những năm qua, đội ngũ giáo viên chúng ta đã thực hiện nhiều công việc trong đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh
giá và đã đạt được những thành công nhất định. Đây là điều quan trọng làm tiền đề để chúng ta tiến tới việc dạy học và kiểm tra, đánh giá
theo định hướng phát triển năng lực của người học.
Tuy nhiên từ thực tế giảng dạy của bản thân và đồng nghiệp tại trường THCS, chúng tôi thấy rằng sự sáng tạo trong việc đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực tự học của học sinh là chưa nhiều mà còn nặng về truyền thụ kiến thức, việc rèn
luyện kĩ năng cho học sinh chưa được quan tâm đúng mức, hoạt động kiểm tra, đánh giá chưa thật sự khách quan (chủ yếu là tái hiện kiến
thức). Tất cả những điều đó dẫn tới học sinh học thụ động, lúng túng khi giải quyết các tình huống trong thực tiễn.


Q trình dạy học bộ mơn Ngữ văn tại trường TH&THCS Hải Xn cũng khơng nằm ngồi những thực trạng nêu trên. Đội ngũ
giáo viên môn Ngữ văn của nhà trường có năng lực chun mơn nghiệp vụ vững vàng, có tinh thần trách nhiệm cao, tận tụy với học sinh,
ln chịu khó tìm tịi, đổi mới sáng tạo để có những bài giảng hay, lí thú và hấp dẫn cho các em. Tuy nhiên giáo viên vẫn chưa có giải
pháp hiệu quả nhằm kích thích năng lực tự học, tự nghiên cứu, năng lực cảm thụ văn chương cho các em dẫn đến phần lớn các em học
sinh vẫn đang cịn thu động trong học tập bộ mơn Ngữ văn.
2. Ngun nhân
2.1. Đối với người học
Mơn ngữ văn có vai trò trang bị cho học sinh những giá trị chân, thiện, mĩ trong cuộc sống. Vì vậy, giáo viên phải là người truyền

lửa cho tâm hồn các em bằng những bài học hay, những giờ học lí thú và bổ ích. Hiện nay, nhận thức của các em về mơn Ngữ văn đã có sự
thay đổi theo hướng tích cực, nhiều em đã thực sự có niềm đam mê với văn học bởi chính văn học đã làm cho các em biết sống yêu
thương, sống sẽ chia và hi sinh vì người khác. Đó là điều mà bất kì một người giáo viên dạy văn nào cũng cảm thấy tự hào.
Tuy nhiên, qua thực tế giảng dạy cũng như sự trao đổi, phản ảnh của nhiều đồng nghiệp trực tiếp dạy học bộ môn Ngữ văn hiện nay,
trong quá trình kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh chúng ta nhận thấy một thực trạng đáng buồn về chất lượng dạy học Ngữ
văn. Khảo sát nhiều bài kiểm tra của nhiều học sinh cho thấy các em viết sai chính tả là lỗi phổ biến nhất. Những lỗi chính tả thường gặp là
tên riêng khơng viết hoa, rất nhiều bài văn từ đầu đến cuối không có dấu chấm câu, hoặc có chăng cũng là dùng dấu câu tùy tiện không
theo quy luật nào, không phù hợp với cách diễn đạt. Nhiều từ đơn giản các em vẫn viết khơng đúng. Cùng với đó là lỗi dùng từ, đặt câu…
Học sinh trong quá trình tạo lập văn bản thì viết câu sai cấu trúc ngữ pháp, sai lơ-gíc diễn đạt, nhiều câu văn của học sinh diễn đạt
lủng củng, mơ hồ, khơng rõ nghĩa…Điều đó cho thấy học sinh chưa nắm vững kiến thức bộ môn, chưa biết vận dụng kiến thức vào các
tình huống học tập hoặc tình huống thực tiễn.
Có một thực tế hiện nay là rất ít học sinh biết rung động trước những tác phẩm văn chương hay. Do vậy, khi làm bài học sinh cịn
suy luận chủ quan, dung tục hóa văn chương. Vẫn cịn một bộ phận khơng nhỏ học sinh làm bài sai kiến thức cơ bản. Tình trạng “Lấy râu
ông nọ chắp cằm bà kia” không phải là không phổ biến. Học sinh nhầm chi tiết của tác phẩm này với tác phẩm khác, sai tên tác giả, tác
phẩm, lẫn lộn nhà văn này với nhà văn khác. Để dẫn đến những tồn tại trên, ngồi việc có một bộ phận nhỏ ngữ liệu được lựa chọn đưa vào
sách giáo khoa còn vượt quá ngưỡng tiếp nhận của học sinh thì nguyên nhân cơ bản là thuộc về phía người dạy và người học.
Đa phần học sinh THCS nói chung và học sinh trương THCS Hải Xuân nói riêng học tập môn Ngữ văn là rất thụ động. Các em
không quan tâm đến các hoạt động để tự tìm đến tri thức mà quen nghe, quen chép, ghi nhớ và tái hiện lại một cách máy móc, rập khn
những gì mà giáo viên đã giảng. Điều này khiến các em không phát huy được sự sáng tạo, biến người học thành nô lệ của sách vở, quen
suy nghĩ, diễn đạt bằng ý vay mượn, lời sẵn có của người khác. Vì chưa có hào hứng, chưa quen bộc lộ những suy nghĩ, tình cảm của cá
nhân trước tập thể cho nên khi phải nói và viết, học sinh cảm thấy rất khó khăn.


