Tải bản đầy đủ (.docx) (88 trang)

Luận văn ThS QLC Quản lý nhà nước về hộ tịch ở quận 10 thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (391.98 KB, 88 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
“Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác nhận tình trạng nhân thân của một
con người từ khi sinh ra đến khi chết”. Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân và quyền nhân thân của con người được Hiến pháp năm 2013 và Bộ
luật Dân sự năm 2015 quy định để xác định sự kiện hộ tịch như: quyền thay
đổi họ tên; quyền xác định lại dân tộc; quyền được khai sinh; quyền được khai
tử; quyền được kết hôn; quyền ly hôn; quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con;
quyền đối với quốc tịch…
Công tác đăng ký và quản lý hộ tịch không những liên quan đến nhân
thân của con người mà cịn liên quan đến chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội, quốc phịng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu,
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của cơ quan Nhà nước, thể chế hóa mối quan
hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý.
Nhận thức được vị trí và vai trị quan trọng của cơng tác đăng ký và
quản lý hộ tịch mà trong 11 năm qua từ khi thực hiện Nghị định
158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ
tịch, và đặc biệt là gần một năm 2016 kể từ khi áp dụng thực hiện Luật Hộ
tịch có hiệu lực từ ngày 01/01/2016 trên địa bàn Thành phố đã có nhiều
chuyển biến tích cực, các sự kiện đăng ký hộ tịch của nhân dân cơ bản được
thực hiện kịp thời và đúng quy định của pháp luật; công tác phổ biến giáo dục
pháp luật về hộ tịch được chú trọng triển khai đến tận cơ sở. Nhận thức và ý
thức chấp hành pháp luật về hộ tịch của nhân dân được nâng lên; đội ngũ cán
bộ làm công tác hộ tịch cơ sở được quan tâm, củng cố về số lượng và kỹ năng
thực hiện nghiệp vụ; các loại sổ sách, biễu mẫu hộ tịch được hỗ trợ và cung
cấp kịp thời đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước.

1


Nhưng hiện nay trên thực tế, công tác đăng ký và quản lý hộ tịch vẫn


còn một số tồn tại, bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách hành chính và
cải cách tư pháp trong giai đoạn mới, tình trạng các cơ quan, tổ chức, đồn thể
chưa xác định đúng giá trị pháp lý của giấy tờ hộ tịch, cịn gây nhiều khó khăn
cho cơng dân. Thực trạng trên có nguyên nhân xuất phát từ nhận thức chưa
đầy đủ quy định của pháp luật về đăng ký và quản lý hộ tịch của một bộ phận
cán bộ, công chức và nhân dân; sự phối hợp thiếu nhịp nhàng giữa các cơ
quan hữu quan trong việc giải quyết những sai sót trong hồ sơ, giấy tờ cá
nhân; cơng tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý về
đăng ký và quản lý hộ tịch chưa thực sự sâu rộng; năng lực của một số công
chức cịn hạn chế. Tuy cơng việc liên quan đến nhân thân của một con người
và cũng liên quan đến nhiều lĩnh vực khác của xã hội, nhưng nhìn từ gốc độ
bên ngồi thì rất “thầm lặng” và cũng được ít ai quan tâm.
Những hạn chế này đã làm giảm đi hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước
về hộ tịch.
Là một quận của Thành phố Hồ Chí Minh, trong những năm qua, quận
10 đã có nhiều cố gắng, nỗ lực trong quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn
quận.Với sự quan tâm, chỉ đạo của các cấp, chính quyền, quản lý về hộ tịch ở
quận 10 từng bước được thực hiện nghiêm túc đầy đủ, chính xác.
Song cũng như nhiều địa phương khác, công tác quản lý về hộ tịch ở
quận 10 cũng còn nhiều hạn chế như đã nêu ở trên.
Vì vậy, nghiên cứu về quản lý hộ tịch nói chung cũng như ở thực tế của
quận 10 nói riêng nhằm làm rõ hơn nữa cơ sở lý luận, thực tiễn của quản lý hộ
tịch, chỉ ra những nguyên nhân của các hạn chế, trên cơ sở đó, đưa ra những
khuyến nghị góp phần nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước
về hộ tịch trên địa bàn quận là một điều cấp thiết hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

