Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Thảo luận lịch sử đcs tìm hiểu về vai trò thành phần kinh tế nhà nước sau đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.59 KB, 27 trang )

HỌC PHẦN: LỊCH SỬ ĐCS
ĐỀ TÀI THẢO LUẬN
Tìm hiểu về vai trò thành phần kinh tế nhà nước sau đổi mới.
Và đưa ra ý kiến nhận xét.


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................................ 2
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THÀNH PHẦN KINH TẾ NHÀ NƯỚC.............4
1.1. Khái niệm thành phần kinh tế Nhà nước...................................................................4
1.2. Các bộ phận cấu thành kinh tế Nhà nước..................................................................4
1.3. Vị trí của thành phần kinh tế Nhà nước.....................................................................6
CHƯƠNG II. VAI TRÒ CỦA THÀNH PHẦN KINH TẾ NHÀ NƯỚC SAU ĐỔI MỚI
................................................................................................................................................ 7
2.1. Kinh tế nhà nước trở thành lực lượng vật chất và công cụ sắc bén để Nhà nước
thực hiện chức năng định hướng, điều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế.........................7
2.2. Hoạt động của thành phần kinh tế nhà nước là nhằm mở đường, hướng dẫn, hỗ
trợ, thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế khác............................................7
2.3. Kinh tế nhà nước là lực lượng xung kích chủ yếu thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa................................................................................................................................. 8
2.4. Kinh tế nhà nước nắm giữ các vị trí then chốt trong nền kinh tế nhằm đảm bảo cân
đối các vĩ mô của nền kinh tế.............................................................................................8
2.5. Kinh tế nhà nước trực tiếp tham gia khắc phục các mặt trái của cơ chế thị trường. 9
2.6. Vai trò trong ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, về năng suất, chất lượng
hiệu quả kinh tế - xã hội.....................................................................................................9
2.7. Vai trò trong giải quyết các vấn đề xã hội.................................................................10
2.8. Tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới.........................................................................10
CHƯƠNG III. NHẬN XÉT VỀ THÀNH PHẦN KINH TẾ NHÀ NƯỚC SAU ĐỔI
MỚI...................................................................................................................................... 12
3.1. Đánh giá chung về thực trạng thành phần kinh tế Nhà nước ở Việt Nam.............12
3.1.1. Thành tựu............................................................................................................12


3.1.2. Hạn chế................................................................................................................ 12
3.1.3.Nguyên nhân…………………………………………..………………………….17
3.2. Một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò chủ đạo kinh tế nhà nước trong nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.......................................................17
KẾT LUẬN.......................................................................................................................... 22

2


LỜI MỞ ĐẦU
Theo thời gian, Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển kinh tế, từ giai đoạn kinh
tế truyền thống đến đổi mới và hội nhập quốc tế. Để đáp ứng với yêu cầu phát triển kinh tế,
đất nước đã tiến hành nhiều cải cách trong cách thức quản lý và điều hành nền kinh tế. Điều
này đặc biệt rõ ràng trong vai trò của thành phần kinh tế trong nền kinh tế Việt Nam. Trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã và đang phát huy sức mạnh tổng hợp của các
thành phần kinh tế, kết hợp nội lực với ngoại lực để phát triển nhanh hơn. Cùng với sự hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quan niệm về vai trò chủ đạo
của thành phần kinh tế nhà nước cũng có sự thay đổi cho phù hợp với từng hồn cảnh lịch
sử. Theo đó, nội hàm của khái niệm kinh tế nhà nước cũng thay đổi theo. Tuy nhiên, vai trò
chủ đạo của thành phần kinh tế này trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
về cơ bản vẫn được giữ vững. Nhưng cùng với sự phát triển của kinh tế tư nhân phát triển
mạnh mẽ và vẫn cịn có những hạn chế của kinh tế nhà nước. Điều này làm nảy sinh ra nhiều
ý kiến rằng kinh tế nhà nước không nên giữ vai trị chủ đạo. Vì vậy, nhóm 6 lựa chọn đề tài
tìm hiểu về “vai trị thành phần kinh tế sau đổi mới. Rút ra nhận xét” để làm rõ những nhận
định trên. Việc tìm hiểu về vai trò của các thành phần kinh tế sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về
bức tranh chung của nền kinh tế Việt Nam hiện nay.

3



CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THÀNH PHẦN KINH TẾ NHÀ NƯỚC
1.1. Khái niệm thành phần kinh tế Nhà nước
Thành phần kinh tế nhà nước là nói tới quan hệ sản xuất đặt trên nền tảng sở hữu toàn
dân mà Nhà nước là đại diện. Thành phần kinh tế là một phạm trù kinh tế — xã hội. Thành
phần kinh tế nhà nước là một trong 6 thành phần kinh tế ở Việt Nam hiện nay, đại diện cho
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế nhà nước là khu vực kinh tế do Nhà nước nắm giữ, dựa trên cơ sở quan trọng là
sở hữu của nhà nước. Hay nói cách khác kinh tế nhà nước là toàn bộ hoạt động kinh tế thuộc
sở hữu nhà nước, trên cơ sở đó Nhà nước có quyền quản lý, sử dụng hiệu quả kinh tế do lực
lượng kinh tế của Nhà nước mang lại. Kinh tế nhà nước phải là và bao gồm những hoạt động
kinh tế mà Nhà nước là chủ thể, có quyền tổ chức, chi phối hoạt động theo hướng đã định.
Khác với tài sản thuộc sở hữu nàh nước ở “dạng tĩnh”, khu vực kinh tế nhà nước nói ở “dạng
động”. Như vậy những tài nguyên chưa khai thác “nằm im” trong lòng đất cũng là tài sản
thuộc sở hữu nhà nước, nhưng chưa phải là kinh tế nhà nước.
Kinh tế nhà nước là bộ phận quan trọng, có tác dụng thiết thực trong cơ cấu kinh tế của
mỗi nước. Tuy nhiên, tuỳ theo chủ trương, chính sách và điều kiện cụ thể của mỗi nước mà
khu vực kinh tế này có vị trí, vai trò, phạm vi và mức độ hoạt động khác nhau. Chính khu
vực kinh tế nhà nước và những đóng góp của tất cả các khu vực kinh tế khác trong nền kinh
tế quốc dân đã tạo nên sức mạnh vật chất mà Nhà nước có trong tay.
Kinh tế nhà nước được thể hiện dưới nhiều hình thức hoạt động khác nhau với các hình
thức tổ chức tương ứng, như hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ, các hoạt động
đảm bảo cho quá trình tái sản xuất xã hội mà ở đó Nhà nước biểu hiện như một chủ sở hữu,
chủ thể kinh doanh, người tham gia. Nghĩa là kinh tế nhà nước có nhiều bộ phận hợp thành,
mỗi bộ phận hợp thành kinh tế nhà nước có chức năng và nhiệm vụ khác nhau.
1.2. Các bộ phận cấu thành kinh tế Nhà nước
Kinh tế Nhà nước bao gồm ba thành phần cơ bản đó là: các doanh nghiệp nhà nước, các
tổ chức nhà nước, những tài sản thuộc sở hữu toàn dân.
*Về Doanh nghiệp nhà nước

