Tải bản đầy đủ (.docx) (126 trang)

Giáo trình kỹ thuật truyền giống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 126 trang )

HƯỚNG DẪN NGHIÊN CỨU GIÁO TRÌNH

Mơ đun kỹ thuật truyền giống là một môn đun chuyên môn nghề thuộc chương trình
đào tạo hệ nghề Trung cấp thú y.
Là mơ đun cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về chuyển giao khoa học
kỹ thuật tiến tiến vào phương pháp thụ tinh nhân tạo, truyền giống vật nuôi, xác định
thời điểm phối giống thích hợp, phương thức, phương pháp phối giống cho vật ni.
Giáo trình có 5 bài trong đó:
- Bài 1: Tinh dịch và đặc điểm sinh hóa của tinh dịch
- Bài 2: Khai thác tinh dịch
- Bài 3: Kiểm tra phẩm chất tinh dịch
- Bài 4: Pha chế và bảo tồn và vận chuyển tinh dịch
- Bài 5: Kỹ thuật dẫn tinh
Người học được kiểm tra đánh giá 6 lần theo 2 nội dung chính: Đánh giá kiến
thức và kỹ năng.
Phương pháp giảng dạy: Sử dụng phương pháp dạy học lấy người học làm trung
tâm. Giảng giải kết hợp làm mẫu và có ví dụ minh họa bằng hình ảnh thực tế, mơ hình
và rèn luyện kỹ năng thực hành tại trang trại, hộ gia đình... để củng cố kiến thức, nâng
cao kỹ năng nghề cho học sinh.

1


Bài mở đầu: VAI TRỊ VÀ Q TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA MÔN HỌC
TRUYỀN GIỐNG NHÂN TẠO VẬT NUÔI
1. Khái niệm về truyền giống nhân tạo
Trong tự nhiên, chúng ta thường bắt gặp hiện tượng những con đực và con cái gặp
gỡ nhau, giao phối với nhau để đẻ ra động vật non. Về hình thức đó, là biểu hiện sinh lý
bình thường của động vật để duy trì nịi giống. Hoạt động sinh dục để tạo ra đời sau
được thực hiện dựa trên các phản xạ sinh dục mang tính chất tự nhiên và được di truyền
từ thế hệ này qua thế hệ khác. Bản chất của hoạt động duy trì nịi giống đó là sự gặp gỡ


và đồng hóa lẫn nhau giữa các giao tử đực và cái để tạo thành hợp tử, hợp tử sẽ phát
triển thành phôi, thai và trở thành động vật non.
Truyền giống nhân tạo là quá trình đưa tinh trùng đến gặp trứng ở vị trí và thời
gian thích hợp bằng các dụng cụ đặc biệt, do con người thực hiện để xảy ra quá trình thụ
tinh, hoặc là đưa trứng đã được thụ tinh từ cơ thể động vật cái này chuyển sang cơ thể
động vật cái khác mà làm cho trứng đó vẫn phát triển bình thường, cuối cùng sinh ra
động vật non. Quá trình này được thực hiện dựa trên các học thuyết khoa học về sinh lý
sinh trướng, phát triển, sinh lý sinh sản, các học thuyết về gen, di truyền của cơ thể con
đực
và con cái.
Như vậy, truyền giống nhân tạo là q trình nhân giống động vật có sự can thiệp
của con người vào một số công đoạn trong hoạt động sinh lý sinh sản của động vật.
Truyền giống nhân tạo hiểu theo nghĩa rộng bao gồm: Thụ tinh nhân tạo, cấy truyền
phôi, cắt phôi, thụ tinh trong ống nghiệm, nhân bản gen... Các kỹ thuật này cho phép
khai thác tối đa khả năng sản xuất của những con đực và con cái ưu tú phục vụ lợi ích
của con người
2. Cơ sở khoa học của truyền giống nhân tạo
Truyền giống nhân tạo là một phương pháp nhân giống hữu tính động vật, nó
được dựa trên các lý thuyết khoa học sau:
2.1. Lý thuyết về thụ tinh
Bản chất của thụ tinh ở động vật là sự gặp gỡ, đồng hóa lẫn nhau giữa tinh trùng
và trứng ở vị trí và thời điểm thích hợp để tạo thành hợp tử, hợp tử phát triển thành phôi,
thai và sau một khoảng thời gian nhất định thai được hoàn thiện để trở thành cơ thể động
vật non.
Dựa vào bản chất của sự thụ tinh, người ta hồn tồn có thể tạo ra động vật non
khi cho tinh trùng và trứng gặp gỡ nhau ở điều kiện thích hợp mà khơng cần sự tham gia
của con đực vào quá trình đưa tinh trùng đến gặp trứng. Điều đó có nghĩa là con người
có thể làm thay một phần của con đực trong phản xạ giao phối.
2.2. Lý thuyết về sự phát triển của phôi



Trứng sau khi được thụ tinh trở thành hợp tử, hợp tử phát triển thành phôi và di
chuyển đến tử cung làm tổ. Từ đây, quan hệ giữa cơ thể mẹ và phôi, thai được thiết lập
cơ thể mẹ cung cấp chất dinh dưỡng và đào thải những chất cặn bã là sản phẩm trao đổi
chất của phôi, thai ra ngồi. Ở giai đoạn này, cơ thể mẹ khơng có ảnh hưởng gì đến đặc
điểm di truyền của phơi.
Dựa trên hiểu biết về sự phát triển của phôi, người ta hồn tồn có thể lấy phơi ra
từ một cơ thể mẹ này, có thể ni dưỡng phơi trong mơi trường có điều kiện tương tự như
mơi trường tử cung con mẹ đó và cấy truyền vào con cái khác có chu kỳ động dục đồng
pha với con cái cho phôi hoặc tuổi của phôi để sản sinh ra đời con mang tồn bộ đặc tính
di truyền của con bố và con mẹ sinh ra phôi
2.3. Học thuyết về thần kinh của Pavlop
Pavlop cho rằng: Toàn bộ hoạt động của cơ động vật đều được thực hiện thông qua
các phản xạ dưới sự điều tiết của thần kinh và thể dịch. Hoạt động sinh sản của động vật
cũng được thực hiện thông qua hàng loạt các phản xạ sinh dục
Khi nghiên cứu các phản xạ sinh dục của động vật, con người đã dựa vào các
phản xạ sinh dục tự nhiên để thiết lập nên các phản xạ sinh dục có điều kiện, làm cho
hoạt động sinh dục của động vật xảy ra theo ý muốn. Tất cả các quá trình từ khai thác
tinh dịch, dẫn tinh vào đường sinh dục cái, gây động dục đồng pha, siêu bài noãn... đều
phải dựa trên các phản xạ tự nhiên của con đực và con cái. Tuy nhiên, để có các phản xạ
đó, động vật cần phải được luyện tập trong một thời gian và trong một điều kiện nhất
định do con người đặt ra .
Do dựa trên các phản xạ tự nhiên của động vật nên tinh dịch hoặc phôi khai thác
được là sản phẩm hoàn toàn tự nhiên. Việc đưa tinh dịch hoặc phôi vào đường sinh dục
của con cái cũng được thực hiện một cách sinh vật nhất, nghĩa là đưa tinh dịch vào
đường sinh dục cái đúng lúc con cái động dục và có phản xạ chịu đực hoặc đưa phôi vào
tử cung con cái trong điều kiện phù hợp chu kỳ động dục giữa cơ thể cho và nhận phơi
hoặc phù hợp với tuổi của phơi (có sự đồng pha chu kỳ động dục). Tất cả những việc
làm trên khơng được mang tính chất cơ giới, giản đơn mà phải tuân thủ một quy trình
sinh học nghiêm ngặt, phù hợp với sinh lý sinh sản của động vật.