2



Một số cơng trình khoa học tiêu biểu về quản lý hộ tịch đã được công
bố trong thời gian qua như:
- “Về quản lý hộ tịch”. Sách tham khảo / Phạm Trọng Cường. - H:
Chính trị Quốc gia, 2004;
- “Hướng dẫn đăng ký và quản lý hộ tịch” / B.soạn: Nguyễn Quốc
Cường, Lương Thị Lanh, Trần Thị Thu Hằng... - H: Tư pháp, 2006;
- “Quy định mới về đăng ký và quản lý hộ tịch” - H: Chính trị Quốc
gia, 2006;
- “151 câu trả lời về hộ tịch, hộ khẩu, chứng minh nhân dân và công
chứng,, chứng thực” / L.G: Trần Huyền Nga. – H: NXB Thành phố Hồ Chí
Minh, 2005;
- “Hướng dẫn nghiệp vụ đăng ký và quản lý hộ tịch” - H: NXB tư pháp
2006;
- “Nghiệp vụ đăng ký hộ tịch” – H: NXB Tư Pháp, 2007
- Bài “Cơ quan nhà nước cần tôn trọng quyền yêu cầu cấp phiếu lý lịch
tư pháp của công dân”, tác giả Vũ Đình Tuấn Phương, Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật, tháng 6 năm 2005;
- Bài “Kỳ vọng về một nề nếp mới trong công tác hộ tịch”, tác giả
Phạm Trọng Cường, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tháng 6 năm 2006;
- Tác giả Phạm Hồng Hoàn “ Quản lý Nhà nước về hộ tịch ở cấp xã,
huyện Đan phượng, thành phố Hà Nội” năm 2011;
- Tác giả Lê Thị Qng “ Nâng cao hiệu quả cơng tác kiểm sốt thủ tục
hành chính trong lĩnh vực quản lý hộ tịch” quận Phú Nhuận, TP.Hồ Chí Minh
năm 2013;

3


-Bài “Nâng cao năng lực đội ngũ công chức tư pháp – hộ tịch trong giai
đoạn hiện nay”, Tác giả Trần Văn Quảng, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật tháng

9 năm 2006;
Số chuyên đề về “Công chứng, hộ tịch và quốc tịch”, phần 2 hộ tịch và
quốc tịch, Bộ Tư pháp, Hà Nội, 2007;
- Bài “Tư pháp Hà Nội khơng vì khó khăn mà từ chối đăng ký khai
sinh”, tác giả Đàm Thị Kim Hạnh, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tháng 3 năm
2008;
- Giáo trình “Quản lý hành chính-tư pháp” của Học viện hành chính,
nhà xuất bản khoa học kỹ thuật năm 2008 (dành cho đào tạo trung cấp hành
chính)
- Chuyên đề “Quản lý hành chính -tư pháp” trong chương trình bồi
dưỡng kiến thức quản lý quản lý nhà nước ngạch chuyên viên chính của Học
viện Hành chính.
Các cơng trình khoa học nói trên đã đề cập từng khía cạnh của quản lý
về hộ tịch. Tuy nhiên, do đến nay, chưa có cơng trình khoa h ọc nào nghiên
cứu trực tiếp về quản lý hộ tịch ở Quận 10 trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh. Đây
là lý do thứ hai để đề tài này được lựa chọn nghiên cứu.
3. Đối tượng, phạm vi,mục đích nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận thực tiễn của
quản lý nhà nước về hộ tịch.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi không gian: UBND Quận 10 và 15 phường
Phạm vi thời gian : Từ năm 2012 đến 2016
3.3. Mục đích nghiên cứu:
4


Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ hơn nữa cơ sở lý luận, thực
tiễn của quản lý nhà nước về hộ tịch nói chung và ở quận 10 nói riêng. Từ đó
đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về hộ tịch ở quận 10 trong thời gian

qua, nêu ra những kết quả đạt được và hạn chế cũng như nguyên nhân của
chúng.
Trên cơ sở đó, đưa ra những đề xuất góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu
quả của quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn quận 10 trong thời gian tới.
Phân tích thực trạng quản lý nhà nước về hộ tịch theo hai giai đoạn từ
năm 2012 đến nay.
Đề xuất các giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về hộ tịch ở nước ta
hiện nay.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận:
Đề tài dựa trên phương pháp luận là các quan điểm, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quản lý hộ tịch.
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
Để nghiên cứu đề tài một cách có hiệu quả, sẽ sử dụng các phương
pháp nghiên cứu sau: phương pháp phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp,
phương pháp lịch sử, phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh...
5. Đóng góp của đề tài
Đề tài hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về hộ tịch và quản lý
nhà nước đối với hộ tịch; đánh giá thực trạng về quản lý hộ tịch ở quận 10
trong thời gian qua, từ đó nêu lên những giải pháp để góp phần nâng cao hiệu
lực, hiệu quả của quản lý nhà nước về hộ tịch ở quận 10.
Các kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm cơ sở để các cấp chính
quyền ở quận 10 và 15 phường nghiên cứu, vận dụng vào thực tế quản lý hộ
5


tịch. Luận văn cũng có thể là tài liệu nghiên cứu về quản lý hộ tịch cho các
học viên, sinh viên của học viện hành chính.
6. Bố cục của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,

luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý của quản lý nhà nước về hộ tịch
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về hộ tịch ở quận 10, thành
phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Một số giải pháp hồn thiện quản lý nhà nước về hộ tịch ở
quận 10 – Thành phố Hồ Chí Minh.