4



Khái niệm: Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp 100% vốn của nhà nước hoặc
Doanh nghiệp cổ phần trong đó vốn của nhà nước chiếm tỷ trọng chi phối.
Trong ba nhân tố cấu thành kinh tế nhà nước ở trên thì doanh nghiệp nhà nước là nhân
tố (hay thành phần) giữ tỷ lệ cao nhất và vai trò quan trọng nhất trong việc đảm bảo cho kinh
tế nhà nước giữ được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Bởi vậy khi đề cập đến vai
trò chủ đạo của kinh tế nhà nước thì người ta thường đề cập đến doanh nghiệp nhà nước là
chủ yếu. Ngay trong nghị quyết hội nghị lần thứ ba ban chấp hành trung ương Đảng khóa IX
về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Hội
nghị đã khẳng định rõ quan điểm “Kinh tế nhà nước có vai trị quan trọng trong việc giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt trong nền
kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mơ, làm lực
lượng nịng cốt, góp phần quan trọng để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Doanh nghiệp nhà nước cũng được chia ra làm hai loại: Doanh nghiệp hoạt động kinh
doanh và hoạt động cơng ích. Cả hai loại doanh nghiệp này đều mang các đặc điểm của các
thành phần của kinh tế nhà nước và thông thường chúng được chia làm hai loại nhỏ: các
doanh nghiệp do nhà nước giữ 100% và một loại doanh nghiệp do nhà nước giữ cổ phần chi
phối.
Đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh: Mục tiêu là nhằm thu lợi nhuận.
Nhà nước sẽ giữ 100% vốn đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực
quan trọng đặc biệt và sẽ cổ phần chi phối hoặc 100% vốn đối với các doanh nghiệp hoạt
động trong các lĩnh vực kinh doanh mà nhà nước cần nắm nhằm bảo đảm ổn định nền kinh
tế. Các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh thơng thường là những doanh nghiệp có quy mơ
lớn có đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước, phải luôn luôn đi đầu trong ứng dụng kỹ thuật
- công nghệ hiện đại, đảm bảo nhu cầu của đời sống nhân dân.
Cịn các doanh nghiệp hoạt động cơng ích là những doanh nghiệp hoạt động khơng vì
mục đích lợi nhuận, có thể khơng có thu mà nhà nước cấp kinh phí - đó là những doanh
nghiệp cung cấp các hàng hố cơng cộng, dịch vụ cơng như: An ninh, quốc phịng, giao

thơng, giáo dục, y tế ....
*Về các tổ chức kinh tế nhà nước
5


Các tổ chức kinh tế nhà nước là các tổ chức hoạt động gắn với chức năng quản lý (kiểm
tra, kiểm sốt) như tài chính ngân hàng, bảo hiểm, kho bạc nhà nước, các quỹ dự trữ quốc
gia...các tổ chức này có thể do nhà nước cung cấp 100% vốn hoặc giữ một phần vốn cố định
để đảm bảo sự hoạt động ổn định cho các tổ chức này. Thành phần này cũng có nột vị trí
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
*Về các tài sản thuộc sở hữu nhà nước
Các tài sản thuộc sở hữu toàn dân (hay sở hữu nhà nước) được xem là thành phần của
kinh tế nhà nước. Khi Nhà nước nhận được lợi ích kinh tế do quyền sở mang lại như: đất đai,
tài nguyên thiên nhiên, ...
1.3. Vị trí của thành phần kinh tế Nhà nước
Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Đảng ta đã
chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần có sự quản lí của nhà nước. Các thành
phần kinh tế hoạt động theo pháp luật là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế bình
đẳng trước pháp luật cùng phát triển lâu dài hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của
nền kinh tế quốc dân.
Có quan niệm cho rằng: "Kinh tế nhà nước là thuật ngữ dùng để chỉ phần tài sản thuộc
sở hữu nhà nước, tài nguyên khoáng sản, đất đai là tài sản quốc gia do nhà nước thay mặt
toàn dân làm chủ sở hữu. Hệ thống các quỹ bảo hiểm do nhà nước đảm nhận và quỹ dự trữ
quốc gia, ngân hàng nhà nước, kho bạc nhà nước, tài chính nhà nước, các doanh nghiệp
100% vốn nhà nước ở tất cả các ngành, lĩnh vực, phần vốn nhà nước đầu tư vào các thành
phần kinh tế dưới dạng công ty cổ phần". Nhưng quan điểm này có nhược điểm là tiếp cận
vấn đề nặng nề về yếu tố sở hữu mà đáng lẽ phảI tiếp cận dưới giác độ quản lí. Vì thế kinh tế
nhà nước được hiểu: Kinh tế nhà nước là một bộ phận hợp thành của nền kinh tê quốc dân
thống nhất do nhà nước trực tiếp quản lí bao gồm tài nguyên khoáng sản, đất đai là tài sản

quốc gia do nhà nước thay mặt toàn dân làm chủ sở hữu. Hệ thống các quỹ bảo hiểm do nhà
nước đảm nhận và quỹ dự trữ quốc gia, ngân hàng nhà nước, kho bạc nhà nước, tài chính
nhà nước. Các doanh nghiệp nhà nước bao gồm doanh nghiệp nhà nước sở hữu 100% vốn và
doanh nghiệp nhà nước chỉ giữ cổ phần chi phối và có cổ phần đặc biệt. Cơ sở để xem xét
một thành phần kinh tế với tư cách là quan hệ sản xuất trong đó quan hệ sở hữu có vai trị
6


quyết định. "Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công cộng (công
hữu) về TLSX do toàn dân sở hữu và sở hữu nhà nước". Thành phần kinh tê nhà nước có
quan hệ phân phối chủ yếu là hình thức phân phối theo lao động.
CHƯƠNG II. VAI TRÒ CỦA THÀNH PHẦN KINH TẾ NHÀ NƯỚC SAU ĐỔI MỚI
Nước ta sau thời kỳ sau đổi mới, nền kinh tế của chúng ta là nền kinh tế nhiều thành
phần. Với tiềm lực vật chất to lớn, gồm nhiều bộ phận hợp thành mà không một thành phần
kinh tế nào có được, và trên nền tảng sở hữu tồn dân và quyền lực chính trị của Nhà nước,
khu vực kinh tế nhà nước của chúng ta có đầy đủ tiền đề để thực hiện vai trị chủ đạo. Bởi vì
bộ phận kinh tế nhà nước một mặt quyết định quỹ đạo phát triển của nền kinh tế cả nước,
mặt khác, đảm bảo duy trì cân bằng quan hệ tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
Chủ đạo có nghĩa là chi phối tồn bộ hoạt động của một hệ thống nào đó. Khu vực kinh
tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo có nghĩa là nó phải có khả năng chi phối xu thế phát triển
kinh tế- xã hội.
Do vậy, vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước được phân tích, làm rõ qua các
nội dung sau đây.
2.1. Kinh tế nhà nước trở thành lực lượng vật chất và công cụ sắc bén để Nhà nước thực
hiện chức năng định hướng, điều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế
Trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nước với tư cách là một yếu tố, một chủ thể kinh tế đặc
biệt của nền kinh tế đất nước. Nó có vai trị vĩ mơ điều hành trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế
làm cho nền kinh tế thị trường hoạt động thông suốt, tạo lập những cân đối lớn theo định
hướng xã hội chủ nghĩa mà thị trường không tự điều chỉnh được.