2.4. Học thuyết về gen và di truyền
Kỹ thuật truyền giống nhân tạo được xem như là kỹ thuật bảo tồn gen. Tinh trùng
chỉ sống và thụ thai được hoặc phôi chỉ sống và tiếp tục phát triển được khi tiền nằm trên
nằm trên nhiễm sắc thể trong nhân tế bào cịn sống. Vì vậy cơng tác truyền giống nhân
tạo là một việc làm hết sức khoa học, đảm bảo không ảnh hưởng xấu đến cấu trúc của
gen, giữ nguyên được các tính trạng di truyền của đời trước cho đời sau. Thông qua việc
bảo tồn gen di truyền, người ta hồn tồn có thể giữ tinh dịch hoặc phơi sống trong một
thời gian dài và có thể vận chuyển chúng đi trong những khoảng cách xa, góp phần mở
rộng ảnh hưởng của các giống tốt trên phạm vi lớn.
3. Lợi ích và ý nghĩa của truyền giống nhân tạo


Trong thực tiễn, vì lợi ích của mình, con người ln tìm các biện pháp kỹ thuật
tác động vào vật nuôi nhằm khai thác tối đa sức sản xuất của động vật, đáp ứng ngày
càng tốt hơn các nhu cầu phong phú và đa dạng của con người. Truyền giống nhân tạo
cũng khơng nằm ngồi mục đích đó. Đến nay, người ta hồn tồn thừa nhận vai trị tích
cực của truyền giống nhân tạo bởi vì, truyền giống nhân tạo đã mang lại những lợi ích về
kinh tế, kỹ thuật mà sinh sản tự nhiên không thể nào so sánh được. Lợi ích của truyền
giống nhân tạo được thể hiện trên các khía cạnh sau:
- Nhanh chóng nâng cao tiến bộ di truyền của con đực và con cái tốt cho đời sau,
góp phần nâng cao phẩm giống vật ni một cách tốt nhất, nhanh nhất, kinh tế nhất
thông qua việc tăng nhanh số lượng và chất lượng đàn con sau mỗi lứa đẻ.
- Nâng cao sức sản xuất, tăng cường khả năng chống chịu của vật nuôi với điều
kiện bất lợi, giảm chi phí vận chuyển.
- Nâng cao hiệu quả kinh tế của chăn nuôi do giảm được một số lượng lớn đực
giống phải ni. Ví dụ: Trong thụ tinh tự nhiên, 1 heo đực giống chỉ đảm bảo phối giống
tối đa cho 50 heo cái, nhưng với truyền giống nhân tạo, 1 heo đực giống có thể đảm
nhận được 500 heo cái. Như vậy, chi phí thức ăn ni heo đực giống giảm 10 lần, chi
phí chuồng ni, cơng chăm sóc, vệ sinh thú y đều giảm. dẫn đến giảm giá thành sản
phẩm

chănnuôi
- Tạo thuận lợi cho công tác lai tạo, nhất là khi cần lai tạo giữa con đực có khối
lượng quá lớn so với con cái hoặc giữa các giống khơng có phản xạ sinh dục với nhau.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển động vật giữa các vùng sinh thái
khác nhau.
- Ngăn ngừa một số bệnh lây lan qua đường sinh dục
Nói về ý nghĩa của truyền giống nhân tạo, một số tác giả cho rằng: T
" ruyền giống
nhân tạo là phương pháp nhân giống hữu tính của động vật mà có thể dùng phương pháp
này nâng cao phẩm giống vật nuôi một cách nhanh nhất, tôi nhất, kinh tế nhất, đồng thời
có thể phịng ngừa một số bệnh lây lan qua đường sinh dục”
4. Sơ lược lịch sử phát triển của truyền giống nhân tạo
Thụ tinh nhân tạo ở động vật được người Ả Rập tiến hành từ năm 1332 . nhưng
mãi đến năm 1779, sau khi nhà sinh lý học người Italia Lauro SpHnllazani tiến hành đưa
tinh dịch chó vào âm đạo một chó cái, sau 62 ngày sinh ra 3 chó con, người ta mới coi
đó là cái mốc lịch sử đầu tiên về sự phát triển môn truyền giống nhân tạo. Hơn một thế
kỷ sau, Sir Everett Millais (1884) và Abbrecht (1894) đã lặp lại nhiều lần thí nghiệm của
Lauro SpHnllazani và cho kết quả tương tự
Năm 1890, Repiquet (Pháp) đã thụ tinh nhân tạo thành công trên ngựa, trong khi
đó ở Đức, Hoffman đã mơ tả chi tiết dụng cụ cần thiết và kỹ thuật thụ tinh nhân tạo ở
động vật
Năm 1912, Ivanop (Liên xô cũ) đã thụ tinh nhân tạo thành công cho 31/39 ngựa cái
và sau đó khơng lâu, ơng đã tiến hành thụ tinh nhân tạo cho bò và cừu. Cũng trong thời
gian này, cùng với Milovanop, Kuznetscova và Selivanova, Ivanop đã bắt đầu sử dụng


âm đạo giả để khai thác tinh dịch và công bố các nghiên cứu về đặc điểm sinh lý tinh
dịch
Kỹ thuật thụ tinh nhân tạo cho động vật từ sau năm 1930 được phát triển ở nhiều
nước trên thế giới, ở Nga năm 1938 đã thụ tinh nhân tạo cho 120 nghìn ngựa, 1,2 triệu