6


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HỘ
TỊCH
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN
1.1.1. Quan niệm về hộ tịch
Theo Hán nôm từ hộ tịch được hiểu là: Hộ là nhà, cửa; Tịch là sổ sách
ghi chép việc liên quan đến tình trạng nhân thân (thân trạng) của mỗi người
theo mối quan hệ về gia đình trong các việc sinh, tử, kết hơn...
Xét từ khía cạnh là một khái niệm pháp lý, khái niệm hộ tịch cũng là
một trường hợp rất đặc biệt trong hệ thống khái niệm pháp lý tiếng Việt. Bản
thân khái niệm này hồn tồn khơng dễ định nghĩa, điều đó cũng có nghĩa là
việc sử dụng nó khơng thuận tiện theo nguyên tắc sử dụng ngôn ngữ khi xây
dựng văn bản quy phạm pháp luật. Trên thực tế đã từng có những cuộc thảo
luận trong giới chun mơn về việc thay thế khái niệm này bằng một khái
niệm khác thông dụng hơn, dễ hiểu hơn. Tuy nhiên, do khái niệm hộ tịch chứa
đựng trong nó yếu tố truyền thống, lịch sử và đã là một khái niệm có tính chất
phổ thông, ăn sâu trong nhận thức nhân dân nên giải pháp đi tìm khái niệm
Việt hố thay thế nó khơng được lựa chọn, thay vào đó, các nhà xây dựng
pháp luật đã dung hoà bằng giải pháp mà Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật cho phép, đó là sử dụng nó với tư cách là một thuật ngữ chun mơn

và định nghĩa nó trong văn bản.
Khái niệm “hộ tịch” và “đăng ký hộ tịch” theo pháp luật Việt Nam hiện
nay:
Theo quy định tại điều 1, Nghị định số 83/1998/NĐ-CP của Chính phủ
ngày 10-10-1998 về đăng ký hộ tịch có quy định:
“Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của
một người từ khi sinh ra đến khi chết”.
7


“Đăng ký hộ tịch là hành vi của cơ quan nhà nước có thẩm quyền:
Xác nhận các sự kiện sinh; kết hôn; tử; nuôi con nuôi; giám hộ; nhận
cha, mẹ, con; thay đổi họ, tên, chữ đệm, cải chính họ, tên, chữ đệm, ngày
tháng năm sinh; xác định lại dân tộc; đăng ký khai sinh, khai tử quá hạn;
đăng ký lại việc sinh, tử, kết hôn, nhận nuôi con nuôi;
Căn cứ vào quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, ghi vào
sổ đăng ký hộ tịch các việc về ly hôn, xác định cha, mẹ, con, thay đổi quốc
tịch, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự,
hủy hôn trái pháp luật, hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành
niên hoặc những sự kiện khác do pháp luật quy định”.
Trước khi có Nghị định số 83/1998/NĐ-CP, Bộ Luật Dân sự năm 1995
cũng đã có quy phạm định nghĩa về khái niệm đăng ký hộ tịch tại Điều 54:
“Đăng ký hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận sự kiện
sinh, tử, kết hơn, ly hôn, giám hộ, nuôi con nuôi, thay đổi họ, tên, quốc tịch,
xác định dân tộc, cải chính hộ tịch và các sự kiện khác theo quy định của
pháp luật về hộ tịch”.
Đây là khái niệm khó định nghĩa một cách rõ ràng bằng ngôn ngữ Hán
Việt, việc kết hợp giữa định nghĩa “hộ tịch” và “đăng ký hộ tịch” mới có thể
mang lại cách hiểu đầy đủ về khái niệm “hộ tịch” vì “Hộ tịch là những sự
kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến

khi chết”- đây là định nghĩa mở, theo đó chỉ có thể hiểu “những sự kiện cơ
bản xác định tình trạng nhân thân của một người” là những sự kiện nào khi
viện dẫn tới định nghĩa về “đăng ký hộ tịch”.
Từ định nghĩa như trên, đăng ký về hộ tịch gồm các loại việc:
- Đăng ký khai sinh;
- Đăng ký khai tử;