Đây là một trong những vai trò cực kỳ quan trọng của kinh tế nhà nước. Bởi lẽ, trong
nền kinh tế thị trường mặc dù sự can thiệp của Nhà nước là cần thiết và đúng đắn nhưng nếu
khơng có một lực lượng kinh tế mạnh làm hậu thuẫn thì trong nhiều trường hợp sự can thiệp
đó có thể bị cơ chế thị trường vơ hiệu hóa. Chính vì vậy , Nhà nước ta cần hướng các thành
phần kinh tế khác theo hướng mục tiêu mà Nhà nước đã định ra.
2.2. Hoạt động của thành phần kinh tế nhà nước là nhằm mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ,
thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế khác
7


Thành phần kinh tế nhà nước phải tạo được tiền đề thuận lợi để khai thông và vận dụng
mọi nguồn lực ở tất cả các thành phần khác nhau vì sự tăng trưởng chung của nền kinh tế,
bảo đảm nền kinh tế phát triển đúng mục tiêu đã chọn…
2.3. Kinh tế nhà nước là lực lượng xung kích chủ yếu thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa
Để đảm bảo thực hiện được nhiệm vụ này, khu vực kinh tế nhà nước phải huy động tổng
lực, trước hết là chiến lược đầu tư đúng đắn, trong đó bao hàm cả đầu tư trực tiếp của Nhà
nước lẫn chính sách khuyến khích để tập thể và toàn dân tập trung vào các ngành mũi nhọn,
tạo đà tăng trưởng nhanh cho nền kinh tế. Tiếp nữa, Nhà nước đã nỗ lực về tài chính, ngoại
giao, chính trị để thực thi chiến lược chuyển giao cơng nghệ có hiệu quả với phương châm
kế thừa tích cực tiến bộ kỹ thuật mà lồi người đã đạt được. Đồng thời với các nỗ lực trên là
chiến lược về đào tạo, chiến lược tranh thủ chất xám của thế giới; là nỗ lực chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nhà nước khơng tiến hành cơng nghiệp hóa một cách đơn độc như trước kia mà
trở thành hạt nhân tổ chức, thu hút và định hướng để lôi kéo tất cả các thành phần kinh tế
khác cùng tham gia vào quỹ đạo cơng nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước.
2.4. Kinh tế nhà nước nắm giữ các vị trí then chốt trong nền kinh tế nhằm đảm bảo cân
đối các vĩ mô của nền kinh tế
Để nền kinh tế tăng trưởng lâu dài, bền vững và hiệu quả, kinh tế nhà nước cần nắm giữ
các lĩnh vực như: công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng, các ngành công nghiệp
mũi nhọn, kết cấu hạ tầng vật chất cho nền kinh tế như giao thơng, tài chính, năng lượng,...,

các ngành có ảnh hưởng to lớn đến kinh tế đối ngoại như các liên doanh lớn, xuất nhập khẩu
quy mô lớn hoặc các lĩnh vực liên quan đến an ninh quốc phịng và trật tự an tồn xã hội.
Nhà nước ta không độc quyền cân nhắc trong các lĩnh vực này mà đã hợp tác liên doanh
hợp lý với các thành phần kinh tế khác, nhất là trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, xuất nhập khẩu
và công nghiệp
Vai trò của kinh tế nhà nước xét trên các lĩnh vực cụ thể có nội dung như sau:
● Trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội như đường sắt, vận tải biển, hàng
không, sân bay, đường biển, mạng lưới điện quốc gia, các khâu quan trọng của bưu

8


chính- viễn thơng, hệ thống thủy lợi tưới tiêu cho nông nghiệp và chống thiên tai,
cung cấp nước sạch,...
● Trong công nghiệp, kinh tế nhà nước đã đi đầu và làm nịng cốt trong các ngành như
luyện kim, cơ khí chế tạo máy móc, hóa chất cơ bản, phân bón, khai thác khống sản
có trữ lượng lớn, q hiếm, sản xuất một số vật liệu xây dựng và linh kiện quan trọng,
những ngành công nghệ cao như công nghệ điện tử, công nghệ sinh học, công nghệ
tin học
● Trong nông - lâm nghiệp, kinh tế nhà nước đã hỗ trợ kinh tế hợp tác và kinh tế hộ sản
xuất, kinh doanh có hiệu quả; làm địn bẩy trong xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn,
đưa công nghệ mới vào sản xuất, trung tâm chuyển giao công nghệ- khoa học, trung
tâm văn hóa trên từng địa bàn.
● Trong thương nghiệp, đối với khu vực nông thôn: kinh tế nhà nước liên kết chặt chẽ
với mỗi thành phần kinh tế, thu hút và hướng dẫn họ trong mạng lưới của hệ thống
thương mại ở nông thôn, nắm đại bộ phận lực lượng bán buôn, chi phối bán lẻ những
mặt hàng chủ lực, thiết yếu cho sản xuất và đời sống, điều tiết và bình ổn giá cả có lợi
cho nơng dân
● Trong thương nghiệp, đối với xuất - nhập khẩu: kinh tế nhà nước giữ vai trò nòng cốt,
chi phối trong việc lưu thơng hàng hóa, chi phối bán bn và tổ chức dự trữ lưu thông

những mặt hàng thiết yếu cho cả sản xuất cũng như đời sống, ví dụ xuất khẩu lúa
gạo,...
● Trong các lĩnh vực: tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, pháp lý, thông tin thị trường:
kinh tế nhà nước giữ vai trò chi phối để đảm bảo sự tăng trưởng của các ngành nghề
này.
2.5. Kinh tế nhà nước trực tiếp tham gia khắc phục các mặt trái của cơ chế thị trường
Trong các lĩnh vực hoạt động cần thiết cho sự phát triển kinh tế- xã hội, nhưng khả năng
sinh lời thấp, không hấp dẫn tư nhân đầu tư, như đầu tư vào cơ sở hạ tầng, các cơng trình
phúc lợi, tình nghĩa, bảo vệ mơi trường,... sẽ do kinh tế nhà nước trực tiếp đảm nhận.
9