Nhiều học sinh chưa nhận thức được tầm quan trọng của bộ môn Ngữ văn và việc học lệch để vì mục đích thi cử. Số đơng học sinh
và cả định hướng của phụ huynh là tập trung vào các môn học tự nhiên để sau này thi cử thuận lợi cịn học mơn Ngữ văn chỉ là đủ điểm lên
lớp.
2.2. Đối với giáo viên
Đa số giáo viên Ngữ văn hiện nay đều được đào tạo bài bản, có năng lực, tâm huyết với nghề, trách nhiệm cao với công việc, có ý
thức cải tiến, đổi mới phương pháp dạy học nhằm tạo được hứng thú cho học sinh, phát huy hiệu quả những giờ dạy học văn trên lớp.
Tuy nhiên, bên cạnh đó một số giáo viên vẫn cịn dùng phương pháp dạy học một chiều: thầy giảng, trò lắng nghe, ghi nhớ và biết

nhắc lại đúng những điều thầy giảng là đủ. Thầy giáo chủ động cung cấp kiến thức cho học sinh, áp đặt những kinh nghiệm, hiểu biết, cách
cảm, cách nghĩ của mình đến học sinh. Vì vậy giờ học tác phẩm văn chương vẫn chưa thu hút được sự chú ý và cộng tác của người học,
gây cho một bộ phận học sinh tỏ ra bàng quan, thờ ơ với văn chương.
III. Dạy học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực
1. Thế nào là năng lực?
Năng lực là khả năng làm chủ và vận dụng hợp lý các kiến thức, kĩ năng, thái độ một cách có hứng thú để hành động có hiệu quả
trong các tình huống đa dạng trong cuộc sống.
2. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực
Việc đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực thể hiện qua các đặc trưng cơ bản sau:
- Dạy học thông qua tổ chức liên tiếp các hoạt động học tập, giúp học sinh tự khám phá những điều chưa biết chứ không thụ động
tiếp thu những tri thức được sắp đặt sẵn. Giáo viên là người tổ chức và chỉ đạo học sinh tiến hành các hoạt động học tập phát hiện kiến
thức mới, vận dụng sáng tạo kiến thức đã biết vào các tình huống học tập hoặc tình huống thực tiễn...
- Chú trọng rèn luyện cho học sinh biết khai thác sách giáo khoa và các tài liệu học tập, biết cách tự tìm lại những kiến thức đã có,
suy luận để tìm tịi và phát hiện kiến thức mới... Định hướng cho học sinh cách tư duy như phân tích, tổng hợp, sáng tạo.
- Tăng cường phối hợp học tập cá thể với học tập hợp tác, lớp học trở thành môi trường giao tiếp giữa giáo viên- học sinh và học
sinh- học sinh nhằm vận dụng sự hiểu biết và kinh nghiệm của từng cá nhân, của tập thể trong giải quyết các nhiệm vụ học tập chung.
- Chú trọng đánh giá kết quả học tập theo mục tiêu bài học trong suốt tiến trình dạy học thơng qua hệ thống câu hỏi, bài tập. Chú
trọng phát triển kỹ năng tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau của học sinh với nhiều hình thức như theo lời giải, đáp án mẫu, theo hướng dẫn
tìm ra được nguyên nhân và nêu cách sửa chữa các sai sót.
3. Các năng lực cần hình thành cho học sinh trong dạy học Ngữ văn


Trong định hướng phát triển Chương trình GDPT Ngữ văn được coi là mơn học cơng cụ, theo đó, năng lực giao tiếp tiếng Việt,
năng lực cảm thụ văn học là năng lực mang tính đặc thù của mơn học; ngoài ra các năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề,
năng lực hợp tác, năng lực tự quản bản thân, năng lực tự học cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xác định nội dung dạy học của mơn
học.
3.1. Năng lực giao tiếp
Ngơn ngữ chính là công cụ để chúng ta giao tiếp trong cuộc sống cũng như trong học tập. Vì vậy bộ mơn Ngữ văn phải có nhiệm vụ
trang bị cho học sinh khả năng sử dụng tiếng Việt một cách phù hợp và hiệu quả trong tình huống giao tiếp.
Năng lực giao tiếp trong các nội dung dạy học tiếng Việt được thể hiện ở cả 4 kĩ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết và khả năng ứng