con bị và 15 triệu con cừu. Ở Dinạmarca năm 1936, Sorensen đã thành lập hợp tác xã
thụ tinh nhân tạo. Ngay sau năm đầu tiên thành lập, hợp tác xã này đã thụ tinh nhân tạo
cho 1.700 bò với kết quả thụ thai đạt được đạt tới 59%. Nước Mỹ áp dụng thụ tinh nhân
tạo vào năm 1938, nhưng thụ tinh nhân tạo chỉ thật sự phát triển sau đại chiến thế giới
lần II và chủ yếu được áp dụng trên bò.
Sau năm 1945, các nước trên thế giới đã áp dụng thụ tinh nhân tạo cho nhiều loại
gia súc khác nhau. Những nước áp dụng kỹ thuật thụ tinh nhiều trên heo phải kể đến như
Nhật Bản, Pháp, Na Uy, Thụy Sỹ, Bỉ... Đồng thời với việc áp dụng rộng rãi kỹ thuật thụ
tinh nhân tạo, nhiều nước đã triển khai xây dựng các phịng thí nghiệm nghiên cứu sâu
về sinh lý sinh sản, thành phần và cấu tạo của mơi trường pha lỗng, bảo tồn tinh dịch
Từ năm 1960 trở lại đây, các nhà khoa học đã đi sâu nghiên cứu về tính chất vật lý,
hóa học của tinh dịch các lồi động vật; tuổi thành thục về tính và thời gian sử dụng; mơi
trường pha lỗng và bảo tồn tinh dịch; bội số pha loãng, liều dẫn và số lượng tinh trùng
cần thiết trong một liều dẫn; nghiên cứu các phương pháp bảo tồn tinh dịch, đặc biệt là
bảo tồn ở dạng đông lạnh.
Kỹ thuật thụ tinh nhân tạo thực sự được coi là biện pháp truyền giống tiên tiến và
áp dụng rộng rãi ở hầu hết các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước tư bản lớn như:
Anh, Pháp, Mỹ, Nhật, các nước Đông Âu và Liên Xô cũ. Kỹ thuật thụ tinh nhân tạo cho
bò đã đạt được nhiều thành công lớn cả trên lĩnh vực khoa học và kinh tế. Hiện nay, kỹ
thuật này được áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Với phương pháp bảo tồn tinh dịch bị
ở dạng đơng lạnh, người ta có thể kéo dài thời gian sống của tinh trùng từ 10-20 năm và
có thể vận chuyển đi xa hàng vạn km. Nhờ sự tiến bộ của kỹ thuật bảo tồn tinh dịch, có
nước đã thành lập các ngân hàng tinh dịch nhằm dự trữ và cung cấp các giống quý hiếm
có sức sản xuất cao.
Cùng với sự phát triển của kỹ thuật thụ tinh nhân tạo cho bò. Kỹ thuật thụ tinh
nhân tạo ở heo cũng có những bước phát triển nhanh. Nhiều nước trên thế giới đã áp
dụng khá phổ biến kỹ thuật thụ tinh nhân tạo trên heo. Ở Cộng hịa dân chủ Đức trước
đây, có tới 70% số heo nái được phối giống bằng thụ tinh nhân tạo; ở Nhật có tới 80%
heo nái được thụ tinh nhân tạo.
Ngoài ra, kỹ thuật thụ tinh nhân tạo cũng được áp dụng trên nhiều loài động vật

khác nhau như: trâu, ngựa, dê, cừu, thỏ, gia cầm, cá ...
Ở Việt nam, kỹ thuật thụ tinh nhân tạo được áp dụng từ năm 1958, chủ yếu là đối
với heo. Từ năm 1960, do yêu cầu của sản xuất và được sự giúp đỡ của chuyên gia Liên
xô (cũ), công tác thụ tinh nhân tạo được nghiên cứu có hệ thống và phát triển mạnh mẽ
hơn. Các cơ sở thụ tinh nhân tạo đã được thành lập ở một số vùng như Gia Lâm, Văn
Điển, Thụy Phương. Cho đến nay, xuất phát từ thực tế sản xuất và tiếp thu các thành tựu


khoa học trên thế giới, công tác thụ tinh nhân tạo ở Việt nam đã đạt được một số kết quả
nhấtđịnh.
- Đối với heo: Đã nghiên cứu quá trình hình thành khả năng thụ thai của tinh trùng
heo đực thời gian bắt đầu sử dụng, thời hạn và chế độ sử dụng, chế độ ni dưỡng, chăm
sóc, phương pháp lấy tinh, kiểm tra phẩm chất tinh dịch, môi trường pha loãng và bảo tồn
tinh dịch; phát hiện động dục ở heo cái, xác định thời điểm phối giống thích hợp, liều phối
và số lượng tinh trùng trong một liều phối, các dụng cụ dẫn tinh... Đối với trâu, bò đã tiến
hành thụ tinh nhân tạo cho trâu, bò; nghiên cứu các đặc điểm sinh hóa học của tinh dịch
trâu, bị; các mơi trường pha lỗng, bảo tồn tinh dịch và phương pháp bảo tồn tinh dịch ở
dạng đơng lạnh... Ngồi ra, cơng tác thụ tinh nhân cho các lồi gia súc, gia cầm khác cũng
được đẩy mạnh.


Bài 1: TINH DỊCH VÀ ĐẶC ĐIỂM SINH HÓA CỦA TINH DỊCH
I. Mục tiêu
- Cấu tạo giải phẫu và chức năng sinh lý của cơ quan sinh dục đực. Khái niệm về
tinh dịch và đặc điểm sinh hoá của tinh dịch.
- Giúp học viên nhắc lại sơ bộ về đặc điểm giải phẫu và sinh lý của cơ quan sinh
dục đực. Đi sâu nghiên cứu về tinh dịch và đặc điểm sinh hố của tinh dịch.
- Có thái độ đúng đắn, nghiêm túc khi học
II. Nội dung
A. SINH LÝ SINH DỤC ĐỰC

1. Sơ lược giải phẫu và chức năng sinh lý của cơ quan sinh dục đực
Cơ quan sinh dục đực gồm có: bao dịch hồn (scrotum), dịch hồn (testis), dịch
hoàn phụ (epididymidis), các tuyến sinh dục phụ như tuyến tiền liệt (prostate gland),
tuyến túi củ hành - niệu đạo (cowper hoặc bulbourethral gland), tuyến tinh nang
(vesicular semen gland); dương vật (penis) và bao dương vật.
1.1. Bao dịch hoàn
Nằm ở vùng bẹn và hướng về đáy chậu tùy theo từng lồi. Bao dịch hồn có
hình thái bên ngồi cũng khác nhau tùy theo loài động vật. Ở ngựa, bao dịch hồn lồi
lên và được chia thành hai thùy trịn bởi một rãnh ít nhiều rõ rệt.
Ở động vật nhai lại, bao dịch hồn có dạng hình trứng, được chia thành hai
thùy, dẹt từ phía trước về phía sau và được treo trong vùng bẹn.
Ở heo bao dịch hoàn nằm ở phần sau của vùng bẹn, dưới hậu mơn. Nó tạo
thành một khối lồi hình bán cầu và chia thành hai thùy khơng rõ ràng.
Ở chó, bao dịch hồn làm thành một khối hình trứng, khơng treo lủng lẳng như
heo và động vật nhai lại, chia thùy rõ ràng và hướng về phía sau của vùng bẹn, trong
khi đó, bao dịch hồn của mèo tạo thành khối khơng nổi gồ rõ ràng, chia thùy khơng
rõ; bao dịch hồn của thỏ nằm ở vùng bẹn, làm thành hai khối phân tách nhau rõ ràng
.
Bao dịch hoàn được tạo thành bởi 6 lớp màng. Trong đó 2 lớp bề mặt được tạo
thành từ lớp bìu và cơ dartos (cơ chun), 3 lớp phía trong cùng được tạo bởi cơ bìu, lớp
sợi là lớp tinh mạc. Lớp trung gian (lớp giữa) là lớp áo cellulose.
Lớp bìu là túi da chung cho cả 2 dịch hồn, da của lớp bìu mỏng, nhẵn và dính
chặt vào cơ dartos, điều này giúp cho bao dịch hồn có thể nâng lên hoặc hạ xuống.
Ở cừu, lớp da bìu thường xuyên được bao phủ một lớp lông tơ; ở dê, được bao phủ
những lơng thơ; ở mèo, da bìu có nhiều lơng và ở thỏ, da bìu được bao phủ bởi những
lơng dài. Ngồi ra, trên bề mặt của da bìu cịn có các tuyến mồ hơi và tuyến mỡ.
1.2. Dịch hoàn


