Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM ĐÓ TRONG CÔNG CUÔC ĐỔI MỚI HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.69 KB, 30 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI
HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP HCM KHOA
LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

✡



MƠN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN
TỘC VÀ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM ĐĨ TRONG
CƠNG CC ĐỔI MỚI HIỆN NAY


ĐIỂM SỐ
TIÊU CHÍ

NỘI DUNG

BỐ CỤC

TRÌNH BÀY

TỔNG

ĐIỂM

NHẬN XÉT


…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………

Ký tên


BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ
THỨ TỰ

NHIỆM VỤ

THỰC HIỆN

KẾT QUẢ


KÝ TÊN


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU.............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài..................................................................................................... 1
2. Mục đích nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.................................................................... 2
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài.................................................. 2
1.1. Cơ sở lý luận..................................................................................................... 2
1.2. Phương pháp nghiên cứu................................................................................ 2
4. Kết cấu đề tài........................................................................................................... 3
CHƯƠNG 1:NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
VẤN ĐỀ DÂN TỘC......................................................................................................... 4
1. Chủ nghĩa Mac -Lê Nin - nguồn gốc lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề dân tộc........................................................................................... 4
2.

Hoạt động thực tiễn – cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
dân tộc..................................................................................................................... 6

CHƯƠNG 2: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC...........................8
1. Vấn đề dân tộc thuộc địa........................................................................................ 8
1.1. Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa......................................................... 8
1.2. Độc lập dân tộc – nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa................10
1.3. Chủ nghĩa dân tộc – Một động lực lớn của đất nước..................................11
2 Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp.......................................... 12
2.1. Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ với nhau...............12
2.2. Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội 12

2.3. Giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp................................. 12
2.4. Giữ vững độc lập của dân tộc mình, đồng thời tôn trọng độc lập của
các dân tộc khác

14

CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM ĐĨ TRONG CƠNG CUỘC ĐỔI..............15


1.

Quan điểm vận dụng của Đảng ta về vấn đề dân tộc trong công cuộc đổi
mới đất nước........................................................................................................... 15
1.1. Khơi dậy sức mạnh chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn
động lực mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc 15
1.2. Chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, giải quyết tốt mối quan hệ
giữa các dân tộc anh em trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam 15
1.3. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh nhận thức và giải quyết vấn đề dân
tộc trên quan điểm giai cấp

16

2. Những thành tựu đạt và hạn chế của Đảng khi vận dụng những quan điểm
đó trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay..................................................... 18
2.1. Thành tựu của Đảng khi vận dụng những quan điểm đó trong cơng
cuộc đổi mới đất nước hiện nay 19
2.2.
Những hạn chế của Đảng khi vận dụng những quan điểm đó trong
cơng cuộc đổi mới đất nước hiện nay................................................................ 22
KẾT LUẬN...................................................................................................................... 24

TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................... 25


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong tất cả các quan hệ xã hội phong phú và phức tạp giữa người với người,
quan hệ giai cấp và quan hệ dân tộc có tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến sự định
hướng cuộc sống của mỗi con người ở thời đại hiện nay. Ở mọi dân tộc, quốc gia trên
thế giới, nhất là những dân tộc, quốc gia đã từng bị chủ nghĩa đế quốc, thực dân xâm
lược, áp bức trên cơ sở duy trì chế độ bóc lột ở bên trong, ý thức giải phóng dân tộc
của nhân dân là động lực to lớn và khi nó kết hợp với ý thức giải phóng giai cấp của
những người lao động nó trở thành nhân tố quyết định đối với sự phát triển và tiến bộ
của đất nước. Vấn đề dân tộc và giai cấp được coi là cơ sở quan trọng nhất trong hoạch
định và thực hiện chiến lược phát triển ở mỗi dân tộc và mỗi quốc gia.
Thế giới ngày nay đang có những biến đổi nhanh chóng và phức tạp, tác động
mạnh mẽ đến xu hướng phát triển của nhân loại và con đường phát triển của mỗi quốc
gia dân tộc. Những biến đổi đó đã làm cho mối quan hệ giữa các dân tộc lại càng phức
tạp. Đây cũng là vấn đề thời sự cấp bách, đòi hỏi phải được nhận thức và giải quyết
đúng đắn trong cuộc đấu tranh tư tưởng hiện nay.
Hiện nay, nước ta đang tiếp tục công cuộc đổi mới, thực hiện cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng quan hệ quốc tế, hội nhập với
khu vực với thế giới. Sự nghiệp đổi mới đòi hỏi phải huy động sức mạnh to lớn của
khối đại đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Trong bối cảnh quốc tế
có những diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch đang thực hiện chiến lược “diễn biến
hịa bình” chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, nhằm phủ nhận vai trị
lãnh đạo của giai cấp cơng nhân, phủ nhận chủ nghĩa xã hội, gây chia rẽ, mất đoàn kết
giữa các dân tộc. Đối với chúng ta, hai nhiệm vụ chiến lược hiện nay phải được giải
quyết đầy đủ và đúng đắn đó là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ độc lập chủ quyền dân tộc gắn liền với việc xây dựng thành cơng
chủ nghĩa xã hội. Đó cũng chính là giải quyết tốt mối quan hệ dân tộc với giai cấp, dân