8


- Đăng ký kết hôn (kể cả công nhận đăng ký kết hôn giữa công dân Việt
Nam và người nước ngồi);
- Đăng ký giao nhận việc ni con ni (kể cả việc đăng ký cho người
nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con ni);
- Đăng ký nhận con ngồi giá thú (kể cả việc đăng ký cho người nước
ngoài nhận con ngoài giá thú là người Việt Nam);
- Đăng ký giám hộ;
- Đăng ký việc thay đổi họ tên, chữ đệm hoặc cải chính họ tên, chữ đệm
ngày tháng năm sinh.
Nghị định số 158/2005/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 27-122005 về đăng ký và quản lý hộ tịch có hiệu lực thi hành từ ngày 01-4-2006
thay thế Nghị định số 83/1998/NĐ-CP của Chính phủ về đăng ký hộ tịch đã
đưa ra định nghĩa hoàn thiện về “hộ tịch” và “đăng ký hộ tịch” như sau:
“Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của
một người từ khi sinh ra đến khi chết.
Đăng ký hộ tịch theo quy định của Nghị định này là việc cơ quan nhà
nước có thẩm quyền:
Xác nhận các sự kiện: sinh; kết hôn; tử; nuôi con nuôi; giám hộ; nhận
cha, mẹ, con; thay đổi, cải chính, bổ sung, điều chỉnh hộ tịch; xác định lại
giới tính; xác định lại dân tộc;
Căn cứ vào quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, ghi vào

sổ hộ tịch các việc: xác định cha, mẹ, con; thay đổi quốc tịch; ly hôn; hủy
việc kết hôn trái pháp luật; chấm dứt nuôi con ni”.
Với mỗi vấn đề hộ tịch thì có giấy tờ về vấn đề đó, gọi là giấy tờ về hộ
tịch. Giấy tờ về hộ tịch là giấy tờ có giá trị chứng minh thực tế thân trạng của
mỗi công dân.

9


Giấy tờ về hộ tịch do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp. Đó là cơ sở
pháp lý chứng minh các quyền và nghĩa vụ của công dân phát sinh từ sự kiện
hộ tịch. Do tính chất quan trọng như vậy của các giấy tờ về hộ tịch cho nên
pháp luật có quy định chặt chẽ, cụ thể các nguyên tắc, thủ tục, trình tự đăng
ký và cấp các loại giấy tờ về hộ tịch.
Giấy tờ hộ tịch do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho cá nhân
theo quy định của pháp luật về hộ tịch là căn cứ pháp lý xác nhận sự kiện hộ
tịch của cá nhân đó.
Giấy tờ hộ tịch do cơ quan đại điện Ngoại giao, cơ quan Lãnh sự của
Việt Nam ở nước ngồi cấp có giá trị như giấy tờ hộ tịch được cấp ở trong
nước.
Giấy khai sinh là giấy tờ hộ tịch gốc của mỗi cá nhân. Do vậy, tất cả
các loại giấy tờ về hộ tịch đều phải thống nhất với Giấy khai sinh của cá nhân
người đó. Chính vì vậy, đăng ký hộ tịch là hành vi bắt buộc khơng chỉ đối với
cơng dân mà cịn đối với cả các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
1.1.2. Đặc điểm của hộ tịch
Từ quan niệm trên về hộ tịch, có thể thấy, hộ tịch có những đặc điểm
chủ yếu sau:
Thứ nhất, hộ tịch là một giá trị nhân thân, gắn chặt với cá nhân con
người, bởi vì, mỗi người chỉ có một thời điểm sinh, một thời điểm chết. Các
dấu hiệu về cha đẻ, mẹ đẻ, dân tộc, giới tính là những dấu hiệu giúp người ta

phân biệt từng cá nhân con người. Do đó, đây là các giá trị nhân thân gắn với
một con người cụ thể từ khi sinh ra đến khi chết.
Thứ hai, hộ tịch là những giá trị, về nguyên tắc không chuyển đổi cho
người khác. Đặc điểm này là hệ quả của của đặc điểm thứ nhất. Do đó, việc
thực hiện các sự kiện hộ tịch phải do trực tiếp cá nhân người đó thực hiện, trừ