dụng các kiến thức và kĩ năng ấy vào các tình huống giao tiếp khác nhau trong cuộc sống.
Chẳng hạn khi học xong văn bản “Gặp lá cơm nếp”(Thanh Thảo) học sinh có khả năng trình bày những vấn đề đã được giáo viên
chuyển giao nhiệm vụ ở nhà. Học sinh có khả năng trao đổi với giáo viên hoặc với các học sinh khác về các nội dung bài học, chẳng hạn
như : Mùi vị quê hương trong kí ức mỗi người hay tình yêu quê hương gắn liền với tình yêu đất nước...
3.2. Năng lực cảm thụ văn học
Cảm thụ văn học chính là sự phát hiện và cảm nhận được những giá trị nổi bật, những điều sâu sắc, tế nhị và đẹp đẽ của văn học cả
về giá trị nội dung lẫn nghệ thuật thể hiện trong tác phẩm, hay trong một từ ngữ, một hình ảnh có giá trị thẫm mĩ của một câu văn, câu thơ.
Học sinh phải có khả năng phát hiện, đánh giá và thưởng thức cái đẹp trong văn học và cuộc sống, biết làm chủ cuộc sống, biết làm
chủ cảm xúc của bản thân, biết hành động hướng theo cái đẹp, cái thiện.
Cảm nhận vẻ đẹp ngôn ngữ, nhận ra những giá trị thẩm mĩ trong văn học, biết rung cảm, hướng thiện, vận dụng được những giá trị
thẩm mĩ mà văn học đã mang lại trong thực tế cuộc sống.
Học sinh có năng lực cảm thụ văn chương tốt thì mới hiểu được ý nghĩa của bài văn, bài thơ, đoạn văn, đoạn thơ và mới thấy được
nét đẹp của thơ văn, làm cho tâm hồn các em thêm phong phú.
Chẳng hạn, qua văn bản “Con chim chiền chiện”(Huy Cận) học sinh có thể bình giảng một đoạn thơ hay một bức tranh về vẻ đẹp
của thiên nhiên.
3.3. Năng lực tư duy sáng tạo
Không phải cứ nhắc đến năng lực tư duy sáng tạo là cần phải có những sản phẩm hay, mới lạ, độc đáo. Sáng tạo trong dạy học Ngữ
văn cũng khơng địi hỏi thầy cơ và các em phải có những sáng kiến, phát hiện mới mẽ, cao siêu và những đóng góp lớn lao. Mà cốt lõi ban
đầu là hướng dạy học Ngữ văn đến sự suy nghĩ độc lập, mang tính cá thể, có cái tơi riêng của các em và có thể vận dụng những kiến thức


và kĩ năng đó vào những tình huống khác nhau trong bộ môn cũng như trong cuộc sống, tránh đi cách học khơng chú ý đến nội dung mà
chỉ góp nhặt những câu văn cũ của người khác trong lối học văn xưa nay.
Các thầy cơ có thể khuyến khích các em những suy nghĩ tự do và sáng tạo hợp với tuổi mình, chạm đến những vấn đề gần gũi với sự
trải nghiệm với các em như tình bạn, gia đình, vấn đề phát triển bản thân...
Giáo viên khơi gợi ở học sinh sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú từ những gì đã có trong văn bản ngơn từ của tác phẩm bằng hệ
thống câu hỏi có khả năng tạo được tâm lí thoải mái trong tư duy của các em khi tiếp cận tác phẩm ở các dạng câu hỏi từ khái quát đến cụ
thể, từ khẳng định đến gợi mở, định hướng.
3.4. Năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề
Trong q trình học tập mơn Ngữ văn, học sinh có thể phát hiện và giải quyết một số tình huống có vấn đề về nội dung và nghệ thuật;

những vấn đề trong thực tiễn đời sống được gợi ra từ tác phẩm; những khó khăn, thách thức đặt ra trong quá trình tạo lập văn bản nói và
viết;…
Với những câu hỏi đó, giáo viên có thể cho học sinh tự do nêu lên chính kiến của mình, khuyến khích các em trình bày trước tập thể
để có sự tranh luận giữa các bạn trong lớp. Điều đó vừa tạo khơng khí học tập sơi nổi, vừa giúp các em mạnh dạn tự tin khi đứng trước các
tình huống có vấn đề mà giáo viên hoặc các ban khác đưa ra.
3.5. Năng lực hợp tác.
Trong hoạt động dạy học thì một số vấn đề phức tạp, địi hỏi phải có sự hợp tác, bàn bạc thảo luận để cùng nhau giải quyết. Vì vậy
làm việc theo nhóm là một kĩ năng vơ cùng cần thiết trong q trình dạy học.
Thảo luận nhóm là phương pháp có thể áp dụng với nhiều bài học, điều quan trọng ta phải chú ý là đề tài cho học sinh thảo luận
phải là đề tài có tính phức hợp, có vấn đề, cần huy động sự suy nghĩ của nhiều người.
Ví dụ: Trong tiết học văn bản: “Sức hấp dẫn của truyện ngắn chiếc lá cuối cùng”(Theo Minh Khuê) học sinh cùng hợp tác trao đổi
thảo luận để hoàn thành nhiệm vụ:
Phiếu học tập số 1
1.Nhân vật Giơn-xi
Tìm các chi tiết miêu tả nhân vật Giơn-xi?
Ngơn ngữ, lời nói
Cử chỉ, hành động


Qua cảm xúc, suy nghĩ của nhân
vật khác
Nghệ thuật
Nhận xét chung
3.6. Năng lực tự học
Môn Ngữ văn, với nhiều vấn đề, hiện tượng xã hội, nhiều tác giả, tác phẩm… thầy trị khơng thể giải quyết hết trên lớp được. Một tiết
học đôi khi giáo viên không cần đi theo tiến trình dạy học một cách chi tiết. Có khi chỉ cần bám sát một nội dung trọng điểm nào đó đắt giá
để dạy là có thể giúp các em hình thành các kĩ năng và khắc sâu kiến thức một cách hiệu quả. Phần cịn lại giáo viên có thể giao nhiệm vụ
cho các em tự học, tự tìm hiểu. Việc làm việc độc lập sẽ giải quyết được nhiều nội dung, bộc lộ được nhiều kĩ năng hơn trong một khoảng
thời gian ngắn, trong đó các em phát huy rõ nhất là sự suy nghĩ độc lập sáng tạo của mình.
Ví dụ: Khi học văn bản“Sức hấp dẫn của truyện ngắn chiếc lá cuối cùng”(Theo Minh Khuê) học sinh tự chuẩn bị trước nội dung mà

giáo viên yêu cầu qua phiếu học tập.
Phiếu học tập số 2
Tìm hiểu về tác phẩm
Xuất xứ
Thể loại
Ngơi kể
PTBĐ
Nhân vật chính
Bố cục
Hay học sinh tự đọc trước văn bản để nắm nội dung và tự tóm tắt lại văn bản theo yêu cầu (5-7 câu). Sau đó lên lớp giáo viên cho học sinh
làm bài tập điền từ