Dịch hồn hay cịn gọi là tinh hồn có 2 chức năng: Nội tiết (tiết ra các hormon

sinh dục) và ngoại tiết (tiết ra tinh trùng). Tất cả các giai đoạn phát triển của tế bào
sinh dục đực đều xảy ra ở dịch hồn.
- Cấu tạo: Dịch hồn có hình trứng, một cạnh lõm, kích cỡ thay đổi theo lồi.

Các loài động vật nhai lại loại nhỏ và heo, dịch hồn có kích thước tương đối lớn so
với cơ thể động vật. Nhìn chung dịch hồn bên trái lớn hơn dịch hồn bên phải. Khối
lượng trung bình của dịch hồn ở động vật trường thành thay đổi theo cá thể và giống:
ở ngựa khoảng 300-600g; bò 600-700g; cừu 300-600g; heo 300-800g; chó 6-60g và
mèo 2g. Dịch hồn được bao bọc bởi một lớp màng sợi dai và không co giãn gọi là
màng trắng. Từ màng trắng của dịch hoàn phát ra một loạt phiến liên kết chia nhu mô
của dịch hồn thành các thùy (hay ơ dịch hồn), đồng thời làm giá đỡ cho các mạch
máu và thần kinh. Nhu mơ có dạng bã, màu vàng và màu thẫm nhiều hoặc ít tùy lồi.


Tế bào Sertoli có vai trị làm nơi bám, bảo vệ và dinh dưỡng cho tế bào tinh trong quá trình
hình thành tinh trùng
- Tế bào Leydig có chức năng sản xuất ra hormon quyết định các đặc tính sinh
dục thứ cấp của con đực (các steroid), baogồm:
+ Androgen (chủ yếu là testosteron): Có tác dụng biệt hóa đường sinh dục đực
trong thời kỳ phôi và làm xuất hiện các phản xạ sinh dục thứ cấp, có tới 95% testosteron
của dịch hồn được tìm thấy trong máu
+ Các androgen khác chỉ do dịch hoàn sản xuất ra.
1.3. Dịch hoàn phụ
Dịch hồn phụ cịn được gọi là mào tinh hay thượng dịch hồn. Nó là một thể kéo
dài, có hình ngoằn ngoèo (hình giun), bao phủ lên chiều dài cạnh trên của dịch hoàn (ở
loài dịch hoàn nằm ngang như ngựa) và nằm trên chiều dài cạnh sau của dịch hoàn ( ở
các loài dịch hoàn nằm thẳng đứng như heo, trâu,bị).
Dịch hồn phụ gồm có 3 phần:
- Đầu (thể đỉnh của dịch hồn phụ): Phình lên, đính rất chặt với dịch hoàn, đây là
nơi tập hợp của những ống dẫn tinh ra.

- Thân: Có hình dẹt, được tạo thành bởi các ống dẫn tinh ngoằn ngoèo, uốn khúc.
Chiều dài của các ống này ở ngựa có thể đạt tới 70-l01cm, heo: l00cm; bị, dê: 60 cm.
Đường kính của ống dẫn tinh khoảng1mm.
- Đi: Là phần phình to của những ống tinh đi ra.
Dịch hoàn phụ được gắn với dịch hoàn bởi dây chằng bẹn. Dịch hoàn phụ rất
phát triển ở bị. Ở heo, dịch hồn phụ lớn, đi của nó được tách rời ra khỏi dịch hồn. Ở
chó, dịch hồn phụ dày và dính sát với dịch hồn. Ở thỏ, đầu dịch hồn phụ uốn cong lại
thành cái móc bao xung quanh đầu trên của dịch hồn và đi tạo thành một thùy tách
rời đầu dưới của dịch hoàn.
1 .4. Ống dẫn tinh ra
Ống dẫn tinh xuất phát từ các ống tinh ở đi dịch hồn phụ, đi lên và vào trong
bao tinh mạc, đi sâu vào xoang bụng qua lỗ của bao tinh mạc. Từ xoang bụng, ống dẫn
tinh uốn cong vào trong và ra phía sau hướng về khung chậu và nằm trên bóng đái, sau
đó nó đi qua hố chậu tới ống thải niệu, liên kết với ống dẫn của tuyến tinh nang tạo thành
ống phóng tinh ống này đổ ra gò tinh.
Ống dẫn tinh bao gồm một lớp màng nhầy được tạo thành từ biểu mô hình trụ phân
tầng giả, một màng cơ tăng cường và một lớp phụ được tạo thành từ nhiều sợi cơ chun.
Ngồi vai trị là đường dẫn tinh dịch trung gian, ống dẫn tinh cũng đóng một vai
trị sinh lý tương tự như vai trị của ống tinh của dịch hồn phụ.Ocytocin và Adrenalin
làm tăng cường các co thắt của ống dẫn tinh. Prostagladin điều tiết sự chuyển tiếp qua
ống dẫn tinh.
1. 5. Các tuyến sinh dục phụ


Các tuyến sinh dục phụ được ghép với bộ máy sinh dục, có chức năng bài tiết
một loạt các chất đi vào thành phần của tinh dịch. Các tuyến sinh dục phụ có vai trị quan
trọng trong hoạt động sinh lý sinh dục đực. Đặc biệt ở ngựa, heo, dịch tiết của các tuyến
sinh dục phụ cịn có một số lượng lớn các chất keo phèn có thể đơng kết lại tạo thành cái
"nút" đóng cổ tử cung sau khi giao phối.
* Tuyến tinh nang