10


trường hợp pháp luật có quy định khác (như: khai sinh có thể do bố, mẹ đi
đăng ký khai sinh; khai tử do người thân của người chết đăng ký khai tử).
Thứ ba, hộ tịch là những sự kiện nhân thân khơng lượng hố được
thành tiền. Chính vì vậy, hộ tịch khơng phải là một loại hàng hóa có thể trao
đổi trên thị trường.
1.2. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HỘ TỊCH
1.2.1. Nguyên tắc quản lý nhà nước về hộ tịch
Nguyên tắc quản lý nhà nước về Hộ tịch hiện nay được quy định tại
điều 5 của Luật Hộ tịch:
Một là, tôn trọng và bảo đảm quyền nhân thân của cá nhân.
Hai là, mọi sự kiện hộ tịch của cá nhân phải được đăng ký đầy đủ, kịp
thời, trung thực, khách quan và chính xác; trường hợp khơng đủ điều kiện
đăng ký hộ tịch theo quy định của pháp luật thì người đứng đầu cơ quan đăng
ký hộ tịch từ chối bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Đây là nguyên tắc cơ bản nhất trong công tác quản lý hộ tịch. Phạm vi
quản lý của hoạt động quản lý hộ tịch là các đặc điểm nhân thân làm nên căn
cước của mỗi cá nhân, có các thuộc tính: Ổn định, cơng khai, có khả năng phổ
biến thơng tin. Việc đăng ký đầy đủ, kịp thời, chính xác các thơng tin này là
cơ sở để công tác quản lý hộ tịch của Nhà nước được đầy đủ, hệ thống, chính
xác, phản ánh đúng nhất sự phát triển, vận động của dân số xã hội.
Ba là, Đối với những việc hộ tịch mà Luật này khơng quy định thời hạn

giải quyết thì được giải quyết ngay trong ngày; trường hợp nhận hồ sơ sau 15
giờ mà khơng giải quyết được ngay thì trả kết quả trong ngày tiếp theo.
Áp dụng cho trường hợp khai sinh giai quyết trong ngày.
Bốn là, mỗi sự kiện hộ tịch chỉ được đăng ký tại một nơi theo đúng
thẩm quyền.

11


Nguyên tắc “đăng ký một nơi” thể hiện tính chất “duy nhất” của đặc
điểm nhân thân từng cá nhân, đồng thời là cơ sở để bảo đảm thông qua hoạt
động quản lý hộ tịch, đặc điểm dân số, sự phát triển của dân số xã hội trong
từng vùng miền, địa phương có sự phân biệt rõ ràng.
Năm là,Mọi sự kiện hộ tịch sau khi đăng ký vào Sổ hộ tịch phải được
cập nhật kịp thời, đầy đủ vào Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử.
Với nguyên tắc này, Nhà nước địi hỏi các thơng tin về quản lý hộ tịch
phải được đảm bảo chính xác, điều này phù hợp với đặc điểm của đối tượng,
phạm vi của quản lý hộ tịch là các đặc điểm nhân thân của từng cá nhân với
các thuộc tính: Ổn định, cơng khai, có khả năng phổ biến thông tin. Khi cập
nhật vào dữ liệu thì khơng thể chỉnh sửa, nên khi lấy thơng tin phải chính xác,
việc chỉnh sửa phải thực hiện ở Bộ.
Sáu là, Nội dung khai sinh, kết hôn, ly hôn, khai tử, thay đổi, cải chính,
bổ sung hộ tịch, xác định lại giới tính, xác định lại dân tộc của cá nhân trong
Cơ sở dữ liệu hộ tịch là thông tin đầu vào của Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân
cư.
Bảy là, Bảo đảm công khai, minh bạch thủ tục đăng ký hộ tịch.
Đây là nguyên tắc về “tính công khai” trong công tác quản lý hộ tịch,
bảo đảm cho người dân dễ dàng thực hiện các quyền và nghĩa vụ về đăng ký
hộ tịch, qua đó khuyến khích người dân tự nguyện, tự giác thực hiện đầy đủ,
kịp thời các quyền và nghĩa vụ về đăng ký hộ tịch.

Những nguyên tắc trên đảm bảo cho việc quản lý hộ tịch được chính
xác, kịp thời, đầy đủ, góp phần bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công
dân. Bởi vì, thực tế cho thấy, các giấy tờ về hộ tịch nếu trong q trình thực
hiện có sai sót mà khơng được phát hiện kịp thời sẽ gây khó khăn cho công
tác quản lý cũng như khắc phục, sửa chữa sai sót và đặc biệt sẽ gây ra khơng
ít những phiền hà cho công dân trong việc thống nhất giấy tờ quan trọng khác

12


sau này: hồ sơ đi học, xin việc làm, xuất cảnh, thậm chí, cịn liên quan đến
việc xác định độ tuổi để đánh giá năng lực hành vi, năng lực chịu trách nhiệm
pháp lý của từng cá nhân con người...
1.2.2. Vai trò của quản lý nhà nước về hộ tịch
Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một
người từ khi sinh ra đến khi chết, nên quản lý hộ tịch là một vấn đề quan trọng
đối với mỗi cá nhân trong xã hội.
Quản lý hộ tịch là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của chính quyền
các cấp, nhằm theo dõi thực trạng và sự biến động về hộ tịch, trên cơ sở đó
bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và gia đình khi tham gia vào
các quan hệ xã hội như quyền được kết hôn khi công dân đủ tuổi theo quy
định, quyền được giám hộ, quyền được thừa kế.... đồng thời góp phần xây
dựng các chính sách về kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và dân số, kế
hoạch hóa gia đình.
Cũng trên cơ sở theo dõi biến động về hộ tịch mà các cơ quan quản lý
nhà nước xây dựng chính sách phù hợp dựa trên dân số theo độ tuổi, giới tính
nguồn nhân lực từ đó có phân tích đánh giá cụ thể làm cơ sở để hoạch định
các chính sách về phát triển kinh tế, văn hoá-xã hội, thể dục thể thao; xây
dựng cơ sở y tế, trường học; bố trí giáo viên; chăm sóc sức khoẻ trong nhân
dân; đảm bảo cân bằng giới tính phục vụ an ninh quốc phịng....