Trong quan hệ cung- cầu hàng hóa, nếu xuất hiện các ‘lỗ hổng’ do cơ chế thị trường tạo
ra, sẽ do kinh tế nhà nước điều chỉnh.
2.6. Vai trò trong ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, về năng suất, chất lượng hiệu
quả kinh tế - xã hội
Kinh tế nhà nước phải là hình mẫu về ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, về năng
suất, chất lượng hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật. Theo quan điểm hiện tại
của Đảng ta, chế độ xã hội mới chỉ có thể dựa trên nền tảng là công hữu (sở hữu Nhà nước
và tập thể), cũng có nghĩa kinh tế Nhà nước và kinh tế hợp tác là yếu tố tiến bộ hơn kinh tế
tư bản chủ nghĩa về năng suất, chất lượng và hiệu quả. Đây là thực chất của sự lựa chọn xã
hội chủ nghĩa. Trên thực tế, kinh tế nhà nước tiềm tàng các yếu tố cho phép nó - ưu việt hơn
như quy mô sở hữu lớn và khả năng tập trung cao cho nghiên cứu khoa học, đổi mới cơng
nghệ, triển khai cơng nghệ mới,... là tính khoa học và kế hoạch hoá cao. Tuy nhiên, để tất cả
các yếu tố tiềm tàng đó trở thành hiện thực cần phải có mơ hình và cơ chế tổ chức quản lý
phù hợp mới phát huy được thế mạnh.
2.7. Vai trò trong giải quyết các vấn đề xã hội
Ở một nước kinh tế còn chưa phát triển lại trải qua chiến tranh, kéo dài như Việt Nam,
giải quyết các vấn đề xã hội, nhất là vấn đề đền ơn đáp nghĩa với người có cơng với nước là
nhiệm vụ phức tạp, khó khăn, nhng lại có ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội rất quan trọng, thể

hiện tính chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế nhiều
thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trờng, việc giải quyết các vấn đề xã hội không thể một
lực lượng tư nhân nào có thể đảm đương được. Chính thực tế đó địi hỏi Nhà nước có trách
nhiệm là người đảm bảo sự ổn định xã hội, tạo tiền đề để mỗi ngời có thể phát triển tồn
diện làm trụ cột và lực lượng chính trong việc giải quyết các vấn đề xã hội. Kinh tế nhà nước
sẽ là lực lượng vật chất và cơng cụ để Nhà nước hồn thành nhiệm vụ nói trên.
2.8. Tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới
Khu vực kinh tế nhà nước gồm nhiều bộ phận cấu thành, trong đó hệ thống doanh
nghiệp nhà nước là bộ phận cơ bản nhất. Tuy nhiên, điều cần thiết lý luận kỹ ở đây là vai trò
cụ thể của doanh nghiệp nhà nước trong từng giai đoạn phát triển, để trên cơ sở đó để ra giải
pháp tổ chức, quản lý đúng, vừa bảo đảm vai trò của khu vực kinh tế quan trọng này vừa đáp
ứng quan hệ chung với các bộ phận cấu thành khác của hệ thống kinh tế, chính trị - xã hội.
10


Các doanh nghiệp nhà nước vừa là chủ thể tham gia kinh doanh, là lực lượng kinh tế nòng
cốt để Nhà nước dẫn dắt, mở đường cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Như
vậy, hệ thống doanh nghiệp do Nhà nước thành lập và làm chủ sở hữu vừa là các đơn vị kinh
tế tự chủ, độc lập vừa là lực lượng kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Là chủ thể kinh tế, các
doanh nghiệp nhà nước phải hoạt động có hiệu quả để đóng góp tích cực cho ngân sách nhà
nước, đảm bảo và gia tăng nguồn lực kinh tế mà Nhà nước đã đầu tư cho các doanh nghiệp
này. Là lực lượng kinh tế vĩ mơ, các doanh nghiệp nhà nớc phải góp phần tạo ra môi trường,
tiền đề thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh của các loại hình doanhh nghiệp khác, lơi cuốn
các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác vào quỹ đạo đi lên chủ nghĩa xã hội.
Vai trò của hệ thống doanh nghiệp nhà nước gắn liền với việc tham gia vào hoạt động
kinh tế của nhà nước. Vai trị này thể hiện trên 3 khía cạnh kinh tế, chính trị và xã hội. Nội
dung của vai trị này đọc thể hiện như sau:
- Là công cụ chủ yếu tạo ra sức mạnh vật chất để Nhà nước giữ vững sự ổn định xã hội,
điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và lâu

bền của toàn bộ nền kinh tế. Đảm nhận các lĩnh vực hoạt động có tính chiến lược đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội: Cung ứng các hàng hoá, dịch vụ thiết yếu, nhất là trong lĩnh vực
kết cấu hạ tầng (giao thông, thuỷ lợi, điện, nước, thông tin liên lạc..., xã hội (giáo dục, y
tế, ...) và an ninh, quốc phịng.
- Góp phần quan trọng khắc phục những khiếm khuyết của cơ chế thị trường: Những
lĩnh vực mới, các lĩnh vực kết cấu hạ tầng, công trình cơng cộng,... rủi ro cao, địi hỏi vốn
lớn, thu hồi chậm, lợi nhuận thấp là những ngành cần thiết và tạo điều kiện cho phát triển
sản xuất, các thành phần kinh tế khác không muốn đầu tư, hoặc chưa có khả năng, điều kiện
làm thì doanh nghiệp nhà nước cần phải đi đầu mở đường, tạo điều kiện cho các thành phần
kinh tế khác phát triển.
- Là lực lượng xung kích tạo ra sự thay đổi cơ cấu kinh tế, thúc đẩy nhanh việc ứng
dụng tiến bộ khoa học cơng nghệ nhằm thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước.
- Là lực lượng đối trọng trong cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước, chống sự
lệ thuộc vào nước ngoài về kinh tế trong điều kiện mở cửa, hội nhập với khu vực và thế giới.