Tuyến tinh nang nằm ở cả hai bên phần kết Thúc của ống dẫn tinh. Tuyến tinh
nang có hình thái giải phẫu khác nhau theo từng lồi động vật.
Ở ngựa, tuyến tinh nang có dạng kéo dài, hình trứng; đầu tận cùng phía sau thu
hẹp lại, đi vào dưới tuyến tiền liệt và nối với đầu tận cùng của ống dẫn tinh ở góc nhọn
để tạo thành ống phóng tinh.
Ở bị, các tuyến tinh nang dày đặc, xếp chặt vào nhau, nổi gồ lên, được phân
thành các thùy, mầu vàng. Những túi tuyến hình hạt nho tạo thành tuyến tinh nang và
cũng chính các túi tuyến này đổ các chất tiết của nó vào một ống chung nối với đầu tận
cùng của ống dẫn tinh cùng bên, ở phía sau, để tạo thành ống phóng tinh.
Ở heo tuyến tinh nang rất lớn, nổi gồ lên và tạo thành một khối kéo dài bao bọc
một phần lớn bàng quang (bóng đái), cổ bàng quang, phần kết thúc của ống dẫn tinh,
tuyến tiền liệt và ngay cả phần trước của tuyến cowper. Do kiểu hang hốc và phân
nhánh, các túi tinh của tuyến tinh nang đổ sản phẩm bài tiết của nó vào niệu đạo, dưới
tuyến tiền liệt qua một ống phóng tinh ngắn và rộng.
Ở chó và mèo khơng có tuyến tinh nang.
Sự phát triển và bài tiết dịch của tuyến tinh nang được điều tiết bởi hormon dịch
hoàn. Tuyến tinh nang bị teo đi sau khi động vật bị thiến hoạn. Số lượng và thành phần
chất tiết của tuyến tinh nang thay đổi theo loài động vật. Ở động vật nhai lại, chất tiết của
tuyến tinh nang giàu fructose và axit xitic; ở ngựa giàu axit xitric; ở heo dịch tiết của
tuyến tinh nang ít fructose, nhưng giàu inositol và ergothionine.
* Tuyến tiền liệt
Tuyến tiền liệt tồn tại ở tất cả các lồi động vật có vú, vị trí của tuyến này nằm ở
cuối ống dẫn tinh, đầu niệu đạo, nằm vắt ngang qua cổ bàng quang và được chia làm hai
thùy. Ở ngựa, tuyến này có màu xám; ở động vật nhai lại, tuyến này nhỏ, màu vàng và
được kéo dài nhiều hoặc ít dưới cơ thắt niệu đạo. Ở heo, tuyến tiền liệt nhỏ, màu trắng,
bề mặt có nhiều núm nhỏ lồi lên và được nối tiếp với lớp tuyến niệu đạo.
Ở chó, tuyến tiền liệt lớn, màu vàng, được phân thành hai thùy, bao tồn bộ cổ
bàng quang và có thể dễ dàng thăm dị qua trực tràng. Ở mèo, tuyến này có thể tích nhỏ
hơn, phân thùy rõ ràng và chỉ bao quanh niệu đạo một cách khơng hồn tồn. Tuyến tiền
liệt phát triển theo tuổi của gia súc, phát triển mạnh đạt kích thước tối đa ở tuổi dậy thì

(puberty), teo đi khi gia súc về già và nó bị tiêu hủy đi sau khi gia súc bị thiến hoạn. Sản
phẩm bài tiết của nó giàu axit amin và những enzym khác nhau, chủ yếu là phosphatase.


* Tuyến củ hành - niệu đạo
Tuyến này còn được gọi là tuyến Mery- Cowper, nó được quan sát thấy ở hầu hết
tất cả các động vật có vú. Hình dạng và thể tích của tuyến này thay đổi theo lồi. Ở ngựa,
tuyến này nằm ở dưới vịng cung ngồi, có hình hạt dẻ, được tách ra về phía trước và hợp
lại nhau ở phía sau và được bao bọc bởi một cơ chịu nén có màu đỏ. Tuyến này ở động
vật nhai lại có hình dáng gần giống như ở ngựa.
Ở heo tuyến này rất lớn, nó tạo thành hai khối kéo dài từ 15-18cm và cân bằng rõ
rệt, đồng thời bề mặt phía trên của nó được bao phủ bởi một cơ dày chịu nén, dễ dàng sờ
thấy qua trực tràng.
Ở chó, khơng có tuyến cowper, nhưng tuyến này rất phát triển ở mèo; ở mèo,
tuyến này tạo thành hai khối hình cầu nằm ở cả hai bên phần kết thúc của niệu đạo vùng
chậu; ở thỏ, tuyến này có dạng hình trứng.


Ống tiết của tuyến Cowper đổ vào ống niệu đạo dưới van u ngồi, dịch tiết của
tuyến này trong suốt, có mùi đặc trưng, có mơi trường trung tính, có tác dụng làm trơn
và rửa sạch niệu đạo trước khi phóng tinh.
Tuyến này mẫn cảm với androgen và thối hóa sau khi gia súc bị thiến hoạn.
1.6. Dương vật
Dương vật gồm 2 phần:
- Phần gốc hay còn gọi là phần cố định nằm trong vùng đáy chậu giữa khum ngồi
và bao dịch hoàn, được bao bọc bởi mạng lưới mao mạch, thần kinh và mô liên kết.
- Phần thân hay còn gọi là phần tự do được thò ra bên ngoài khi dương vật cương
cứng và đưa vào đường sinh dục cái khi giao phối. Trong tình trạng khơng hoạt động,
phần tự do của dương vật nằm trong bao dương vật. Thân dương vật được chia thành hai
phần cân đối nhờ vách ngăn giữa. Phần bụng của dương vật lõm vào tạo thành rãnh niệu

đạo.
Dương vật được tạo thành từ niệu quản dương vật, các thể xốp, thể hổng (thể hải
miên), các tổ chức liên kết huyết quản và các sợi cơ chun. Hình dạng của dương vật thay
đổi theo lồi động vật và phụ thuộc vào hình dạng, tầm quan trọng và sự định vị của
những thành phần khác nhau này. Khi con vật chuẩn bị giao phối, máu từ các đám rối
tĩnh mạch trong và kẽ vách ngăn dồn đẩy vào các xoang của thể xốp gây nên hiện tượng
cương cứng dương vật.
1.7. Bao dương vật
Là một túi da bao gồm một lớp ngoài (lớp da) và một lớp trong mỏng. Lớp trong
chứa các tuyến bã tiết ra một chất nhờn, nhất là khi giao phối. Ở heo, phần trước của bao
dương vật có một cái túi khá phát triển, được chia thành 2 thùy, được mở ra bởi một lỗ
khá chật vào trong xoang qui đầu. Túi này tiết ra một dịch nhờn, mùi hăng lẫn vào trong
nước tiểu.


2. Tinh dịch và các đặc điểm sinh hóa học của tinh dịch.
2.1. Khái niệm tinh dịch
Tinh dịch là sản phẩm hoạt động của bộ máy sinh dục đực khi con đực thực hiện
hoàn chỉnh một phản xạ sinh dục. Tinh dịch gồm hai thành phần: tinh trùng (tế bào sinh
dục đực) và tinh thanh. Tinh trùng là sản phẩm bài tiết của các ống sinh tinh, trong khi
đó tinh thanh là sản phẩm bài tiết của các tuyến sinh dục phụ. Thể tích tinh dịch của một
lần phóng tinh và nồng độ tinh trùng có trong tinh dịch khác nhau giữa các lồi độngvật.
Tỷ lệ giữa thể tích tinh thanh và tinh trùng cũng khác nhau tùy theo loài. Ở heo và
ngựa, các tuyến sinh dục phụ phát triển, có khả năng tiết ra một số lượng lớn tinh thanh.
Vì vậy tinh dịch của chúng có nồng độ tinh trùng tương đối thấp so với các loài khác.
Trái lại, bị, dê, cừu tiết ra tinh dịch có nồng độ tinh trùng cao do trong tinh dịch có ít
chất tiết của các tuyến sinh dục phụ.
Tinh thanh là dịch tiết của các tuyến sinh dục phụ, nhưng sự đóng góp của các
tuyến này vào trong tinh thanh là không giống nhau và nó phụ thuộc vào lồi động vật.
Ví dụ: Trong tinh dịch bò đực, lượng dịch tiết do tuyến tinh nang tiết ra chiếm 40% thể

tích của tinh thanh, trong khi đó, ở heo, lượng tinh thanh do hai tuyến tiền liệt và cowper
tiết ra chiếm từ 55-70%.