Ví dụ:
Đầu tiên, sức hấp dẫn của truyện đến từ chi tiết chiếc lá cuối cùng. Nhân vật Giôn-xi bị bệnh nặng, cô đã đếm từng chiếc lá và tuyệt vọng
nghĩ rằng khi nào chiếc lá cuối cùng rụng xuống là cơ sẽ chết. Kì diệu thay, tác giả đã không để cho chiếc lá cuối cùng rụng xuống. Tâm
trạng của Giôn-xi được vực dậy khi thấy chiếc lá vẫn cịn đó: cơ địi ăn cháo, uống sữa, muốn soi gương, Truyện còn hấp dẫn bởi kết
thúc bất ngờ: ở cuối truyện ngắn, người bạn Xu đã kể lại cho Giôn-xi biết về cái chết của cụ Bơ-mơn. Hành động của cao cả của cụ đã
chứng minh: tình yêu thương bao giờ cũng đòi hỏi một sự hi sinh thầm lặng.
IV. Một số biện pháp tổ chức dạy học nhằm hướng tới phát triển năng lực học sinh trong môn Ngữ văn
1. Xác định các hoạt động trong một tiết dạy Ngữ Văn
Hoạt động 1: Khởi động
* Mục đích của bước này là giúp học sinh:
- Tạo ra hứng thú để học sinh bước vào bài học mới.
- Huy động vốn kiến thức và kĩ năng đã học để chuẩn bị tiếp nhận kiến thức và kĩ năng mới. Hoạt động này dựa trên cơ sở lập luận rằng:
việc tiếp thu kiến thức mới bao giờ cũng dựa trên những kinh nghiệm trước đó. Cho nên, bước này cịn được gọi là "kinh nghiệm"hay "
trải
nghiệm".
* Nội dung, hình thức khởi động
Hoạt động này có thể được thiết kế với những nội dung và hình thức sau:

- Hình thức thi đọc, ngâm thơ, kể chuyện, hát:
+ Một số hoạt động yêu cầu học sinh đọc diễn cảm, ngâm thơ, kể chuyện hoặc hát về chủ đề liên quan đến bài học. Các hoạt động này
trong một số trường hợp được thiết kế thành các cuộc thi nhằm tạo ra khơng khí sôi nổi, hứng thú trước khi tiến hành học bài mới.
- Hình thức là một tình huống:
+ Giáo viên đưa ra một tình huống nào đó để học sinh tham gia bằng cách vận dụng kiến thức đã học, đã biết để giải quyết. Nảy sinh băn
khoăn chưa biết muốn khám phá để từ đó giáo viên vào bài mới.
- Hình thức trị chơi:
+ Một số trị chơi trong hoạt động khởi động giúp tạo ra hứng thú trước khi vào bài học mới. Các trị chơi này cũng có nội dung gắn với
mỗi bài học.


- Sử dụng các đoạn video, clip liên quan đến bài học:
Ví dụ: Khởi động bằng một đoạn video nghe bài hát về người thầy để khởi động vào bài khi học văn bản “Người thầy đầu tiên”.
Hoạt động 2- Hình thành kiến thức mới
* Mục đích của bước này giúp HS tự chiếm lĩnh kiến thức mới thông qua hệ thống các bài tập/ nhiệm vụ mà GV thiết kế.
* Nội dung và hình thức của bài tập/ nhiệm vụ:
- Các nội dung chính của hoạt động hình thành kiến thức mới có thể được tiến hành theo trình tự sau:
+ Đọc văn bản và phần chú thích: Giáo viên có thể giao nhiệm vụ cho học sinh đọc trước ở nhà; đến lớp chỉ kiểm tra, đọc lại một đoạn/
bài ngắn và lưu ý một vài chú thích (nếu cần).
- Tìm hiểu xuất xứ văn bản (tác giả, tác phẩm, hồn cảnh sáng tác).
Ví dụ: Khi dạy bài “Người thầy đầu tiên” giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh qua phiếu học tập.
+ Đọc hiểu văn bản :Giáo viên có thể thiết kế các bài tập/ nhiệm vụ cho học sinh khi tìm hiểu văn bản theo một số hình thức dưới đây:
- Sử dụng một số câu hỏi tập hợp thành một bài tập/ nhiệm vụ lớn hơn.
- Thiết kế các bài tập trắc nghiệm, kết hợp tự luận.
- Thiết kế các hoạt động kích thích khám phá, sáng tạo....
- Nội dung các bài tập/ nhiệm vụ trong mục này nêu lên các yêu cầu tìm hiểu về nội dung, nghệ thuật, đặc điểm thể loại của văn bản. Với
văn bản, cần tập trung vào các nhiệm vụ chính như sau:
+ Tóm tắt nội dung văn bản.
+ Phát hiện cấu trúc nghĩa của văn bản: từ ý nghĩa của đoạn, câu , khái quát hóa để tìm ra nội dung tư tưởng hoặc chủ ý của tác giả.
Khác với cách dạy đang thịnh hành hiện nay là sử dụng phương pháp vấn đáp hay thuyết trình, quy trình này địi hỏi giáo viên phải thiết

kế các hoạt động cho học sinh dưới các hình thức hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm, hoạt động chung cả lớp
Hoạt động 3: Thực hành luyện tập
* Mục đích của hoạt động này giúp học sinh củng cố và rèn luyện các kĩ năng đã có, hình thành những kĩ năng mới thông qua hệ thống các
bài tập/ nhiệm vụ. Đây là một nội dung trọng tâm khác của bài học.
* Nội dung và hình thức bài tập/ nhiệm vụ