tộc Việt Nam với cộng đồng thế giới đang đặt ra hiện nay. Vì vậy nghiên cứu tư tưởng
Hồ Chí minh về vấn đề dân tộc có ý nghĩa hết sức to lớn cả về lý luận và thực tiễn
trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
1


2. Mục đích nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích
Đề tài làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc qua đó thấy được sự
vận dụng tư tưởng đó trong cơng cuộc đổi mới hiện nay.
Nhiệm vụ
Để đạt được những mục đích nêu trên, tiểu luận cần thực hiện một số nhiệm vụ
cụ thể như sau:
- Trình bày nguồn gốc lý luận và thực tiễn hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
vấn đề dân tộc.
- Trình bày và phân tích nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc.
- Rút ra những kinh nghiệm từ thực tiễn lãnh đạo thực hiện vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc trong công cuộc đổi mới hiện nay.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
1.1. Cơ sở lý luận
Tiểu luận được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin kết hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc kết hợp với vấn đề đất
nước, chủ trương lãnh đạo của Nhà nước.
1.2. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận đã áp dụng hai phương pháp nghiên cứu chính đó là phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa MácLênin và các nguyên tắc phương pháp luận của Hồ Chí Minh như : tính Đảng, tính
khoa học, lý luận gắn liền với thực tiễn, quan điểm lịch sử cụ thể, tính tồn diện, tính
kế thừa và phát triển.
Phương pháp cụ thể: vận dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic,
phương pháp phân tích – tổng hợp lý thuyết, phương pháp đối chiếu, bên cạnh đó

nhóm chúng em cịn sử dụng phương pháp phân tích – tổng kết kinh nghiệm đối với
việc nghiên cứu thực tiễn và ứng dụng.
2


4. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài kết cấu 3
chương :
Chương 1: Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
Chương 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
Chương 3: Vận dụng những quan điểm đó trong cơng cuộc đổi mới hiện nay.

3


CHƯƠNG 1:NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
1. Chủ nghĩa Mac -Lê Nin - nguồn gốc lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề dân tộc
Dân tộc là một vấn đề rộng lớn được C.Mác và Ph.Ăngghen đặc biệt chú ý
trong q trình xây dựng học thuyết của mình. Hai ơng đã nêu ra các quan điểm cơ bản
có tính chất phương pháp luận để nhận thức và giải quyết những vấn đề về nguồn gốc,
bản chất của vấn đề dân tộc, những quan hệ cơ bản của dân tộc. Một trong những mục
đích nghiên cứu vấn đề dân tộc của các ông là trả lời câu hỏi: Giai cấp công nhân có
thái độ như thế nào đối với dân tộc? Xử lý như thế nào trong mối quan hệ dân tộc với
giai cấp? Như thế các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã xem xét vấn đề dân tộc trong mối
liên hệ chặt chẽ với triển vọng của cách mạng vô sản ở Châu Âu.[1,tr6]
C. Mác và Ph.Ăngghen cũng đã đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò độc lập dân tộc
trong cuộc đấu tranh giai cấp. C. Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh rằng, quá trình ra
đời và thay đổi của các hình thức cộng đồng người trong lịch sử, xét cho đến cùng đều