Bảng 1. Thể tích tinh dịch , tỷ lệ tinh trùng, tinh thanh và nồng
độ tinh trùng trung bình ở một số lồi vật ni


Lồi vật ni

Thể tích 1
lần xuất tinh (ml)

Tinh trùng
Tin h thanh (%) Nồng độ tinh
(% )
trùng (triệu/ml)

Heo đực ngoại

300 – 500

3

97

20-100

Bị

4-5


10

90

200-600

Ngựa

50-100

2-5

95-98

20-80

Cừu

1–2

30

70

200-500-800

Qua bảng 1 cho ta thấy, thể tích tinh dịch và nồng độ tinh trùng có trong tinh dịch ở
các lồi động vật khơng phụ thuộc vào khối lượng cơ thể, nhưng nồng độ tinh trùng phụ
thuộc chặt chẽ vào phương thức giao phối tự nhiên. Những động vật phối tinh âm đạo

(bị, dê, cừu) có nồng độ tinh trùng cao, đại đa số tinh trùng bị chết ở âm đạo, chỉ có
1/20- 1/30 tinh trùng tiến được vào tử cung. Đây cũng là hiện tượng sinh học nhằm tăng
cường chọn lọc tự nhiên. Trái lại, những động vật phối tinh tử cung, tinh dịch có nồng độ
tinh trùng thấp nhưng vẫn có khả năng thụ tinh cao do điều kiện mơi trường ở cổ tử cung
khá thích hợp với tinh trùng.
2.2. Thành phần hóa học của tinh dịch
Tinh dịch của các loài động vật chứa một lượng lớn nước (từ 90-98%), vật chất
khơ chiếm từ 2-10%. Nhìn chung tinh dịch của các loài động vật giàu protein. Hàm
lượng protein trong tinh dịch bò chiếm tới 5,8%; trong tinh dịch heo chiếm 3,8%. Ngồi
ra, tinh dịch cịn chứa các loại muối khoáng (Na, K, Zn, Cl, Ca, P...), axit carbonic, các
loại đường (fructose, glucose, galactose ) và những chất khác, như: axit xước, axit sialic,
phosphorylcholin, ergothionin, cholin, prostaglandin... và một số enzym. Thành phần các
muối khoáng, đường, các axit hữu cơ và các hoạt chất sinh học là khác nhau tùy theo
lồi động vật Ví dụ: tỷ lệ fructose trung bình trong tinh dịch bị là 970 mg/100 ml, trong
khi đó tỷ lệ này ở heo chỉ là 52 mg/100 ml. Tinh dịch ngựa hầu như khơng có fructose.
Bảng 2. Thành phần hóa học của tinh dịch một số lồi động vật
Thành phần

Tinh dịch heo

Tinh dịch bò

Tinh dịch ngựa

Nước

95,00

90,00


98,00

Protein

3,80

5,80

1,04-2,28

Lipid
Fructose
Axit xitric
Axit lactic
P tổng số
K
Na
Ca
Cl

0,03
0,01
0,13
0,02
0,06
0,10
0,28
0,09
0,33


0,15
0,23-0,87
0,72
0,04-0,06
0,08
0,23
0,28
0,04
0,22

0,04
0,005
0,06
0,03
0,02
0,07
0,07
0,02
0,48


2.3. Sự hình thành tinhtrùng
Tinh trùng được hình thành trong ống sinh tinh nhỏ của dịch hoàn. Những ống
sinh tinh này có hình dạng ngoằn ngo, đường kính khoảng 200μ trong đó lịng ống có
đường kính khoảng 80μ các đầu tận cùng của các ống sinh tinh đổ ra lưới tinh. Số lượng
ống tinh biến động theo sự phát triển của dịch hồn và sự phát triển của mơ kẽ. Thành
ống sinh tinh được cấu tạo gồm một màng bao, những tế bào đỡ (tế bào Sertoli) và
những tế bào tinh. Quá trình hình thành tinh trùng bắt đầu từ thời điểm phân chia của
tinh bào nguyên thủy. Tuy nhiên, ở thời kỳ bào thai đã xảy ra sự phân chia của tinh bào
nguyên thủy, nhưng sự phân chia này khơng dẫn đến sự hình thành tinh trùng.

Sự hình thành tinh trùng xảy ra mạnh mẽ khi con đực đến tuổi thành thục về tính
(ở heo nội: 5-6 tháng tuổi; heo ngoại: 6-8 tháng tuổi; bò: 8-12 tháng tuổi; dê,cừu: 6 tháng
tuổi; trâu: 1,5-2 năm tuổi; chó:6-8 tháng tuổi...). Quá trình hình thành tinh trùng được
chia thành 4 giai đoạn: sinh sản, sinh trưởng, thành thục (chín) và biến thái (biệt hóa)
thành tinh trùng.
* Giai đoạn sinh sản

Hình 1.6. Sơ đồ các giai đoạn hình thành tinh trùng
Được tiến hành trong thành của ống sinh tinh. Các tế bào tinh nguyên thủy phân
bố trong thành ống sinh tinh theo từng/lớp (có tới 10 lớp), càng chín chúng càng tiến dần
vào trong lòng ống tinh tạo thành những lớp tinh dồn đẩy nhau như những lớp sóng mà
người ta gọi là "sóng tinh". Ở giai đoạn này, các tế bào tinh (tinh nguyên bào) tiến hành
phân chia. Tinh nguyên bào phân chia gián phân liên tục để có thể cho ra 10 thế hệ hoặc
hơn các tế bào con mang bộ nhiễm sắc thể lưỡng bội(2n).
* Giai đoạn sinh trưởng


Sau nhiều lần phân chia nguyên nhiễm, một phần nhỏ các tinh nguyên bào bước
sang giai đoạn sinh trưởng để tăng về thể tích và biến thành các tinh bào sơ cấp
(spermatocyte I) có bộ nhiễm sắc thể giống bố mẹ (2n). Giai đoạn này, các tế bào tinh
tăng thể tích khoảng 4 lần, đồng thời trong nhân tế bào xảy ra quá trình tổng hợp ADN
và các nhiễm sắc thể tiếp hợp vớinhau.
* Giai đoạn chín (thành thục)
Diễn ra 2 quá trình phân bào liên tiếp. Lần phân chia thứ nhất là phân bào giảm
nhiễm (méiose) cho ra 2 tinh bào thứ cấp (spermatocyte II). Ngay sau lần thứ nhất, các
tinh bào thứ cấp lại tiếp tục phân chia gián phân (mitose) để hình thành các tiền tinh
trùng (spermatid) có bộ nhiễm sắc thể đơn bội. Như vậy, từ một tinh bào sơ cấp
(spemlatocyte I) có bộ nhiễm sắc thể lưỡng bội (2n) đã sinh ra 4 tiền tinh trùng có bộ
nhiễm sắc thể đơn bội (n). Tinh bào thứ cấp và tiền tinh trùng được phân bố sát mặt
trong giáp với lòng ống sinhtinh.