- Hoạt động thực hành gồm các bài tập/ nhiệm vụ yêu cầu học sinh củng cố các tri thức vừa học và rèn luyện các kĩ năng liên quan.
- Các bài tập/ nhiệm vụ trong Hoạt động thực hành tập trung hướng đến việc hình thành các kĩ năng cho học sinh, khác với các bài
tập Hoạt động hình thành kiến thức mới hướng tới việc khám phá tri thức.
Các kĩ năng trong phần thực hành bao gồm:
- Nhận diện thể loại văn bản (Ghi nhớ đặc trưng thể loại, vận dụng các đặc trưng đó để nhận diện thể loại trong chính văn bản đang học);
- Nhận diện kiểu văn bản, bao gồm:
+ Ghi nhớ đặc điểm của kiểu văn bản được học;
+ Vận dụng các đặc điểm đó để nhận diện văn bản trong chính văn bản đang học;
- Phân tích cấu trúc nội dung văn bản, bao gồm:
+ Xác định ý nghĩa của các câu từ, đoạn văn.
+ Khái qt hóa để tìm ra ý nghĩa chủ đạo
+ So sánh, suy luận để tìm ra tư tưởng của tác giả.
- Phân tích đặc điểm nghệ thuật của văn bản, bao gồm:
+ Phát hiện tác dụng của các chi tiết nghệ thuật
+ Phát hiện các chi tiết, yếu tố nghệ thuật có giá trị nổi bật
+ So sánh để tìm ra đặc điểm riêng của văn bản, phong cách nhà văn
Hoạt động 4: Vận dụng
* Mục đích của hoạt động mở rộng ứng dụng là giúp HS sử dụng kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết các vấn đề, nhiệm vụ mới trong
các văn bản khác, trong thực tế cuộc sống. Thực tế ở đây được hiểu là thực tế trong nhà trường, trong gia đình và trong cuộc sống
của học sinh.
* Nội dung và hình thức bài tập/ nhiệm vụ
- Các hình thức ứng dụng chính sau đối với văn bản đang học:
+ Vận dụng đọc hiểu các tác phẩm cùng kiểu loại.



Cụ thể: Giáo viên có thể thiết kế các bài tập/ nhiệm vụ trong đó yêu cầu học sinh đọc hiểu (với tất cả các kĩ năng vừa phân tích ở trên)
một hay một số văn bản khác cùng kiểu loại (cùng kiểu văn bản nhật dụng; cùng thể loại kí hay truyện, thơ….).
- Vận dụng giải quyết các tình huống trong cuộc sống. "Cuộc sống" được hiểu một cách phù hợp với lứa tuổi học sinh, nghĩa là có thể bao
gồm:
+ Các tình huống cuộc sống nhưng gắn liền với nhà trường và gia đình, như tình bạn, tình thầy trị, tình anh chị em ruột thịt,
+ Các vấn đề cuộc sống xã hội liên quan đến: ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội, các vấn đề đạo đức, nhân văn,
2. Cải tiến các phương pháp dạy học truyền thống
Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực khơng có nghĩa là loại bỏ các phương pháp dạy học truyền thống như
thuyết trình, đàm thoại, luyện tập… mà cần bắt đầu bằng việc cải tiến để nâng cao hiệu quả và hạn chế nhược điểm của phương pháp dạy
học truyền thống. Để nâng cao hiệu quả của các phương pháp dạy học, người giáo viên trước hết cần nắm vững những yêu cầu và sử dụng
thành thạo các kỹ thuật dạy học trong việc chuẩn bị cũng như tiến hành bài lên lớp, kỹ thuật đặt các câu hỏi và xử lý các câu trả lời trong
đàm thoại, hay kỹ thuật làm mẫu trong luyện tập. Tuy nhiên, các phương pháp dạy học truyền thống có những hạn chế tất yếu, vì thế bên
cạnh các phương pháp dạy học truyền thống cần kết hợp sử dụng các phương pháp dạy học mới, có thể tăng cường tính tích cực nhận thức
của học sinh trong thuyết trình, đàm thoại theo quan điểm dạy học theo hướng phát triển năng lực cho học sinh.
3. Kết hợp đa dạng các phương pháp dạy học
Việc phối hợp đa dạng các phương pháp và hình thức dạy học trong tồn bộ quá trình dạy học là phương hướng quan trọng để phát
huy tính tích cực và nâng cao chất lượng dạy học. Dạy học tồn lớp, dạy học nhóm và dạy học cá thể là những hình thức dạy học cần kết
hợp với nhau, mỗi một hình thức có những chức năng riêng.
Trong thực tiễn dạy học ở trường trung học hiện nay, nhiều giáo viên đã cải tiến bài lên lớp theo hướng kết hợp thuyết trình của giáo
viên với hình thức làm việc nhóm, góp phần tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh. Tuy nhiên hình thức làm việc nhóm rất đa
dạng, khơng chỉ giới hạn ở việc giải quyết các nhiệm vụ học tập nhỏ xen kẽ trong bài thuyết trình, mà cịn có những hình thức làm việc
nhóm giải quyết những nhiệm vụ phức hợp, có thể chiếm một hoặc nhiều tiết học, sử dụng những phương pháp chuyên biệt như phương
pháp đóng vai, nghiên cứu trường hợp, dự án. Mặt khác, việc bổ sung dạy học tồn lớp bằng làm việc nhóm xen kẽ trong một tiết học mới
chỉ cho thấy rõ việc tích cực hố “bên ngồi” của học sinh. Muốn đảm bảo việc tích cực hố “bên trong” cần chú ý đến mặt bên trong của
phương pháp dạy học, vận dụng dạy học giải quyết vấn đề và các phương pháp dạy học tích cực khác.
4. Vận dụng phương pháp dạy học giải quyết vấn đề