có nhân tố kinh tế. Mỗi hình thức cộng đồng người nói chung đều tương ứng với một
phương thức sản xuất nhất định. Trong Hệ tư tưởng Đức C. Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ
rõ: “Không phải chỉ riêng những quan hệ dân tộc này với dân tộc khác mà toàn bộ kết
cấu bên trong của bản thân dân tộc đó đều phụ thuộc vào trình độ phát triển của sản
xuất và sự giao tiếp bên trong và bên ngoài dân tộc ấy”[2,tr30]. Khi nghiên cứu về sự
hình thành dân tộc tư sản, C. Mác và Ph.Ăngghen đã đi đến kết luận: “Dân tộc là một
sản vật và hình thức tất nhiên của thời đại tư sản trong quá trình phát triển xã
hội”[3,tr44].
Kế thừa tư tưởng của C. Mác và Ph.Ăngghen, khi nghiên cứu về dân tộc V.I
Lênin làm rõ thêm nội dung khái niệm dân tộc và sự hình thành dân tộc, nó trở thành
một hệ thống lý luận toàn diện, sâu sắc về vấn đề dân tộc, làm cơ sở cho cương lĩnh,
đường lối, chính sách của các Đảng cộng sản kiểu mới về vấn đề dân tộc.
Theo quan điểm của V.I Lênin, dân tộc là sản phẩm của quá trình phát triển lâu
dài của lịch sử. Trước dân tộc là những hình thức cộng đồng tiền dân tộc như thị tộc,
4


bộ tộc, bộ lạc. V.I. Lênin đấu tranh kiên quyết chống lại các biến tướng của chủ nghĩa
duy tâm, xem dân tộc dường như phát sinh từ mảnh đất trống rỗng, khơng phải là kết
quả của q trình phát triển liên tục của lực lượng sản xuất, của sự phát triển các hình
thức tộc người. V.I. Lênin cũng đã nêu ra cương lĩnh về quyền bình đẳng, quyền tự
quyết dân tộc và đấu tranh khơng mệt mỏi cho quyền bình đẳng và quyền tự quyết đó
trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn..
Khi bàn về sự phát triển của vấn đề dân tộc, V.I. Lênin đã đề cập hai. hướng
phát triển của vấn đề dân tộc trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản:
.Xu hướng thứ nhất, ở những quốc gia, khu vực tư bản chủ nghĩa gồm nhiều
cộng đồng dân cư có nguồn gốc tộc người làm ăn, sinh sống. Đến một thời kỳ nào đó,
sự trưởng thành của ý thức dân tộc, sự thức tỉnh đầy đủ về quyền sống của mình mà
các cộng đồng dân cư đó muốn tách khỏi nhau để thành lập các dân tộc độc lập. Bởi vì
họ hiểu rằng, chỉ trong cộng đồng dân tộc độc lập họ mới có quyền quyết định vận

mệnh của mình mà cao nhất là quyền tự do lựa chọn chế độ chính trị và con đường
phát triển của dân tộc mình.
Xu hướng thứ hai, các dân tộc trong từng quốc gia, thậm chí các dân tộc ở nhiều
quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất, của
khoa học và công nghệ, của giao lưu kinh tế và văn hóa trong xã hội tư bản đã làm
xuất hiện nhu cầu xóa bỏ hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc, thúc đẩy các dân tộc
xích lại gần nhau
Xu hướng thứ nhất chiếm ưu thế trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản mới phát triển,
còn xu hướng thứ hai là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản già cỗi sắp chuyển sang xã hội
xã hội chủ nghĩa; Cả hai xu hướng đều phát triển trong điều kiện đối kháng giai cấp
gay gắt. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa dân tộc tư sản không thể giải quyết
được vấn đề dân tộc mà chỉ làm cho mối xung đột dân tộc ngày càng tăng lên. Chỉ có
cách mạng vô sản và chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở thủ tiêu ách áp bức giai cấp và áp
bức dân tộc, mới tạo điều kiện để thực hiện sự bình đẳng dân tộc và xây dựng tình hữu
nghị giữa các dân tộc, làm cho các dân tộc ngày càng xích lại gần nhau. Từ đó
5