* Giai đoạn biến thái (biệt hóa)
Các tiền tinh trùng trải qua những biến đổi về hình thái và chức năng để có thể
vận động độc lập và trở thành tinh trùng, có 3 phần phân biệt rõ ràng: Đầu, có- thân và
đi.
Sau khi biến thái, tinh trùng vận động đi vào trong ống tinh, đến đầu dịch hồn phụ,
sau đó theo ống dẫn tinh thẳng vào đi dịch hồn phụ. Ở đó, tinh trùng trải qua giai đoạn
thành thục sinh lý và màng tinh trùng được bao bọc bởi một lớp vỏ bảo vệ bằng
lipoprotein, mang điện tích âm và chúng có khả năng hấp thu đường.
Đi dịch hồn phụ có mơi trường toan tính (pH=5,7) là nơi dự trữ tinh trùng. Ở
đây tinh trùng có thể sống được từ 2-3 tháng, nhưng khả năng thụ thai chỉ có thể duy trì
được trong vịng một tháng.
Trong điều kiện dinh dưỡng đầy đủ, sự hình thành tinh trùng xảy ra liên tục. Tốc độ
hình thành tinh trùng rất lớn. Ví dụ: số lượng tinh trùng được sản xuất ra của lg dịch
hồn bị đực trưởng thành trong một ngày đêm từ 10 - 19 triệu; chỉ tiêu này ở heo đực là
24 - 31 triệu.
Quá trình hình thành tinh trùng có một số điểm khác q trình hình thành trứng đó
là: Giai đoạn sinh trưởng của trứng kéo dài hơn và được chia thành hai thời kỳ: sinh
trưởng ít và sinh trưởng nhiều.
- Tế bào trứng sơ cấp (ovocyte I) lớn hơn nhiều so với tinh bào sơ cấp
(spermatocyteI).
- Khơng có giai đoạn biến thái của tế bào trứng (tế bào trứng khơng có khả năng
tự vận động)
- Từ một ovocyte I chỉ tạo thành 1 tế bào trứng chín, nhưng từ một spermatocyte
1 tạo thành 4 tinh trùng
- Trứng chỉ được sinh ra một lần trong một chu kỳ, trong khi đó tinh trùng được
sinh ra một cách liên tục kể từ khi con đực thành thục về tính.


Thời gian cần thiết để sản xuất tinh trùng là một đại lượng ổn định đối với từng
loài động vật, nhưng tần số giao phối có thể làm thay đổi tốc độ vận động của tinh trùng

trong các ống tinh của phần đi phụ hồn. Tăng cường chế độ dinh dưỡng chỉ làm tăng
số lượng tinh trùng trong một lần phóng tinh do sự tăng số lượng các ống sinh tinh.
Ngoài chức năng ngoại tiết là tiết ra tinh trùng, dịch hồn cịn tiết ra các hormon
sinh dục Androgen và Testosteron. Những hormon này kích thích hình thành các đặc
tính sinh dục thứ cấp ở động vật, như màu sắc của lông gà trống, sự phát triển của bộ cơ,
xương... Ngồi ra, nó cịn kích thích q trình trao đổi chất.
2.4. Hình thái và cấu tạo của tinh trùng
Tinh trùng là một tế bào sinh dục nhỏ và kéo dài. Cấu tạo tổ chức của nó phức
tạp và chỉ quan sát rõ bằng kính hiển vi điện tử. Về kích thước, tinh trùng bị có chiều dài
xấp xỉ 70μ; ngựa: 60μ; heo: 50μ; Thể tích trung bình của tinh trùng dao động từ 60125μm3 và nhỏ hơn từ 10-20 nghìn lần so với thể tích của trứng.
Về cấu tạo đại thể, tinh trùng gồm 3 phần chính: Đầu, cổ thân và đuôi. Phân đuôi
được chia thành ba phần: trung đoạn, đi chính và đi phụ.
2.4.1. Đầu
Đầu là phần chính của tinh trùng, có hình dạng thay đổi theo lồi: Hình dạng kéo
dài ở ngựa; hình chùy ở cừu, dê và heo; hình quả lê ở động vật ăn thịt và thỏ; hình liềm ở
chuột và chim.
- Phần ngồi cùng của đầu tinh trùng là màng sinh chất được cấu tạo bởi các phân
tử lipoprotein. Các phân tử này xếp xen kẽ nhau với khoảng cách120A0
- Nhân: Ngoài cùng của nhân là màng nhân, phía trước gắn với thể arcosome tạo
thành mũ chóp trước, phía sau gắn với màng ngồi của tinh trùng. Thành phần của nhân
chủ yếu là chromatine đặc, đồng nhất mà nó bao gồm ADN và các protit thuộc nhóm
protamin.
- Thể acrosome: Nằm bên trong màng sinh chất và ở phía đỉnh đầu tinh trùng, vì
vậy người ta cịn gọi là thể đỉnh. Màng trước của acrosome dính sát với màng ngồi của
tinh trùng và màng sau dính với màng nhân làm thành mũ chóp trước của tinh trùng.
Dịch chứa trong thể acrosome là một thể dịch đặc, đồng nhất trong thành phần của nó có
các enzym cần thiết cho quá trình thụ tinh giữa trứng và tinh trùng. Phần phía trên của
thể acrosome chứa enzym hyaluronidase có tác dụng phá hủy vành phóng xạ của tế bào
trứng, trong khi đó phần sau của thể acrosome chứa enzym acrosine có vai trị trong việc
chọc thủng vùng trong suốt của tế bào trứng. Ngồi ra, thể acrosome cịn chứa các

enzym phosphatase axit, esterase, hydrolaseaxit.
Thể acrosome của tinh trùng rất dễ bị biến tính bởi các tác nhân lý, hóa và cơ học.
Các tác nhân đó dễ làm cho màng của thể acrosome biến tính, dẫn đến dịch acrosome bị
thẩm xuất ra ngồi và tinh trùng khơng cịn khả năng thụ thai.