Dạy học giải quyết vấn đề nhằm phát triển năng lực tư duy, khả năng nhận biết và giải quyết vấn đề. Người học được đặt trong một
tình huống có vấn đề, đó là tình huống chứa đựng mâu thuẫn nhận thức, thông qua việc giải quyết vấn đề, giúp học sinh lĩnh hội tri thức,
kỹ năng và phương pháp nhận thức.
Dạy học giải quyết vấn đề là con đường cơ bản để phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh, có thể áp dụng trong nhiều hình
thức dạy học với những mức độ tự lực khác nhau của học sinh. Các tình huống có vấn đề là những tình huống khoa học chun mơn, cũng
có thể là những tình huống gắn với thực tiễn.
Trong thực tiễn dạy học hiện nay, dạy học giải quyết vấn đề thường chú ý đến những vấn đề khoa học chuyên môn mà ít chú ý hơn
đến các vấn đề gắn với thực tiễn. Tuy nhiên nếu chỉ chú trọng việc giải quyết các vấn đề nhận thức trong khoa học chuyên mơn thì học
sinh vẫn chưa được chuẩn bị tốt cho việc giải quyết các tình huống thực tiễn. Vì vậy bên cạnh dạy học giải quyết vấn đề, lý luận dạy học
cịn xây dựng quan điểm dạy học theo tình huống.
5. Vận dụng dạy học theo tình huống
Dạy học theo tình huống là một quan điểm dạy học, trong đó việc dạy học được tổ chức theo một chủ đề phức hợp gắn với các tình
huống thực tiễn cuộc sống và nghề nghiệp. Quá trình học tập được tổ chức trong một môi trường học tập tạo điều kiện cho học sinh kiến
tạo tri thức theo cá nhân và trong mối tương tác xã hội của việc học tập. Các chủ đề dạy học phức hợp là những chủ đề có nội dung liên
quan đến nhiều mơn học hoặc lĩnh vực tri thức khác nhau, gắn với thực tiễn.
Trong nhà trường, các môn học được phân theo các môn khoa học chun mơn, cịn cuộc sống thì ln diễn ra trong những mối quan
hệ phức hợp. Vì vậy sử dụng các chủ đề dạy học phức hợp góp phần khắc phục tình trạng xa rời thực tiễn của các mơn khoa học chuyên
môn, rèn luyện cho học sinh năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp, liên môn.
6. Tăng cường sử dụng phương tiện dạy học và công nghệ thông tin hợp lý hỗ trợ dạy học
Phương tiện dạy học có vai trị quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy học, nhm tăng cường tính trực quan trong dạy học. Đa
phương tiện và công nghệ thông tin vừa là nội dung dạy học vừa là phương tiện dạy học trong dạy học hiện đại. Bên cạnh việc sử dụng đa
phương tiện như một phương tiện trình diễn, cần tăng cường sử dụng các phần mềm dạy học cũng như các phương pháp dạy học sử dụng
mạng điện tử, mạng trường học kết nối,…
7. Sử dụng các kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực và sáng tạo
Kỹ thuật dạy học là những cách thức hành động của của giáo viên và học sinh trong các tình huống hành động nhằm thực hiện và
điều khiển quá trình dạy học. Có những kỹ thuật dạy học chung, có những kỹ thuật đặc thù của từng phương pháp dạy học, ví dụ kỹ thuật
đặt câu hỏi trong đàm thoại. Ngày nay người ta chú trọng phát triển và sử dụng các kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực, sáng tạo của
người học như: động não, khăn trải bàn, bản đồ tư duy,...