V.I.Lênin yêu cầu các Đảng Cộng sản phải đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ
nghĩa dân tộc tư sản và chủ nghĩa vô sản, giành thắng lợi cho chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Như vậy dân tộc và sự phát triển của dân tộc không chỉ chịu sự chi phối của quy
luật kinh tế - xã hội mà còn chịu sự chi phối của quy luật phát triển tộc người. Bởi vì,
quy luật kinh tế - xã hội giữ vai trị quyết định nhất, song nếu chưa có sự chín muồi
của nhân tố tộc người thì dân tộc cũng chưa thể xuất hiện. Vì vậy, có thể nói dân tộc là
sự thống nhất biện chứng giữa các nhân tố kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và tộc
người[1,tr7].
2. Hoạt động thực tiễn – cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
dân tộc.
Trong cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh, việc sáng lập Đảng
cộng sản Việt Nam, xác lập đường lối, mục tiêu, chiến lược, sách lược cho cách mạng

Việt Nam là một dấu mốc trong quá trình phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là q
trình nhận thức của Người từ thấp đến cao, từ hành trang tư tưởng trước khi ra đi tìm
đường cứu nước đến nhận thức lý luận để vận dụng vào cách mạng Việt Nam. Trong
hệ thống tư tưởng đó có q trình hình thành quan điểm về dân tộc, mối quan hệ dân
tộc với giai cấp và con đường giải phóng dân tộc.
Trước hết, phải khẳng định là do nội dung tư tưởng chiến lược về vấn đề dân
tộc và vấn đề thuộc địa mà Lênin đã nêu ra. Đó là quyền được độc lập của các dân tộc
thuộc địa; là quyền tự quyết dân tộc nói chung phải bao gồm cả quyền tự quyết của các
dân tộc thuộc địa.Luận cương của Lê nin đã chỉ rõ, những người cách mạng ở các
nước thuộc địa phải đoàn kết chặt chẽ với nhân dân ở các nước chính quốc, khơng để
những tư tưởng quốc gia dân tộc hẹp hòi mê hoặc; còn những người cách mạng ở
chính quốc phải tích cực ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ở các
nước thuộc địa; những nước cách mạng vô sản thành công phải giúp đỡ nhân dân các
nước thuộc địa làm cách mạng và phải coi đây là nhiệm vụ chung của cách mạng vô
sản quốc tế.[1,tr 12]
Với những nội dung cơ bản từ Luận cương của Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm
được lời giải đáp ngắn gọn, sáng tỏ những nội dung chính yếu về vấn đề dân tộc, cách
6


mạng giải phóng dân tộc và những biện pháp cơ bản nhằm đưa sự nghiệp cách mạng
đến thắng lợi. Thông thường, từ sự giác ngộ ý thức giai cấp công nhân mới đi tới giác
ngộ chủ nghĩa Mác – Lênin, nhưng ở Hồ Chí Minh thì điểm xuất phát lại từ thức về
việc giải phóng dân tộc mình. Ngay cả khi đã đi đến chủ nghĩa Mác – Lênin, Người
vẫn coi vấn đề giải phóng dân tộc là vấn đề cấp bách nhất.
Quá trình nhận thức về dân tộc, mối quan hệ giữa dân tộc với giai cấp, về con
đường giải phóng dân tộc trên lập trường vơ sản đã được từng bước thể hiện và ngày
càng hoàn thiện, từ Bản án chế độ thực dân Pháp, Đường Cách mệnh đến Chính cương
vắn tắt, điều lệ vắn tắt…đã thể hiện đầy đủ điều đó. Người xác định, cách mạng giải
phóng dân tộc nhưng phải theo con đường cách mạng vô sản, cách mạng Tháng Mười

Nga.[5,tr 6]
Như vậy, từ tinh thần u nước đã hình thành ở Hồ Chí Minh ý thức giai cấp
của giai cấp vô sản. Từ sự đồng cảm của người dân nô lệ bị chủ nghĩa thực dân áp bức,
bóc lột, ở Hồ Chí Minh đã hình thành tình cảm quốc tế vơ sản. Đó cũng là bước
chuyển biến căn bản trong tình cảm và ý thức của Hồ Chí Minh. Đó cũng là nền tảng
cực kỳ quan trọng để người thanh niên Việt Nam yêu nước Nguyễn Tất Thành tiếp
nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng cách mạng và khoa học nhất của thời đại.