11


- Thực hiện một số chính sách xã hội như: tạo việc làm cho các nhóm xã hội dễ bị tổn
thương ở những khu vực khó khăn, kém phát triển, nh biên giới, hai đảo, miền núi.
- Là lực lượng tạo nền tảng cho xã hội mới.
Tóm lại, nói đến vai trị chủ đạo là nói đến vai trị của cả hệ thống kinh tế nhà nước,
trong đó các doanh nghiệp nhà nước là bộ phận chính yếu, là phong tiến, công cụ, lực lượng
đi đầu mở đầu cho sự phát triển kinh tế. Việc xác định vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế
nhà nước và vai trò của hệ thống doanh nghiệp nhà nước theo nội dung nêu trên sẽ giúp
chúng ta định hướng đúng việc sắp xếp lại các tổ chức kinh tế nhà nước hiện có, để ra cơ
chế, chính sách phù hợp, biện pháp quản lý hữu hiệu đối với khu vực kinh tế nhà nước nói
chung và các doanh nghiệp nhà nước nói riêng, đồng thời thiết lập các định chế yểm trợ phát
triển chung.
CHƯƠNG III. NHẬN XÉT VỀ THÀNH PHẦN KINH TẾ NHÀ NƯỚC SAU ĐỔI

MỚI
3.1. Đánh giá chung về thực trạng thành phần kinh tế Nhà nước ở Việt Nam
3.1.1. Thành tựu
Sau đổi mới, thành phần kinh tế Nhà nước ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu
quan trọng, trong đó có những điểm nhấn sau:
Thứ nhất, Tăng trưởng kinh tế ổn định. Sau khi triển khai chính sách đổi mới và mở
cửa thị trường, Việt Nam đã tiếp cận được với nguồn tài nguyên, công nghệ, vốn đầu tư,
khách hàng quốc tế. Điều này đã giúp nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh chóng và đạt
tốc độ tăng trưởng trung bình 6-7% hàng năm trong suốt thập kỷ qua. Đặc biệt, các năm gần
đây, Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng ấn tượng, ví dụ như năm 2020, trong bối cảnh dịch
COVID-19, tăng trưởng GDP Việt Nam vẫn đạt 2,91%, mức tăng trưởng cao nhất trong khu
vực Đông Nam Á.
Thứ hai, Nâng cao năng suất lao động. Thành phần kinh tế Nhà nước đã đóng góp vào
việc nâng cao năng suất lao động thông qua đầu tư vào các ngành công nghiệp, nâng cao
chất lượng và hiệu quả sản xuất. Điều này đã giúp cải thiện mức sống của người dân Việt
Nam.

12


- Đưa Việt Nam trở thành quốc gia xuất khẩu chủ lực: Khiến cho Việt Nam trở thành một
quốc gia xuất khẩu chủ lực với nhiều mặt hàng như gỗ, gạo, thủy sản, quần áo, giày dép,
điện tử, và linh kiện điện tử.
Thứ ba, Cải thiện hạ tầng kinh tế. Thành phần kinh tế Nhà nước đã đầu tư vào phát triển
hạ tầng kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh vực giao thông vận tải. Điều này đã giúp tăng cường
liên kết kinh tế giữa các khu vực, tăng cường quan hệ kinh tế quốc tế và thu hút đầu tư nước
ngồi.
Thứ tư, Giảm đói nghèo và nâng cao mức sống của người dân. Thành phần kinh tế Nhà
nước đã đóng góp quan trọng vào việc giảm đói nghèo và nâng cao mức sống của người dân
Việt Nam. Thành tựu đáng kể nhất là mức giảm đói nghèo từ khoảng 60% dân số năm 1993

xuống còn khoảng 5% dân số năm 2019.
Thứ sáu, Tăng cường quan hệ kinh tế quốc tế. Việt Nam đã tham gia nhiều hiệp định
thương mại quan trọng, đặc biệt là Hiệp định TPP (Trans-Pacific Partnership) và Hiệp định
EVFTA (European Union-Vietnam)
Thứ bảy, Gia tăng sức mạnh cạnh tranh của nền kinh tế. Thành tựu này được thể hiện
thông qua sự tham gia của Việt Nam vào các hiệp định thương mại tự do và tham gia vào
các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO vào năm 2007.
Việc gia nhập WTO đã giúp cho Việt Nam có cơ hội tham gia vào thị trường toàn cầu, đồng
thời tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc xuất khẩu hàng
hóa, dịch vụ.
Thứ tám, Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Chính phủ Việt Nam đã đầu tư nhiều vào cơ
sở hạ tầng, bao gồm các tuyến đường bộ, đường sắt, cảng biển, sân bay, điện lực và viễn
thông, để giúp cho nền kinh tế phát triển và cải thiện điều kiện sống của người dân. Việc đầu
tư phát triển cơ sở hạ tầng giúp cho các khu vực kinh tế phát triển.
Thứ chín, Thu hút đầu tư nước ngoài. Việt Nam đã thu hút được nhiều vốn đầu tư nước
ngoài và xây dựng mối quan hệ kinh tế đối ngoại tốt với nhiều quốc gia trên thế giới.
Thứ mười, Cải cách thị trường. Chính sách cải cách thị trường của Việt Nam đã giúp
thu hút đầu tư nước ngoài và mở cửa thị trường trong nước. Nhiều lĩnh vực từ trước đây bị
giới hạn bởi sự can thiệp của nhà nước đã được phát triển và tự do hóa, đặc biệt trong lĩnh
vực kinh doanh, sản xuất và thương mại. Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định thương mại tự
13


do với các nước khác, như làm việc để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong
nước và nước ngoài.
Thứ mười một, Tăng trưởng ngành du lịch. Du lịch là một ngành kinh tế đang phát triển
mạnh mẽ ở Việt Nam. Việt Nam có nhiều địa điểm du lịch hấp dẫn, như Hạ Long, Sapa,
Huế, Hội An, Phú Quốc, Đà Nẵng, Nha Trang, ... và số lượng khách du lịch đến Việt Nam
đang tăng mạnh hàng năm. Điều này đã đóng góp rất lớn vào tăng trưởng kinh tế của Việt
Nam, cũng như giúp nâng cao đời sống người dân trong ngành du lịch.

Thứ mười hai, Đầu tư vào giáo dục và y tế. Chính phủ Việt Nam đã tăng đầu tư cho
giáo dục và y tế, giúp nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Việt Nam đã đạt được
nhiều thành tựu trong việc cải thiện chất lượng giáo dục và sức khỏe của người dân, đặc biệt
là trong các khu vực nông thôn và miền núi.
Tóm lại, những thành tựu của đổi mới kinh tế đã đưa Việt Nam từ một nền kinh tế khó
khăn và phát triển chậm trở thành một nước có tốc độ tăng trưởng ổn định, đóng góp vào sự
phát triển kinh tế toàn cầu và nâng cao chất lượng đời sống của người dân. Tuy nhiên, còn
nhiều thách thức và vấn đề cần được giải quyết để đưa kinh tế Việt Nam phát triển bền vững
trong tương lai.
3.1.2. Hạn chế
Tuy nhiên, so với nhiệm vụ mà khu vực kinh tế nhà nước phải gánh vác thì hiện tại ở
khu vực kinh tế này vẫn còn nhiều bất cập và yếu kém.
Thứ nhất, Năng lực cạnh tranh, hiệu quả chung của kinh tế nhà nước chưa cao và gần
đây lại có xu hướng giảm đi.
Tình trạng khơng hiệu quả của số lượng lớn doanh nghiệp nhà nước đã làm một mặt thất
thoát mất vốn nhà nước, mặt khác tạo ra ấn không tốt đẹp về khu vực này.
Thứ hai, cơ cấu kinh tế nhà nước còn bất hợp lý, chưa thể hiện rõ là hạt nhân của q
trình cơng nghiệp hố, hiện đại hoá.
Mặc dù khu vực kinh tế nhà nước và hệ thống doanh nghiệp nhà nước được giao đảm
đương vai trị vơ cùng quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
của chúng ta, nhưng trên thực tế, cho đến nay cơ cấu kinh tế nhà nước, cơ chế vận hành nền
kinh tế, vấn đề thể chế hoá sở hữu nhà nước như thế nào để nó đem lại hiệu quả hơn sẵn các
thành phần kinh tế khác vẫn còn nhiều vấn đề chưa rõ, phạm vi hoạt động của kinh tế nhà
14