1.2.3. Quan niệm quản lý nhà nước về hộ tịch
Quản lý nhà nước về hộ tịch là một trong những hoạt động của quản lý
nhà nước. Thông qua việc đăng ký hộ tịch, nhà nước nắm được tình hình biến
động dân cư và sự biến động của xã hội, giúp nhà nước có cơ sở khoa học để
xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế, văn hố, xã hội, quốc phịng và trật tự
an toàn xã hội và là cơ sở để hoạch định chính sách dân số và kế hoạch hố
gia đình.

13


Quản lý nhà nước về hộ tịch là sự thực hiện chức năng quản lý của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật trong các công việc
bao gồm: Chỉ đạo triển khai tổ chức cơ quan đăng ký hộ tịch, thực hiện đăng
ký hộ tịch; tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về hộ tịch nhằm
giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật hộ tịch trong nhân dân; thực hiện công tác
lưu trữ và quản lý lưu trữ các hồ sơ về hộ tịch đã đăng ký hoặc được chuyển
tiếp lưu trữ; báo cáo định kỳ thống kê việc tăng giảm dân số; kiểm tra, xử lý
các vi phạm về đăng ký hộ tịch; đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ
quản lý và đội ngũ hộ tịch viên.
Đặc điểm quản lý nhà nước đối với hộ tịch ở nước ta
Thứ nhất, quản lý nhà nước đối với hộ tịch là hoạt động mang quyền
lực nhà nước.
Quyền lực nhà nước trong quản lý nhà nước đối với hộ tịch trước hết
thể hiện ở việc các chủ thể có thẩm quyền thể hiện ý chí nhà nước thơng qua
phương tiện nhất định, trong đó phương tiện cơ bản và đặc biệt quan trọng
được sử dụng là văn bản quản lý hộ tịch.
Bằng việc ban hành văn bản, chủ thể quản lý hộ tịch thể hiện ý chí của
mình dưới dạng các hoạt động áp dụng pháp luật; trực tiếp thực hiện quyền và
nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ quản lý về hộ tịch; đưa ra mệnh lệnh

chỉ đạo trong tổ chức thực hiện pháp luật trong thực tiễn; cung cấp thông tin
hướng dẫn người dân để thực hiện việc đăng ký hộ tịch thông qua hệ thống
của bộ máy quản lý hộ tịch của Nhà nước.
Bên cạnh đó, quyền lực nhà nước còn thể hiện trong việc các chủ thể có
thẩm quyền tiến hành những hoạt động cần thiết để bảo đảm thực hiện ý chí
nhà nước, như các biện pháp về tổ chức, tuyên truyền giáo dục, thuyết phục,
hịa giải… Chính những biện pháp này là sự thể hiện tập trung và rõ nét của
sức mạnh nhà nước, một bộ phận tạo nên quyền lực nhà nước, nhờ đó ý chí
của chủ thể quản lý hộ tịch được bảo đảm thực hiện.
14


Thứ hai, quản lý nhà nước về hộ tịch là hoạt động được tiến hành bởi
những chủ thể có quyền năng hành pháp là các công chức trong bộ máy nhà
nước.
Chủ thể chủ yếu thực hiện quản lý hành chính nhà nước về hộ tịch là
các cơ quan quản lý hành chính nhà nước (Chính phủ, Bộ, Ủy ban nhân dân,
cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân, đội ngũ công chức làm công tác
tư pháp - hộ tịch).
Thứ ba, quản lý nhà nước về hộ tịch là hoạt động có tính thống nhất,
được tổ chức chặt chẽ.
Để bảo đảm tính pháp chế trong hoạt động hộ tịch, bộ máy các cơ quan
hộ tịch được tổ chức thành một khối thống nhất từ Trung ương tới địa
phương, nhờ đó các hoạt động của bộ máy được chỉ đạo, điều hành thống
nhất, bảo đảm lợi ích chung của cả nước, bảo đảm sự liên kết, phối hợp nhịp
nhàng giữa các địa phương tạo ra sức mạnh tổng hợp của cả nước, tránh được
sự cục bộ phân hóa giữa các địa phương hay vùng miền khác nhau.
Tuy nhiên, do mỗi địa phương đều có những nét đặc thù riêng về điều
kiện kinh tế - xã hội, nên để có thể phát huy tối đa những yếu tố của từng địa
phương, tạo sự năng động sáng tạo trong quản lý điều hành, bộ máy quản lý