Do vai trò quan trọng của thể acrosome đối với q trình thụ thai nên ngồi các
chỉ tiêu thơng thường dùng để đánh giá phẩm chất tinh dịch, người ta đã sử dụng chỉ tiêu
đánh giá phẩm chất thể acrosome thơng qua sự phát sáng của nó trong mơi trường acrota.
Cần chú ý rằng, enzym hyaluronidase khơng có tính đặc hiệu cho từng loài động
vật, do vậy, trong pha chế, bảo tồn tinh dịch, có thể tổng hợp và cho thêm enzym này vào
môi trường để ngăn ngừa sự thẩm xuất của nó ra ngồi, góp phần nâng cao khả năng thụ
thai. Ở một số loài động vật (loài gặm nhấm), người ta thấy enzym hyaluronidase khơng
đóng vai trị quan trọng trong quá trình thụ thai, bởi vì khi quan sát các tế bào tinh trùng
xuyên qua màng phóng xạ chúng vẫn cịn ngun thể acrosome. Điều đó chứng tỏ tinh
trùng đã xun qua màng phóng xạ bằng chính sự vận động của nó khi những lớp keo
liên kết các tế bào hạt của màng phóng xạ lỗng dần ra.
2.4.2. Cổ-thân
Cổ - thân là vùng phức hợp do nguyên sinh chất dồn ép tạo thành. Trong phần cổthân có hai loại cặp hạt là cặp hạt trung tâm và 9 cặp hạt bên. Ở động vật có vú, hạt bên


có hình nón cụt, đầu tận cùng của nó mở ra bao quanh hạt trung tâm và đính với màng
nucleic của nhân. Từ cặp hạt trung tâm này xuất phát ra hai sợi trục chính đi về phía
đi.

Từ 9 cặp hạt bên xuất phát ra 9 cặp sợi bên, được phân chia thành từng đoạn sáng
tối xen kẽ nhau, đi theo hình xoắn trơn ốc về phía đi. Bao xung quanh các sợi bên là
hệ thống ty lạp thể.
Phần cổ thân của tinh trùng chứa nhiều loại enzym oxy hóa-khử giúp cho tinh
trùng trao đổi chất. Các enzym này chủ yếu là Phosphatase, Transferase. Ngồi ra, phần

cổ thân có chứa phospholipid có tác dụng cung cấp năng lượng cho tinh trùng hoạt động.
Thành phần chủ yếu của phospholipit là plasmanogen và leucitin.
2.4.3. Đuôi
Đuôi tinh trùng được chia thành 3 phần chính bao gồm:
- Trung đoạn: Bắt đầu từ các hạt bên và kết Thúc ở chỗ dày lên của màng đi về
phía dưới. Nhìn theo thiết diện ngang từ trong ra ngồi: chính giữa là 1 cặp sợi trục
trung tâm, xung quanh có có 9 cặp sợi trục ngoại vi (sợi bên). Bao bọc các sợi bên là
những thể hạt (ty lạp thể) và một lớp nguyên sinh chất mỏng (protoplasma). Lớp ngoài
cùng bao bọc phần trung đoạn là lớp màng sinh chất.
Giữa các sợi bên và sợi trung tâm có các sợi tơ nhỏ liên kết chúng với nhau theo
mối liên kết "nan hoa" và giữa các vòng xoắn của các sợi bên cũng có các sợi tơ nối
chúng với nhau theo kiểu liên kết "bắt tay". Bản chất của các sợi tơ này là các sợi fibrin.


- Đi chính : Là phần dài nhất của đi. Ngồi cùng là màng sinh chất, ở giữa có
một cặp sợi trung tâm và xung quanh có chín cặp sợi trục ngoại vi (sợi bên) tạo thành hai
lớp, xung quanh những cặp sợi này được bao bọc bởi một lớp ty lạp thể. Khoảng cách giữa
sợi trục trung tâm và sợi bên sát nhau hơn so với phần trung đoạn.
- Đi phụ: Khơng có màng sinh chất bên ngồi, các sợi trục bên khơng tạo
thành vịng xoắn nữa mà chúng được giải phóng ra thành chùm tơ đi giúp cho tinh
trùng vận động và chuyển hướng được dễ dàng.
Cấu trúc bên trong của các sợi trục và bản chất hóa học của protein của các sợi
vẫn còn đang được nghiên cứu. Nhiều tác giả nhận thấy sự giống nhau giữa sự vận động
của tinh trùng với sự co rút của cơ và giữa một vài protein của tinh trùng với những
protein của myosine. Bằng những phép thử hóa tế bào đã chứng minh sự có mặt của
Adenosine-triphosphate ở những sợi trục, từ đó người ta khẳng định axit phosphoric
tham gia vào sự trao đổi chất và vận động của tinh trùng.
2.5. Tinh thanh và các đặc điểm sinh hóa học của tinh thanh
2.5.1. Chức năng của tinh thanh trong hoạt động sinh lý sinh dục
Tinh thanh là dịch tiết của phụ hoàn và các tuyến sinh dục phụ. Dịch tiết này gần

như trung tính và đẳng trương. Trên phương diện sinh hóa học, tinh thanh rất cần thiết
cho sự sống và hoạt động của tinh trùng. Thành phần và số lượng tinh thanh biến động
theo lồi động vật. Nhìn chung, tinh thanh có những chức năng chính sau đây :
- Rửa sạch ống niệu sinh dục con đực và đường sinh dục cái trước khi phóngt inh.
- Hoạt hóa tinh trùng, làm cho tinh trùng có khả năng vận động. Pha loãng và
cung cấp chất dinh dưỡng cho tinh trùng.
2.5.2. Thành phần hóa học và vai trị của các hoạt chất sinh học trong tinh thanh.
Tinh thanh được chia thành hai phần chính là nước và vật chất khơ (VCK) - Vật
chất khơ có trong tinh thanh gồm những thành phần vô cơ và hữu cơ khác nhau. Các
thành phần vơ cơ gồm có các chuồn như là: K+, Na+, Ca 2+, Mg2+ và các anion, như :
Cl- và PO43-. Trong khi K+ và Mg2+ có tác dụng làm tăng sức sống của tinh trùng thì
Ca2+ và kim loại nặng khác có tác dụng ngược lại.
Vật chất hữu cơ có trong tinh thanh gồm: Protein, các axit béo, các đường đơn (chủ
yếu là fructose), axit xitric, lactic và các hoạt chất sinh học khác, như là: ergothionin,
inositol, phosphorylcholin, glycerylphosphorylcholin (GPC) và các enzym. Thành phần
và hàm lượng các chất hữu cơ có trong tinh thanh cũng khác nhau tùy theo loài động vật.
Những chất hữu cơ này rất cần thiết cho sự sống và hoạt động của tinh trùng. Sự tiết các
chất này được điều tiết bởi testosteron dịch hoàn. Chúng biến mất sau khi gia súc bị thiến
hoạn và được xuất hiện trở lại sau khi tiêm kích tố testosteron.
Trong các hoạt chất sinh học của tinh thanh, có những hoạt chất sau đóng vai trị
quan trọng trong hoạt động sống của tinh trùng:
* Phosphorylcholin và glycerylphosphorylcholin (GPC)
Trên thực tế, hai sản phẩm này là hợp chất của photpho liên kết với cholin có trong
tinh thanh.



×