8. Chú trọng các phương pháp dạy học đặc thù bộ mơn
Phương pháp dạy học có mối quan hệ biện chứng với nội dung dạy học, việc sử dụng các phương pháp dạy học đặc thù có vai trị
quan trọng trong dạy học bộ môn. Các phương pháp dạy học đặc thù bộ môn được xây dựng trên cơ sở lý luận dạy học bộ môn. Chẳng hạn
dạy một tiết giảng văn khơng thể khơng dùng phương pháp giảng bình. Chính những đoạn giảng bình sẽ làm cho học sinh hiểu sâu hơn và
cảm nhận dược đầy đủ hơn vẻ đẹp của các tác phẩm văn học.
9. Bồi dưỡng phương pháp học tập tích cực cho học sinh
Phương pháp học tập một cách tự lực đóng vai trị quan trọng trong việc tích cực hố, phát huy tính sáng tạo của học sinh. Có những
phương pháp nhận thức chung như phương pháp thu thập, xử lý, đánh giá thông tin, phương pháp tổ chức làm việc, phương pháp làm việc
nhóm, có những phương pháp học tập chuyên biệt của từng bộ mơn. Bằng nhiều hình thức khác nhau, cần luyện tập cho học sinh các
phương pháp học tập chung và các phương pháp học tập riêng mang tính đặc trưng của bộ môn.
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Giáo dục theo định hướng phát triển năng lực học sinh nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của việc dạy học, thực hiện mục tiêu phát
triển toàn diện các phẩm chất, nhân cách, chú trọng năng lực vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị cho con
người năng lực giải quyết các tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp. Đây là vấn đề chúng tôi và đồng nghiệp tiếp tục tìm hiểu và vận
dụng nhằm phát huy tối đa hiệu quả trong giờ học Ngữ văn trong thời gian tới.
Giáo án minh họa
Tuần: 8
Tiết: 32
ND: /

ĐỌC MỞ RỘNG THEO THỂ LOẠI:
SỨC HẤP DẪN CỦA TRUYỆN NGẮN “CHIẾC LÁ CUỐI CÙNG”
/2023
(Theo Minh Khuê)


I. MỤC TIÊU
1. Năng lực
- Nhận biết được đặc điểm của văn bản nghị luận phân tích một tác phẩm văn hoc.
- Nêu được mục đích và nội dung chính của văn bản, chỉ ra mối quan hệ giữa đặc điểm văn bản với mục đích của nó.

- Nêu được những trải nghiệm trong cuộc sống đã giúp bản thân hiểu ra được các vấn đề đặt ra trong văn bản.
2. Phẩm chất
- Có lịng nhân ái qua việc trân trọng, thấu hiểu góc nhìn của mọi người
- u mến vẻ đẹp của văn chương
II. THIẾT BỊ DẠY HỌC VÀ HỌC LIỆU
1. Thiết bị dạy học:
- Giáo viên: Máy chiếu, máy tính, kế họa bài học, micro, phiếu học tập, …
- Học sinh: SGK, SBT Ngữ văn 7, soạn bài theo hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài, vở ghi.
2. Học liệu: Văn bản đọc: Sức hấp dẫn của truyện ngắn “Chiếc lá cuối cùng”
III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
1. Hoạt động 1: KHỞI ĐỘNG
a. Mục tiêu:
- Tạo hứng thú cho HS, thu hút HS sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ học tập
b. Nội dung: Giáo viên đọc cho học sinh nghe bài thơ: “Nghĩ về kiệt tác của cụ Bơ-men” và nêu giúp HS nêu cảm nhận về bài thơ.
“Chiếc lá cuối cùng” - chiếc lá giả trên cây
Được vẽ ra trong đêm mưa gió rét
Được vẽ ra từ tấm lịng cao đẹp
Và tình người nhân ái bao la
Cụ Bơ-men người hoạ sĩ tài hoa
Đã cứu sống một tâm hồn cịn trẻ
Chẳng quản tuyết rơi, đêm đơng lạnh giá
Lặng lẽ…âm thầm…vẽ chiếc lá trong đêm
Có biết đâu rằng trong đêm mưa tuyết rơi
Cụ Bơ-men vì tình yêu con người
Cứu sống Giôn-xi cụ ra đi mãi mãi
Để lại cho đời một kiệt tác “hồi sinh”.
c. Sản phẩm: Câu trả lời của học sinh


d. Tổ chức thực hiện:

Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ học tập
GV đọc bài thơ: “Nghĩ về kiệt tác của cụ Bơ-men”
Em có cảm nhận gì về bài thơ trên? Tác phẩm “Chiếc lá cuối cùng” đã để lại tình cảm, cảm xúc gì cho tác giả qua bài thơ đó?
Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ học tập
HS thực hiện nhiệm vụ cá nhân
Bước 3: Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ HT
- GV: Yêu cầu HS trình bày.
- HS: trình bày sản phẩm.
- Các HS khác theo dõi, quan sát, nhận xét, bổ sung (nếu cần) .
Bước 4: Kết luận, nhận định
- Từ học sinh chia sẻ, GV dẫn vào bài mới: Hãy luôn thắp sáng ngọn lửa của khát khao hi vọng hãy luôn yêu thương, mang nghệ thuật
phục vụ con người, nghệ thuật chân chính lâu bền nhất là nghệ thuật hướng tới con người và vì con người.Đó là sức hấp dẫn của truyện
ngắn “Chiếc lá cuối cùng”…
2. Hoạt động 2: KHÁM PHÁ
I. ĐỌC VĂN BẢN
a. Mục tiêu
- Giúp học sinh biết cách đọc 1 văn bản nghị luận .
b. Nội dung: Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc văn bản.
c. Sản phẩm: Phần đọc của học sinh.
d. Tổ chức thực hiện:
HOẠT ĐỘNG CỦA GV&HS
DỰ KIẾN SẢN PHẨM
Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ (GV)
- Hướng dẫn cách đọc & yêu cầu cá nhân HS đọc. (đọc
to, diễn cảm)
Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ học tập
- HS nghe GV hướng dẫn, đọc mẫu, luyện đọc
Bước 3: Báo cáo thảo luận
HS đọc to, diễn cảm văn bản
Bước 4: Kết luận, nhận định (GV)