nước như thế nào vẫn gây tranh luận, việc xác định vai trị vĩ mơ của khâu kinh tế nhà nước
và các doanh nghiệp nhà nước chưa rõ ràng và chưa đủ sức thuyết phục, vẫn có sự đồng bộ
giữa hai khái niệm này. Chính điều đó chẳng những làm cho quá trình đổi mới hệ thống
doanh nghiệp nhà nước rất lúng túng và chậm chạp mà còn chưa phát huy đầy đủ vai trò của

doanh nghiệp nhà nước với tư cách là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô.
Do vẫn chưa xác định được cụ thể những lĩnh vực quan trọng, mũi nhọn mà các doanh
nghiệp nhà nước cần nắm giữ, và ở những lĩnh vực nào doanh nghiệp nhà nước phải đi
trước, thực hiện trước những việc xã hội đang cần để sau đó chuyển giao dân cho khu vực
ngoài quốc doanh nên các doanh nghiệp nhà nước phân bố dàn trải, không chỉ ở các ngành
công ích, như điện nước. bi chính viễn thơng... mà cịn ở tất cả lĩnh vực kinh doanh khác
(thậm chí ở cả những ngành nhỏ lẻ, công nghệ lạc hậu như tiểu thủ cơng nghiệp. Việc xây
dựng các xí nghiệp trùng lập, không hợp lý kéo dài lâu này làm cho cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp nhà nước với nhau trở nên gay gắt, gây tổn hại cho nền kinh tế nhà nước.
Công nghệ trong khu vực kinh tế nhà nước đa phần lạc hậu, tốc độ đổi mới rất chậm. Tình
trạng thiếu vốn; trình độ tổ chức, quản lý yếu kém, chưa quen với hoạt động kinh tế theo
kiểu mới phổ biến trong các doanh nghiệp nhà nước.
Vì kinh tế nhà nước luôn gắn chặt với các nhiệm vụ, mục tiêu, chiến lược mà Nhà nước
để ra, để đảm bảo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế nhà nước hoạt động có hiệu quả, các
kế hoạch, chương trình, chiến lược kinh tế phải được hoạch định trên cơ sở khoa học, có
mức độ chính xác cao đi đối với hệ thống chính sách điều tiết linh hoạt. Nếu khơng nâng cao
được chất lượng của các tác động này thì ưu thế có kế hoạch của kinh tế nhà nước sẽ không
được phát huy. Tuy nhiên, công tác hoạch định kế hoạch và chính sách cả ở cấp vĩ mơ và vi
mô trong điều kiện kinh tế thị trường rất khác với thời bao cấp trước kia. Để làm tốt cơng
việc của mình trong điều kiện mới, các cán bộ quản lý phải được trang bị một cách cơ bản
những tri thức về kinh tế thị trường và năng lực thực sự. Cán bộ quản lý kinh tế phải được
vận dụng chuyển sâu, có thời gian tích luỹ kinh nghiệm cần thiết. Ngồi ra phải có các cơ sở
vật chất và kỹ thuật cần thiết cho hoạt động của họ, đặc biệt là hệ thống đảm bảo thông tin
và chế độ kế tốn thống kê chuẩn mực, có tính khoa học.
Cần chú ý thêm yêu cầu về phẩm chất của cán bộ quản lý trong khu vực kinh tế nhà
nước. Một mặt, đòi hỏi cán bộ ở đây phải là những người trung thành với lợi ích nhà nước,
15


do đó, phải có cơ chế bồi dưỡng, đào tạo, bổ nhiệm thích hợp. Mặt khác, những cán bộ này

lại là những người có quyền lực, ln là tiêu điểm tấn công của các thế lực kinh tế không
lành mạnh. Do vậy, ngoài trang bị tinh thần, đạo đức, ý chí cũng cần một chế độ đãi ngộ
xứng đáng để họ toàn tâm toàn ý lo cho sự nghiệp chung.
Thứ ba, tình trạng khá biệt lập của khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế dân
doanh. Đến nay, vẫn chủ yếu tôn vinh, ưu ái cho khu vực kinh tế nhà nước và doanh nghiệp
nhà nước nói riêng. Hơn nữa, cịn tình trạng độc quyền và đặc quyền trong một số doanh
nghiệp nhà nước, trong đó có cả kinh tế của Đảng và lực lượng vũ trang. Khu vực kinh tế
nhà nước vẫn còn được hưởng nhiều ưu đãi, như chưa tính đủ các yếu tố đầu vào trong giá,
tín dụng đầu tư vẫn phân biệt doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp dân doanh (doanh
nghiệp nhà nước được hưởng một tỷ trong tiết kiệm quốc dân không cần xứng theo tỷ lệ, đặc
biệt là lượng tiết kiệm được phân bổ thông qua hữu nhà nước trong nền kinh tế quốc dân,
ngăn cản quá trình hình thành sự bình đẳng trong nền kinh tế nhiều thành phần và đóng góp
của các thành phần hệ thống tài chính chính thức khoảng 80% nợ tín dụng ngân hàng). Đây
cũng là một trong những nguyên nhân làm yếu đi sức mạnh và vai trò của sở kinh tế vào sự
phát triển chung của đất nước,...
Việc bảo hộ các doanh nghiệp nhà nước, nhất là các doanh nghiệp kém hiệu quả sẽ dẫn
đến sự phân bổ nguồn lực sai và lãng phí. Trong điều kiện nguồn lực (trong đó có nguồn lực
tài chính) ở Việt Nam cịn hạn chế, việc bảo hộ các ngành sản xuất công nghiệp kém hiệu
quả sẽ tác động xấu, trước hết đến sản xuất nông nghiệp và đời sống nông dân (ở đất nước
với gần 80% dân số là nơng dân thì tác động này là vơ cùng lớn). Chính sách bảo hộ khơng
chỉ tác động tiêu cực đến hiệu quả kinh tế của sản xuất trong nước mà cịn đưa ra những tín
hiệu sai lệch đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Đầu tư nước ngoài trong những năm gần
đây thiên về các ngành sản xuất hay thế nhập khẩu, liên doanh thì chủ yếu với các doanh
nghiệp nhà nước (lĩnh vực chế tác hàng mậuđ ịch chiếm dưới 30% tổng FDI). Các nhà đầu
tư nước ngồi đã đổ xơ tìm kiếm siêu lợi nhuận ở những ngành được bảo hộ cao này, góp
phần vào tình trạng dư cung, ứ đọng sản phẩm, thiếu phát. Ví dụ điển hình là cơng nghiệp ơ
tơ. Điều quan trọng nữa là, một số nhà đầu tư nước người đã lợi dụng những ưu đãi trong
chính sách đầu tư và bảo hộ này để thu về nước những lợi nhuận siêu ngạch từ một nước còn
rất nghèo như Việt Nam.
16