7


CHƯƠNG 2: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
1. Vấn đề dân tộc thuộc địa
1.1. Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa
Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh khơng phải là vấn đề dân tộc nói
chung mà là vấn đề dân tộc thuộc địa. Vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề đấu
tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngồi,
giành độc lập dân tộc, xóa bỏ áp bức, bóc lột thực dân, thực hiện quyền dân tộc tự
quyết, thành lập nhà nước dân tộc độc lập.
Trước khi chủ nghĩa tư bản phương Tây đưa đại bác đến gõ cửa các quốc gia
phương Đơng, thì những quốc gia này vẫn cịn đang chìm nặng trong bóng tối của chế
độ phong kiến ở giai đoạn suy vong, với cấu trúc xã hội gồm hai giai cấp: Địa chủ
phong kiến và nông dân. Dưới tác động của những chương trình khai thác thuộc địa,
các giai cấp này ở Việt Nam ít nhiều có sự biến đổi, những giai cấp mới lần lượt ra
đời: Công nhân, tư sản, tiểu tư sản. Tất cả các giai cấp đó đều nằm dưới ách thống trị
của chủ nghĩa tư bản thực dân.
Hồ Chí Minh chỉ rõ sự đối kháng giữa các dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa đế
quốc thực dân là mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc địa và là một mâu thuẫn không điều hịa
được. Khơng chỉ quần chúng lao động (cơng nhân và nông dân), mà cả các giai cấp và
tầng lớp trên trong xã hội (tiểu tư sản, tư sản và địa chủ) đều phải chịu nỗi nhục của

người dân mất nước, của một dân tộc mất độc lập tự do. Ngay giai cấp tư sản Việt
Nam cũng khác với giai cấp tư sản phương Tây, mặc dù vẫn là giai cấp bóc lột nhưng
khơng phải là giai cấp thống trị. Họ không phải là đối tượng cách mạng, mà trái lại, có
thể trở thành lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc[1,tr16].
Trong nhiều tác phẩm như Tâm địa thực dân, Bình đẳng, Vực thẳm thuộc địa,
Cơng cuộc khai hóa giết người..., Hồ Chí Minh tập trung tố cáo chủ nghĩa thực dân, vạch
trần cái gọi là “khai hóa văn minh” của chúng. Người viết: “Để che đậy sự xấu xa của chế
độ bóc lột giết người, chủ nghĩa tư bản thực dân luôn luôn điểm trang cho cái huy chương
mục nát của nó bằng những châm ngơn lý tưởng: Bác ái, Bình đẳng, v.v.”.
8


“Nếu lối hành hình theo kiểu Linsơ của những bọn người Mỹ hèn hạ đối với những
người da đen là một hành động vơ nhân đạo, thì tơi khơng cịn biết gọi việc những
người Âu nhân danh đi khai hóa mà giết hàng loạt người dân châu Phi là cái gì
nữa”[4,tr43]. Trong những bài có tiêu đề Đơng Dương và nhiều bài khác, Người lên án
mạnh mẽ chế độ cai trị hà khắc, sự bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp ở Đơng Dương
trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục. Người chỉ rõ sự đối kháng giữa
các dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa đế quốc thực dân là mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc
địa, đó là mâu thuẫn khơng thể điều hịa được. Sự áp bức, thống trị dân tộc càng nặng
nề, thì phản ứng dân tộc sẽ càng quyết liệt về tính chất, đa dạng về nội dung và phong
phú về hình thức. Nghiên cứu tình hình Đơng Dương, Hồ Chí Minh nhận thấy: “Đằng
sau sự phục tùng tiêu cực, người Đơng Dương giấu một cái gì đang sơi sục, đang gào
thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến”[4,199]. Trong tác phẩm Bản án
chế độ thực dân Pháp, Nguyễn Ái Quốc lên án mạnh mẽ tội ác của chủ nghĩa thực dân
đã tước bỏ tất cả quyền con người và quyền dân tộc ở các thuộc địa.
Hồ Chí Minh sinh ra trong cảnh đất nước bị thực dân Pháp xâm lược và đô hộ,
giai cấp phong kiến từng bước nhượng bộ, đầu hàng, làm tay sai cho thực dân Pháp,
các cuộc đấu tranh chống Pháp lần lượt thất bại, cách mạng Việt Nam rơi vào tình thế
“dường như trong đêm tối khơng có đường ra”. Năm 1911, Người rời Tổ quốc sang