- Nhận xét giọng đọc của từng HS, chỉ ra những ưu
điểm và hạn chế của HS.
II. KHÁM PHÁ VĂN BẢN


1. Các yếu tố nghị luận trong VB
a.Mục tiêu: HS có cái nhìn tồn diện, sâu sắc hơn về văn nghị luận thơng qua tìm hiểu văn bản đọc
mở rộng
b. Nội dung hoạt động: Làm việc cá nhân, cặp đôi để tìm hiểu văn bản.
c. Sản phẩm: Câu trả lời hoặc phiếu học tập đã hoàn thiện của cá nhân học sinh.
d. Tổ chức thực hiện:
Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ (GV)
- GV nêu câu hỏi: Phát phiếu học tập & giao nhiệm vụ: (phần này đã được chuẩn bị bài ở nhà)
H: Em hãy vẽ sơ đồ thể hiện mối quan hệ giữa ý kiến lớn, ý kiến nhỏ, lí lẽ, bằng chứng trong văn
bản"Sức hấp dẫn của truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng"?
Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ học tập
- Đọc kĩ văn bản, xác định các ý kiến lớn, ý kiến nhỏ, lí lẽ, bằng chứng để vẽ sơ đồ
- HS thực hiện nhiệm vụ cá nhân tại nhà
Bước 3: Báo cáo thảo luận
GV:
- Yêu cầu HS trình bày.
- Hướng dẫn HS trình bày (nếu cần).
HS:
- HS trình bày sản phẩm đã làm ở nhà trước lớp.
- Các HS khác theo dõi, quan sát, nhận xét, bổ sung (nếu cần) .
Bước 4: Kết luận, nhận định (GV)
- Nhận xét thái độ và kết quả làm việc của từng HS, chỉ ra những ưu điểm và hạn chế của HS.
- Chốt kiến thức.
+ Văn bản NL sử dụng các lí lẽ dẫn chứng cụ thể, rõ ràng
DỰ KIẾN SẢN PHẨM




=> Cách triển khai các ý kiến, lí lẽ bằng chứng hợp lí thuyết phục, giúp người đọc dễ dàng tiếp nhận
và nắm bắt lập luận của văn bản.
2. Mục đích và đặc điểm của văn bản
a. Mục tiêu
- Nắm được đặc điểm, mục đích, tác dụng thể hiện mục đích
của văn bản "Sức hấp dẫn của truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng.
b. Nội dung: Thông qua hoạt động cá nhân, hđ nhóm, HS
nắm bắt được mục đích, đặc điểm của văn bản "Sức hấp dẫn


của truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng.
c. Sản phẩm: Câu trả lời và kết quả thảo luận của học sinh.
d. Tổ chức thực hiện:
Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ (GV)
- Nhiệm vụ 1: Văn bản "Sức hấp dẫn của truyện ngắn Chiếc
lá cuối cùng được viết ra nhằm mục đích gì?
- Nhiệm vụ 2: Chỉ ra những đặc điểm của văn bản nghị luận
phân tích một tác phẩm văn học trong “Sức hấp dẫn của
truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng” và nêu tác dụng của các đặc
điểm ấy trong việc thực hiện mục đích văn bản bằng cách
hồn thành bảng sau:
(thời gian thảo luận 5 phút)

Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ HT
NV1: Suy nghĩ cá nhân và trả lời câu hỏi
NV2: Thảo luận nhóm (4 nhóm)
Bước 3: Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ HT

* NV 1:
GV:
- Yêu cầu HS trình bày.


HS:
- HS trình bày ý kiến.
- Các HS khác theo dõi, quan sát, nhận xét, bổ sung (nếu
cần) .
* NV 2:
GV:
- u cầu các nhóm trình bày kết quả thảo luận.
HS:
- Đại diện nhóm trình bày ý kiến.
- Các nhóm khác theo dõi, quan sát, nhận xét, bổ sung (nếu
cần) .
Bước 4: Kết luận, nhận định (GV)
- Nhận xét thái độ và kết quả làm việc của từng HS, chỉ ra
những ưu điểm và hạn chế của HS.
- Chốt kiến thức.
DỰ KIẾN SẢN PHẨM
* NV 1: Mục đích: thuyết phục người đọc hiểu được: Hãy
luôn thắp sáng ngọn lửa của khát khao hi vọng hãy luôn yêu
thương, mang nghệ thuật phục vụ con người, nghệ thuật
chân chính lâu bền nhất là nghệ thuật hướng tới con người
và vì con người.
* NV 2:
Đặc điểm của văn bản
Biểu hiện trong văn bản Sức hấp dẫn của Tác dụng trong việc thực
nghị luận phân tích một truyện ngắn “Chiếc lá cuối cùng”

hiện mục đích văn bản
tác phẩm văn học
Thể hiện rõ ý kiến của
người viết về tác phẩm
cần bàn luận

Đây là một truyện ngắn đặc sắc và hấp dẫn, Xác định, làm nổi bật ý kiến
để lại nhiều ấn tượng cho bạn đọc
được nêu

Đưa ra lí lẽ là những lí
giải, phân tích tác phẩm

- Chi tiết chiếc lá cuối cùng
- Kết thúc bất ngờ

Dẫn chứng các chi tiết nổi
bật từ văn bản



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×