Thứ tư, trong quản lý khu vực kinh tế nhà nước, sự trở lại cơ chế cũ ngày càng rõ. Nhà
nước chia thúc đẩy sự phát triển đồng bỏ các loại thị trường, chưa điều tiết thị trường và
hướng dẫn doanh nghiệp với cơng cụ kinh tế là chính. Những năm gần đây, cùng với sự tập
trung nguồn tài chính trong tay Nhà nước khôi phục cơ chế “xin - cho với vốn ngân sách và
tận dụng. Từ đó kéo theo bất công trong phân phối và nạn tham nhũng càng lỏng hành. Cơ
chế giao cấp bất động sản của Nhà nước chậm chấp nhận quan hệ thị trương đã gây tổn thất
lớn, tham nhũng lớn và chặn đường ải ra đời của thị trường vốn. Cùng với cơ chế xin cho tài
chính, cơ chế xử lý tổ chức, cán bộ kinh doanh trên xếp đặt đánh giá, xét xử. Nhìn chung,
trong khu vực kinh tế nhà nước chưa có thị trường lao động, càng chưa có thị trường giám
đốc, chưa 16-17 có giám đốc nhà ngành và hành nghề theo hợp đồng làm thuê.
Chế độ Bộ và cấp hành chính chủ quản đối với doanh nghiệp nhà nước là thiết chế của
mơ hình kinh tế giao nộp cấp phát hiện vật với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp trước đây.
Tuy vậy, cho đến nay một doanh nghiệp nhà nước vẫn có một cơ quan nhà nước chủ quản,
đóng thời cịn chịu sự quản lý từng mặt của các cơ quan kế hoạch, tài chính, ngân hàng nhà
nước và chính quyền nơi cư trú... Chưa bao giờ chỉ một cấp trên chủ quân quyết định mọi
việc vẻ quan hệ giữa Nhà nước với doanh nghiệp nhà nước. Song cấp trên chủ quản vẫn nắm
quyền và có trách nhiệm chính trong đó nổi lên quyền sắp xếp cán bộ, quyền dành cho
doanh nghiệp những ưu đãi về vật chất, tài chính và kinh tế; và hầu như là người có lợi,
"cùng có lợi" với doanh nghiệp nhà nước. Đó là lý do khiến không chỉ Bộ, Sở và Ban hành
chính muốn có xí nghiệp nhà nước cũng cần có cấp trên chủ quản. Doanh nghiệp nhà nước
cho đến nay nói chung vẫn được Nhà nước, trước hết là cấp chủ quản bảo lãnh, chưa theo
chế đồ trách nhiệm hữu hạn. Vậy có thể nói, chế độ Bố và cấp hành chính chủ quản là một di
sản của cơ chế cũ trong tình huống mới, trong đó mọi doanh nghiệp nhà nước đều phải lo
quan hệ tốt với các cấp trên; và nạn chạy vạy lo lót cơ quan và viên chức cấp trên, trước hết
là cấp trên chủ quản, đã thành việc làm bình thường mà hầu như mọi giám đốc buộc phải
làm. Hơn nữa, từ nhiều năm, nhà nước đã cho phép giám đốc có quý, trong đó có phần được
dùng để thù lao cho người có cơng giúp đỡ đã trở thành thể chế. Từ đó, cùng với sự phát
triển lớn mạnh khá nhanh của doanh nghiệp nhà nước, nạn quan liêu tham nhũng trong khu

vực kinh tế và bộ máy quản lý nhà nước cũng phát triển trở thành quốc nạn. Mặt khác, chính
do sự bảo lãnh nói trên mà hiện tượng doanh nghiệp nhà nước kinh doanh chủ yếu bằng vốn
17


đi vay vượt xa các định mức, nhiều doanh nghiệp nhà nước đã mất khả năng thanh toán, đến
mức sụp đổ, nhưng vẫn được cứu, vì hầu như chưa thi hành Luật Phá sản.
Ngồi ra ta cịn thấy có sự phân định không rõ ràng giữa quyền lợi và nghĩa vụ của đội
ngũ cán bộ quản lý khu vực kinh tế nhà nước đối với việc bảo toàn và phát triển vốn Nhà
nước giao; tình trạng khơng rạch rịi giữa quyền quản lý nhà nước, quyền quản lý sản xuất,
kinh doanh với quyền chủ sở hữu tài sản trong các doanh nghiệp nhà nước (đại diện chủ sở
hữu tài sản nhà nước. tại doanh nghiệp là ai, cho đến nay vẫn khơng rõ): tình trạng quản lý
theo kiểu hiện vật đến từng thiết bị nhà xưởng, nhất nhất phải xin phép của cơ quan chức
năng đối với tài sản của doanh nghiệp nhà nước; tình trạng “xin cho tràn lan; tình trạng
thiếu, khơng chặt chẽ, khơng đồng bộ, khơng nhất qn, khơng ổn định của pháp luật và các
chính sách kinh tế làm giảm hiệu quả sử dung nguồn vốn hạn hẹp của Nhà nước và là
nguyên nhân trực tiếp gây nên những bất ổn trong hệ thống ngân hàng nhà nước.....
Thứ năm, hệ thống ngân hàng, tài chính lĩnh vực hệ trong nhất của kinh tế nhà nước
còn lạc hậu xa so với yêu cầu đổi mới cũng như số với các nước trong khu vực và đang tiềm
ẩn nhiều thách thức.
Hệ thống ngân hàng, tài chính của Việt Nam, tuy đã có sự thay đổi mới nhanh về hình
thức theo hướng thị trường, nhưng thành tích chống lạm phát do tổng thể cuộc đối mới đem
lại đã che giấu những yếu kém. Cùng với tình hình đó, bỏ máy quản lý nhà nước về kinh tế
chưa có sự đổi mới, cải cách nào đáng kể; phương pháp quản lý của các cơ quan quản lý
kinh tế vẫn còn thiên về kiểm soát và chi phối chặt hơn là ni dưỡng và tạo điều kiện cho
doanh nghiệp; thậm chí cịn chưa tìm được cách khởi động cuộc cải cách hành chính. Các
chính sách nhiều khi khơng nhất qn, đặc biệt cịn thiếu chính sách tài chính dài hạn.
Khi hệ thống tài chính, ngân hàng cịn nắm quyền định đoạt và đánh giá tài sản công,
quyền thu và cấp vốn; khi bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế còn nắm quá nhiều quyền cho
phép, xét duyệt thu phát xét xử... thì doanh nghiệp nhà nước khơng thể tự chủ (tự quyết và tự

chịu trách nhiệm). Và đương nhiên, doanh nghiệp nhà nước nói riêng, khu vực kinh tế nhà
nước nói chung phải hoạt động trong vịng tay tài chính, ngân hàng và bộ máy nhà nước. Từ
đó tạo thành “liên minh, có thể tốt cho quốc gia, đồng thời cũng là mối trường thuận lợi cho
việc ăn chia của công trong việc liên minh giữa người cho phép, thu phát, đánh giá, xét xử