phương Tây tìm đường cứu nước. Khác với các nhà yêu nước trước đó ra nước ngồi
tìm kiếm sự giúp đỡ, học tập, “cầu viện”, hoặc đào tạo cán bộ để chỉ đạo, chuẩn bị lực
lượng, phát động phong trào đấu tranh trong nước, Hồ Chí Minh quyết định sang
Pháp.
Những nhận định ban đầu của Người về nước Pháp đã được thực tiễn chứng minh
là đúng đắn. Đặc biệt, với bước ngoặt tư tưởng khi tiếp xúc với “Luận cương của Lênin
về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa”, có thể nói, Hồ Chí Minh đã tìm ra được chìa khóa
cho con đường cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam
là một bộ phận không thể tách rời của cách mạng thế giới; giải quyết vấn đề dân tộc và
thuộc địa là một bộ phận của cách mạng thế giới: “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới
và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với
vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa”[4,tr121]
9


Người nhận thấy ở Việt Nam có hai mâu thuẫn cơ bản cần phải giải quyết: Một
là, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với bọn đế quốc cướp nước; Hai là, mâu thuẫn
giữa đông đảo quần chúng nhân dân, chủ yếu là nông dân, với giai cấp địa chủ phong
kiến. Mâu thuẫn cơ bản ở Việt Nam cần tập trung giải quyết là mâu thuẫn giữa dân tộc
Việt Nam với bọn đế quốc cướp nước và tay sai của chúng.
Con đường giải phóng dân tộc Việt Nam được Hồ Chí Minh khẳng định rõ:
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường
cách mạng vơ sản”[4,tr322]. Giải phóng dân tộc theo con đường Cách mạng Tháng
Mười, theo con đường cách mạng vô sản, đó là tư tưởng chỉ đạo mang tính ngun
tắc, được thể hiện xuyên suốt trong các văn kiện Đảng cũng như chỉ đạo thực tiễn của
Chủ tịch Hồ Chí Minh.
1.2. Độc lập dân tộc – nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa
Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh có nội dung cốt lõi là vấn đề độc
lập dân tộc. Người tiếp cận vấn đề dân tộc từ những tư tưởng từ hai bản tuyên ngôn
của Pháp và Mỹ rồi đúc kết thành những hệ thống luận điểm về độc lập dân tộc.

Hồ Chí Minh tiếp cận quyền dân tộc từ quyền con người được thiết lập từ giá trị
cách mạng thế giới mang lại. Hồ Chí Minh tiếp cận quyền con người hồn toàn khác
với các học giả tư sản và những nhà tư tưởng hay triết học của nhân loại. Cách tiếp cận
của Người hoàn toàn mới mẻ và sâu sắc. Người xuất phát từ đặc điểm của thời đại và
con người hiện thực để xem xét và giải quyết vấn đề con người. Với cách xem xét đó
thì quyền con người ở Việt Nam chỉ có thể được giải quyết thơng qua một cuộc cách
mạng hiện thực. Nhận thức về quyền con người của Hồ Chí Minh là sự kế thừa những
giá trị tư tưởng trong hai bản Tuyên ngôn Độc lập của cách mạng Mỹ năm 1776 và
Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng pháp năm 1791.[1,tr16]
Trong Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ khẳng định: “Tất cả mọi người sinh ra có
quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền khơng ai có thể xâm phạm được; trong
những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Từ
lý luận về quyền con người mà hai cuộc cách mạng Pháp và Mỹ xác lập, trở thành giá
10


trị phổ biến, khi lý luận xâm nhập vào thực tiễn, cụ thể là thực tiễn của cách mạng Việt
Nam đã hình thành một khái niệm đó là quyền dân tộc.
Hồ Chí Minh nâng cao quyền con người lên thành quyền dân tộc là hợp với lẽ
tự nhiên, vì quyền con người nằm trong quyền dân tộc, vi phạm quyền dân tộc điều đó
cũng có nghĩa là vi phạm quyền con người. Điều này nó trái với chân lý đã được
khẳng định trong Tuyên ngôn của cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp.
Hồ Chí Minh ln giương cao ngọn cờ đấu tranh vì độc lập dân tộc, song người
cũng là hiện thân của khát vọng hồ bình. Hồ bình chân chính trong nền độc lập dân
tộc để nhân dân xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cũng là quyền cơ bản của dân
tộc. Hồ bình khơng thể tách rời độc lập dân tộc, và muốn có hồ bình thật sự thì phải
có độc lập thật sự. Tinh thần “chúng ta muốn hồ bình” đã dẫn dắt nhân dân ta chiến
đấu và chiến thắng mọi thế lực xâm lược ngoại bang. Chân lý có giá trị cho mọi thời
đại: “Khơng có gì q hơn độc lập, tự do”. Độc lập dân tộc phải gắn liền với sự thống
nhất toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.[1,tr16]

