Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Nhận biết và phòng trị một số bệnh thường gặp khi ương nuôi cá bơn pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.4 KB, 3 trang )

Nhận biết và phòng trị một số bệnh thường
gặp khi ương nuôi cá bơn vỉ
Cá bơn vỉ (Paralichthys olivaceus) là loài cá đáy, sống ở vùng biển xứ
lạnh, là loài có giá trị kinh tế cao và là đối tượng nuôi quan trọng của
Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan. Thân cá to, thịt thơm
ngon, hàm lượng đạm cao. Cá có tốc độ sinh trưởng nhanh, sức sinh sản
mạnh.
Thực hiện chủ trương của Ngành Thủy sản về đa dạng hóa đối tượng
nuôi cho xuất khẩu, dự án "Nhập công nghệ sản xuất giống và ương nuôi
cá bơn vỉ" đã được triển khai từ năm 2004. Trong hơn 2 năm tiếp nhận
công nghệ, nhóm cán bộ kỹ thuật đã nhận thấy rằng quá trình ương nuôi
cá hương, cá giống ít thấy cá chết do bệnh mà chủ yếu do nhiệt độ cao,
cá bắt mồi kém dẫn đến tỷ vong. Tuy nhiên, trong quá trình nuôi cá
giống xuất hiện một số bệnh. Sau đây là một số bệnh thường gặp và cách
phòng trị:
1. Bệnh nấm
Bệnh thường phát sinh khi cá được 25 ngày tuổi, chiều dài cơ thể 9mm.
Cá nhiễm bệnh da bị phồng rộp lên dẫn đến các tế bào biểu bì của cá bị
hoại tử.
- Dấu hiệu bệnh lý: cá xuất hiện các đốm trắng thường ở phía trước vây
lưng, đó là các quần thể nấm có kích cỡ thường 1x100 µm, vi khuẩn
nấm hình sợi.
- Phòng bệnh: Trước và trong quá trình ương nuôi, công trình nuôi, dụng
cụ phải vệ sinh, nguồn nước ương nuôi cá phải sạch. Đây là phương
pháp tốt nhất để ngừa bệnh.
- Trị bệnh: phun hoá chất pronopol xuống bể ương nuôi với nồng độ 3-5
ppm.
2. Bệnh truyền nhiễm về đường ruột
Bệnh thường phát sinh ở cá được 30 ngày tuổi, giai đoạn cá chuyển
xuống sống đáy. Nuôi trong điều kiện nhiệt độ nước 18-200C thì tỷ lệ cá
mắc bệnh giảm. Khi cá nhiễm bệnh sẽ chết rất nhanh, thường 3-5 ngày


cá có thể chết. Tác nhân gây bệnh này là do vi khuẩn vibrio sp.
- Dấu hiệu bệnh lý: cá nhiễm bệnh thường bỏ ăn, bụng trướng to, đường
tiêu hóa thức ăn không tiêu, cá hoạt động kém, bơi chậm chạp, màu sắc
cá biến sang màu xám đen, ống tiêu hóa co rút và khi cá chết giải phẫu
phát hiện ống tiêu hóa có rất nhiều khuẩn hình que.
- Biện pháp phòng bệnh: Nguồn gây bệnh thường do nguồn thức ăn là
luân trùng và artemia. Do đó, nuôi luân trùng và ương artemia nên sử
dụng tiểu cầu tảo (Chorella sp), không nên nuôi trong điều kiện nhiệt độ
quá cao và mật độ ương dày. Môi trường nước ương phải sạch, không ô
nhiễm. Đây là cách phòng ngừa bệnh có hiệu quả.
- Trị bệnh: Trộn vào thức ăn cá thuốc kháng sinh oxytetracyline với
nồng độ 1-2 g/1kg cá/ngày. Cho ăn liên tục 3-5 ngày, kết hợp bổ sung
B.complex và vitamin C.
3. Bệnh do vi khuẩn vibrio anguillarium
Bệnh này thường xuất hiện chủ yếu ở giai đoạn cá giống, tỷ lệ chết có
thể lên tới 50%, thường gặp ở cá có chiều dài thân 5-20 cm. Bệnh
thường phát sinh quanh năm, đặc biệt phát sinh cao ở thời kỳ từ tháng 4-
7. Tác nhân gây bệnh này là do vi khuẩn vibrio anguillariu.
- Dấu hiệu bệnh lý: màu sắc cơ thể chuyển sang màu xám đen, vảy bị
bong ra, vây bị hoại tử phần tia vây ngoài, vây bị xuất huyết thối rữa.
- Biện pháp phòng bệnh: Vi khuẩn vibrio anguillariu tồn tại ở trong nước
biển, do vậy muốn phòng bệnh này nguồn nước phải đảm bảo sạch, phải
thường xuyên sát trùng đáy bể ương nuôi. Dung thuốc phun trực tiếp vào
bể nuôi để nước bể có nồng độ thuốc formaline nồng độ 10-15ppm.
- Trị bệnh: dùng một trong các loại thuốc kháng sinh (oxytetracyline,
rifammycine ) trộn với thức ăn cho cá ăn trong 7 ngày liên tục với
lượng như sau: ngày đầu tiên từ 100mg thuốc/kg cá /ngày, từ ngày thứ 2
đến ngày thứ 7 lượng thuốc mỗi ngày bằng một nửa ngày đầu. Kết hợp
bổ sung B.complex và vitamin C.
4. Bệnh do vi khuẩn (liên cầu khuẩn)

Bệnh phát sinh từ tháng 4 đến tháng 12, tập trung vào thời điểm nhiệt độ
nước khoảng 250C (nhất là tháng 7-10), cá nuôi mật độ cao, tỷ lệ nước
thay ít. Cá bị bệnh có tỷ lệ chết hàng ngày 0,1-2%, có lúc đạt 10%. Khi
nhiệt độ hạ thấp, bệnh hạn chế phát sinh. Tác nhân gây bệnh do liên cầu
khuẩn Streptoccous sp
- Dấu hiệu bệnh lý: màu sắc cơ thể chuyển sang màu xám đen, nhãn cầu
trắng đục, xuất huyết, bộ phận đầu và hàm trên hàm dưới cá màu đỏ.
Mang cá có màu đỏ do xuất huyết hoặc tái xám do chuyển sang giai
đoạn hoại tử. Khi giải phẫu nội tạng thấy ruột có màu đỏ.
- Biện pháp phòng bệnh: Bệnh thường xuất hiện khi nhiệt độ nước lên
cao, thức ăn chất lượng kém. Do đó, khi phát hiện cá bị bệnh phải tách
cá bệnh ra riêng. Cho cá ăn thức ăn tươi sống, chất lượng tốt, ngừng cho
ăn hoặc cho ăn ít hơn khi phát hiện cá nhiễm bệnh. Tăng chất dinh
dưỡng cho cá, giảm mật độ ương nuôi, tăng cường thay nước, hạn chế
thức ăn dư thừa

×