hộ tịch còn được tổ chức theo hướng phân cấp, trao quyền tự quyết, tạo sự chủ
động sáng tạo cho chính quyền địa phương.
Thứ tư, hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch có tính chấp hành và
điều hành.
Tính chấp hành và điều hành của hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch
thể hiện trong việc những hoạt động này được tiến hành trên cơ sở pháp luật
và nhằm mục đích thực hiện pháp luật về hộ tịch, cho dù đó là hoạt động chủ
động sáng tạo của chủ thể quản lý thì cũng khơng được vượt quá khuôn khổ
pháp luật, điều hành cấp dưới, trực tiếp áp dụng pháp luật hoặc tổ chức những

15


hoạt động thực tiễn…, trên cơ sở quy định pháp luật nhằm hiện thực hóa pháp
luật.
Tính điều hành của hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch thể hiện
trong việc chủ thể có thẩm quyền tổ chức thực hiện pháp luật về hộ tịch trong
đời sống xã hội. Trong q trình đó, các chủ thể này, khơng chỉ tự mình thực
hiện pháp luật mà quan trọng hơn cả chúng đảm nhận chức năng chỉ đạo
nhằm vận hành hoạt động của các cơ quan, đơn vị trực thuộc theo một quy
trình thống nhất; tổ chức để mọi đối tượng có liên quan thực hiện pháp luật
nhằm hiện thực hóa các quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ quản lý.
Thứ năm, quản lý nhà nước đối với hộ tịch là hoạt động mang tính liên
tục.
Quản lý nhà nước đối với hộ tịch ln cần có tính liên tục, kịp thời và
linh hoạt để đáp ứng sự vận động khơng ngừng của đời sống xã hội. Chính
điểm đặc thù này được coi là một cơ sở quan trọng trong việc xác lập quy
định về tổ chức và hoạt động, quy chế công chức của bộ máy quản lý hộ tịch;
tạo ra bộ máy quản lý hộ tịch gọn nhẹ, có sự linh hoạt trong tổ chức, có đội
ngũ cơng chức quản lý hộ tịch năng động sáng tạo, quyết đoán và chịu sự ràng

buộc trách nhiệm đối với hoạt động của mình.
Như vậy, có thể hiểu quản lý nhà nước về hộ tịch là một hình thức hoạt
động của nhà nước, do các chủ thể có thẩm quyền (trước hết và chủ yếu bởi
các cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền) thực hiện trên cơ sở
và để thi hành pháp luật trong lĩnh vực hộ tịch, góp phần vào bảo đảm, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế xã hội.
1.2.4. Chủ thể quản lý nhà nước về hộ tịch
Biểu 1: Hệ thống cơ quan quản lý hộ tịch

16


Là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước ta. Nhiệm vụ,
quyền hạn của Chính phủ trong quản lý hộ tịch được quy định tại khoản 4
Điều 18 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001 là: “Thống nhất quản lý cơng tác
hành chính tư pháp, các hoạt động về luật sư, giám định tư pháp, công chứng
và bổ trợ tư pháp; tổ chức và quản lý công tác thi hành án, quốc tịch, hộ khẩu,
hộ tịch”.
Tuy nhiên, kể từ sau năm 1987, hệ thống tổ chức bộ máy quản lý hộ
tịch ở nước ta được tổ chức theo nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và
theo lãnh thổ. Theo đó, tương ứng với mỗi cơ quan quản lý có thẩm quyền
chung ở một cấp hành chính có một cơ quan chuyên ngành cùng cấp làm
nhiệm vụ giúp cơ quan quản lý thẩm quyền chung thực hiện quản lý hộ tịch.
Nguyên tắc tổ chức hệ thống quản lý hộ tịch này được duy trì ổn định từ khi
xây dựng hệ thống quản lý hộ tịch theo Nghị định số 83/1998/NĐ-CP cho đến
Nghị định 158/2005/NĐ-CP.
17