Khi đế quốc Pháp một lần nữa trở lại xâm lược nước ta. Để bảo vệ độc lập và
chủ quyền thiêng liêng của dân tộc, Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi vang dậy núi sông:
"Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ"[4,tr532]
1.3. Chủ nghĩa dân tộc – Một động lực lớn của đất nước
Theo Hồ Chí Minh, do kinh tế cịn lạc hậu, chưa phát triển, nên sự phân hóa
giai cấp ở Đơng Dương chưa triệt để, vì thế cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra
giống như ở phương Tây. Các giai cấp vẫn có sự tương đồng lớn: dù là địa chủ hay
nông dân, họ đều chịu chung số phận là người nơ lệ mất nước. Từ sự phân tích đó,
Người kiến nghị về Cương lĩnh hành động của Quốc tế cộng sản là: "Phát động chủ
nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế cộng sản... Khi chủ nghĩa dân tộc của họ
thắng lợi... nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế"[1,tr17].
Như vậy, xuất phát từ sự phân tích quan hệ giai cấp trong xã hội thuộc địa, từ
truyền thống dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa
11


dân tộc mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy. Người cho đó là một
chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời. Chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế
cộng sản mà Hồ Chí Minh đề cập ở đây là chủ nghĩa dân tộc chân chính, chứ khơng
phải là chủ nghĩa dân tộc hẹp hịi.
2 Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
2.1. Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ với nhau
Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu
nước, nhưng người luôn đứng trên quan điểm giai cấp để nhận thức và giải quyết vấn
đề dân tộc.
Sự kết hợp nhuần nhuyễn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh
thể hiện: khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và quyền lãnh đạo duy nhất
của Đảng Cộng Sản trong quá trình cách mạng Việt Nam.
Đảng chủ trương đại đoàn kết dân tộc dựa trên nền tảng liên minh cơng nơng,

nơng dân và tầng lớp trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đảng chủ trương sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để chống lại bạo
lực phản cách mạng của kẻ thù. Gắn kết mục tiêu độc lập dân tộc với CNXH.
2.2. Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Khác với con đường cứu nước của ông cha ta, gắn độc lập dân tộc với chủ
nghĩa phong kiến hoặc chủ nghĩa tư bản, con đường cứu nước của Hồ Chí Minh là
độc lập dân tộc với CNXH.
Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải
phóng dân tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa
mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
[1,tr18]
2.3. Giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp
12


Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp, nhưng đồng
thời đặt vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc. Giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của
chủ nghĩa thực dân là điều kiện để giải phóng giai cấp. Vì thế lợi ích của giai cấp phải
phục tùng lợi ích của dân tộc. Hồ Chí Minh đã khẳng định: quyền tự do, độc lập là
quyền bất khả xâm phạm của các dân tộc, “dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền
sung sướng và quyền tự do”. Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh khơng
chỉ đấu tranh cho dân tộc mình mà cịn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc bị
áp bức. Ở Hồ Chí Minh chủ nghĩa u nước chân chính ln ln thống nhất với chủ
nghĩa quốc tế trong sáng.
Như chúng ta đều biết, Hồ Chí Minh đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ
nghĩa Mác - Lênin. Từ đó, Người đã phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước truyền thống
Việt Nam, trong sự thống nhất với chủ nghĩa quốc tế vơ sản. Bởi vậy, trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, đúng như Ph.Ăng-Ghen đã nói: Những tư tưởng dân tộc chân chính
đồng thời cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính. Sự phát triển tư tưởng Hồ Chí