18


và thừa hành. Và cũng chính thức tế này đã cản trở quá trình đổi mới kinh tế nhà nước ở
Việt Nam hiện nay.
Bên cạnh đó, chúng ta gặp một khó khăn rất lớn, đó là sự kém phát triển của chính hệ
thống an sinh xã hội, sự kém phát triển ngay từ trong cơ chế chính sách. Hệ quả của cơ chế
chính sách hiện hành là nguồn lực bên trong bị kìm hãm và lãng phí, trước hết trong khu vực
cơng; các loại hình doanh nghiệp đều yếu kém, tham nhũng, hối lộ lộng hành với sự móc nối
giữa quan chức nhà nước, giám đốc doanh nghiệp và ngân hàng nhà nước. Như vậy, hiện
nay xoá bỏ cơ chế cũ về quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp, trong đó, sự đổi mới
hệ thống kế hoạch hố, tài chính Nhà nước và ngân hàng nhà nước là rất quan trọng.
Tóm lại, khu vực kinh tế nhà nước cùng với bộ máy quản lý nhà nước. về kinh tế đang
là nơi khu trùngx cái còn lại của cơ chế cả. Trong điều kiện thị trường sơ khai, sự tồn tại cơ
chế cũ như vậy sẽ làm tăng tham nhũng đến độ nguy hiểm. Lưu ý rằng, hiện nay khu vực
kinh tế nhà nước và bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế đã mượn hình thức thị trường để
làm thay thị trường chứ chưa thúc đẩy hình thành các loại thị trường và chức năng, cơ chế
khách quan vốn có của nó để từ đó Nhà nước tác động theo cách mới, thật sự tổng bước trở
thành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Cho đến nay, đổi với doanh nghiệp nhà
nước, việc đánh giá tài sản, cấp phát và thu hồi vốn, đánh giá và điều đồng quản trị và giám
đốc, đăng ký và soi số, cơ bản vẫn thuộc quyền công chức. Thị trường, cơ bản chưa được tạo
lập đủ để làm chức năng đánh giá, định giá, kích thích, huy động, cân đối, điều tiết như vốn
của nó. Tính kém hiệu quả đó làm cho khu vực kinh tế nhà nước chưa thực sự đóng vai trị
chủ đạo, chưa có sức dẫn dắt các thành phần kinh tế khác phát triển theo mục tiêu của Đảng
và nhà nước.

Đổi mới và phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước là khâu khó khăn, phức tạp nhất
trong sự nghiệp đổi mới kinh tế, là một thử thách lớn đối với chúng ta. Hiện nay, nhiệm vụ
thúc đẩy cuộc đổi mới đã trở nên bức xúc như một thách thức mất còn với Nhà nước: hoặc
sớm tạo được sự nhất quán về chính sách và cơ chế theo quan điểm mới, thúc đẩy cuộc đổi
mới mở đường tạo lập hệ thống thị trường với đội quân các loại hình doanh nghiệp hoạt
động ngày càng lành mạnh, đồng hành với một Nhà nước ngày càng vững mạnh. Ngược lại,
tiếp tục giành đặc quyền đặc lợi cho khu vực kinh tế nhà nước, tiếp tục sa lấy vào cơ chế tập
trung quan liêu, tham nhũng, kìm hãm các nguồn lực ngồi Nhà nước, tạo thành trạng thái
19


thị trường từ phát, ngắm và rối loạn. Tất cả các nguy cơ đều nằm trong khu vực Nhà nước;
mọi chìa khoa mở lối ra cũng trong tay Nhà nước: sự nhất quán và phù hợp về chính sách và
cơ chế hay ngược lại; việc có hay khơng có khả năng làm lành mạnh khu vực kinh tế nhà
nước và hệ thống lãnh đạo quản lý, đẩy lùi quan liêu, tham nhũng; từ đó lấy lại lịng tin và
sự đồng thuận đổi mới trong tồn dân....
Như vậy, nếu khơng giải quyết thoả đáng các vấn đề nêu trên đối với khu vực kinh tế
nhà nước thì chẳng những nó khơng thể đảm đương được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
thị trường định hưởng xã hội chủ nghĩa mà còn là trở ngại lớn trong việc thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, chủ động hội nhập quốc tế
và khu vực.
3.1.3. Nguyên nhân
Thực trạng thành phần kinh tế Nhà nước ở Việt Nam hiện nay được ảnh hưởng bởi
nhiều nguyên nhân. Dưới đây là một số nguyên nhân chính:
Thứ nhất, Di sản lịch sử. Việt Nam từng có chế độ kinh tế trung ương và thực hiện chủ
nghĩa xã hội trong nhiều năm. Khi đổi mới kinh tế từ năm 1986, Việt Nam chuyển sang mơ
hình kinh tế thị trường, nhưng vẫn giữ lại một số ngành kinh tế quan trọng trong tay Nhà
nước.
⮚ Chi phí sản xuất cao: Các sản phẩm di sản lịch sử thường được sản xuất theo phương
pháp thủ cơng truyền thống, địi hỏi nhiều thời gian và cơng sức, làm tăng chi phí sản

xuất. Do đó, sản phẩm này thường có giá thành cao, khơng cạnh tranh được với các
sản phẩm công nghiệp.
⮚ Sự thay đổi và phát triển kinh tế: Sự thay đổi và phát triển kinh tế đơi khi có thể gây
ra sự mất mát và hư hại đối với di sản lịch sử. Các dự án xây dựng và phát triển kinh
tế mới có thể gây ra sự phá hủy và giảm giá trị của các tài sản văn hóa, lịch sử và
nghệ thuật.
Thứ hai, Bảo đảm quyền lợi quốc gia. Các ngành kinh tế lớn như dầu khí, điện, viễn
thơng, hàng khơng, đường sắt, đường bộ, nước sạch và vệ sinh môi trường, vẫn được Nhà
nước nắm giữ và đóng góp lớn vào ngân sách Nhà nước. Việc giữ lại những ngành kinh tế
này cho Nhà nước sẽ giúp đảm bảo sự ổn định của ngành và giữ vững quyền lợi quốc gia.
20



×