Và cho đến nay, Luật Hộ tịch 2014 có quy định trách nhiệm của Chính

phủ như sau:
- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về hộ tịch. Bộ Tư pháp giúp
Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch.
- Nội dung quản lý nhà nước về hộ tịch bao gồm:
Ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy
phạm pháp luật về đăng ký và quản lý hộ tịch; tổ chức triển khai thực hiện
pháp luật về hộ tịch;
- Ứng dụng công nghệ thông tin trong đăng ký và quản lý hộ tịch; xây
dựng và quản lý cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử;
- Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp
luật về đăng ký và quản lý hộ tịch;
- Thống kê hộ tịch;
- Hợp tác quốc tế về hộ tịch.
* Bộ Tư pháp:
Là cơ quan được Chính phủ phân cấp quản lý hộ tịch thống nhất trên cả
nước. Để thực hiện sự phân cấp đó, Điều 2 Nghị định số 22/2013/NĐ-CP đã
quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp trong cơng tác quản lý
hộ tịch, trong đó có những nhiệm vụ, quyền hạn vĩ mơ, thể hiện tính chất đặc
thù trong hoạt động quản lý nhà nước của cơ quan này, đồng thời cũng có
những nhiệm vụ mang tính chất tác nghiệp, cụ thể:
Những nhiệm vụ mang tính chất vĩ mô: Hướng dẫn nghiệp vụ về hộ
tịch; ban hành và quản lý thống nhất các biểu mẫu, giấy tờ, sổ sách về hộ tịch,
giải quyết các việc về hộ tịch theo quy định của pháp luật, xây dựng, quản lý,
khai thác cơ sở dữ liệu hộ tịch.

18


Bên cạnh đó, để thực hiện vai trị thống nhất quản lý nhà nước về hộ
tịch, Bộ Tư pháp còn có các nhiệm vụ, quyền hạn mang tính chất tác nghiệp

cụ thể, đó là: Tổng hợp tình hình và số liệu thống kê hộ tịch, báo cáo Chính
phủ theo định kỳ hàng năm; kiểm tra, thanh tra việc về đăng ký và quản lý hộ
tịch; giải quyết khiếu nại, tố cáo về hộ tịch theo thẩm quyền.
* Bộ Công an:
Bộ Cơng an chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao và các bộ,
ngành liên quan thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
Bảo đảm kết nối cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư với cơ sở dữ liệu hộ
tịch điện tử theo quy định của pháp luật;
Bảo đảm an ninh, an tồn thơng tin trong cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử;
Thực hiện các nhiệm vụ khác liên quan đến công tác hộ tịch.
* Bộ Ngoại giao và cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự của Việt Nam
ở nước ngoài.
Việc quản lý hộ tịch đối với bộ phận công dân Việt Nam ở nước ngồi
là một nội dung quan trọng trong cơng tác lãnh sự của các cơ quan đại diện
ngoại giao, lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài.
Để thực hiện việc quản lý hộ tịch với đối tượng này, Bộ Ngoại giao
được giao một số nhiệm vụ quyền hạn:
Bộ Ngoại giao phối hợp với Bộ Tư pháp thực hiện quản lý nhà nước về
hộ tịch tại Cơ quan đại diện và có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Quy định, hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra, thanh tra công tác đăng ký và
quản lý hộ tịch tại các Cơ quan đại diện;
- Tổ chức việc bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch cho viên chức ngoại giao,
lãnh sự;

19


- Lập Sổ hộ tịch để quản lý thông tin hộ tịch của công dân Việt Nam đã
đăng ký tại Cơ quan đại diện;
- Cập nhật, khai thác cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử và cấp bản sao trích

lục hộ tịch theo quy định;
- Tổng hợp tình hình và thống kê hộ tịch của cơ quan đại diện gửi Bộ tư
pháp theo quy định của Chính phủ.
Cơ quan đại diện thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch của cơng dân
Việt Nam cư trú ở nước ngồi và có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Thực hiện việc đăng ký hộ tịch cho công dân Việt Nam cư trú ở nước
ngoài theo quy định của pháp luật về hộ tịch, pháp luật về lãnh sự và điều ước
quốc tế liên quan;
- Bố trí viên chức ngoại giao, lãnh sự thực hiện nhiệm vụ đăng ký và
quản lý hộ tịch tại cơ quan đại diện;
- Quản lý, sử dụng Sổ hộ tịch và biểu mẫu hộ tịch theo quy định;
- Quản lý, cập nhật và khai thác cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử và cấp bản
sao trích lục hộ tịch theo quy định;
- Báo cáo Bộ Ngoại giao nội dung đăng ký hộ tịch để cập nhật vào cơ
sở dữ liệu hộ tịch;
- Tổng hợp tình hình và thống kê hộ tịch báo cáo Bộ Ngoại giao theo
quy định;
- Lưu giữ giấy tờ, đồ vật và chúng cứ khác liên quan đến đăng ký hộ
tịch;
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm về hộ tịch theo thẩm
quyền.

20



×