Minh đã chỉ đạo sự phát triển của thực tiễn cách mạng Việt Nam, trong sự thúc đẩy lẫn
nhau giữa dân tộc và giai cấp, ý thức giác ngộ về cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc là
tiền đề quyết định nhất, cũng là động lực chủ yếu để Nguyễn Ái Quốc đến với chủ
nghĩa Mác - Lênin và tiếp thu quan điểm mác-xít về giai cấp. Đó chính là nhân tố đảm
bảo tính khoa học và cách mạng cho sự phát triển tinh thần dân tộc đúng đắn ở người
chiến sĩ cộng sản Nguyễn Ái Quốc.[1,tr18]
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa hai q trình đấu
tranh cách mạng: giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản không phải chỉ là chứng
minh cho sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn là sự phát triển sáng tạo và
có giá trị định hướng rất cơ bản. Qua thực tiễn đấu tranh và lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, luôn bám sát đặc điểm thực tiễn Việt Nam và tham khảo kinh nghiệm các nước
khác, Hồ Chí Minh đã có những giải pháp đúng đắn, sáng tạo, đáp ứng địi hỏi của lịch
sử, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; đó
cũng chính là nguồn gốc sức mạnh của cách mạng nước ta trong suốt bảy thập kỷ qua.

13


2.4. Giữ vững độc lập của dân tộc mình, đồng thời tôn trọng độc lập của
các dân tộc khác
Theo Hồ Chí Minh, độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của
các dân tộc. Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh khơng chỉ đấu tranh cho
độc lập của dân tộc mình mà cịn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức
trên toàn thế giới.
Năm 1914, khi Chiến tranh thế giới thứ nhất vừa nổ ra, Hồ Chí Minh đã đem
toàn bộ số tiền dành dụm được từ đồng lương ít ỏi của mình ủng hộ quỹ kháng chiến
của người Anh. Theo Người, chúng ta phải tranh đấu cho tự do, độc lập của các dân
tộc khác như là tranh đấu cho dân tộc ta vậy.
Nêu cao tinh thần dân tộc tự quyết, nhưng Hồ Chí Minh khơng quên nghĩa vụ
quốc tế trong việc ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới. Người

nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc, cuộc kháng
chiến chống Pháp của nhân dân Lào và Campuchia, đề ra khẩu hiệu "giúp bạn là tự
giúp mình", và chủ trương phải bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng góp
vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới.[1,tr18]

14


CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM ĐĨ TRONG CƠNG CUỘC ĐỔI
MỚI HIỆN NAY
1. Quan điểm vận dụng của Đảng ta về vấn đề dân tộc trong công cuộc
đổi mới đất nước
1.1. Khơi dậy sức mạnh chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc,
nguồn động lực mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp nhuần nhuyễn trí tuệ thiên tài của lý luận
Mác - Lênin với truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hoá nhân loại được vận
dụng và phát triển sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, để hoạch
định đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn trong từng giai đoạn, từng thời kỳ
và từng thời điểm cụ thể. Nhờ có dự báo thiên tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ dẫn
bước đi để dân tộc ta vượt qua mọi hiểm nguy, thử thách, giành thắng lợi từng bước và
hướng tới tương lai.
Trong lịch sử cách mạng Việt Nam, q trình trưởng thành, chiến thắng của
Đảng đó khẳng định: khi tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thấm nhuần và vận
dụng đúng đắn lúc đó chúng ta có đường lối đúng, cách mạng giành thắng lợi; lúc nào
tư tưởng của Người không được quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo thời thời điểm
đó bộ tham mưu, cán bộ, đảng viên có sai lầm, cách mạng gặp khó khăn. Đó là bài học
lịch sử sâu sắc trong đấu tranh cách mạng ở Việt Nam. Khi Người còn sống, quân dân
ta trọn niềm tin: "Bác bảo đi, là đi, Bác bảo thắng, là thắng". Toàn Đảng, toàn dân,
tồn qn đó tiến lên dưới lá cờ quyết chiến, quyết thắng của Người, và đó lập nên
những kỳ tích có tầm vóc thời đại: thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, chiến thắng

Điện Biên Phủ, Chiến dịch Hồ Chí Minh đại thắng...
Quán triệt sâu sắc điều đó để trong giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh, cần khơi
dậy niềm tin và tình cảm sâu sắc của nhân dân ta, Đảng ta, các lực lượng vũ trang ta
đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh; nguyện trung thành học tập và vận dụng tư tưởng của
Người vào giải quyết các nhiệm vụ cụ thể của cách mạng; tỉnh táo và kiên quyết đấu
tranh không khoan nhượng với các quan điểm phản động sai trái, bảo vệ và phát triển
15



×