Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ “PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGUỒN NGUY HIỂM CAO ĐỘ GÂY RA”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (715.47 KB, 16 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÀI TẬP HỌC KỲ
MÔN
LUẬT DÂN SỰ MODULE 2

HỌ TÊN

:

MSSV

:

LỚP

:

Hà Nội, Tháng 11 năm 2019

1


MỞ ĐẦU
Ngày nay sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật, những thành tựu
mới của cơng nghiệp hóa, cơ giới hóa đã làm thế giới ngày càng văn minh,
hiện đại hơn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy nó cũng kéo theo sự gia tăng các tai
nạn mang tính khách quan nhiều khi nằm ngoài sự chi phối, điều khiển của
con người, đe dọa tới sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản… của các
chủ thể trong xã hội. Có những sự vật như máy móc, phương tiện, hệ thống


điện, dây chuyền sản xuất trong nhà máy… bản thân hoạt động của nó ln
tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại cho môi trường xung quanh. Mặc dù con người
ln tìm mọi cách kiểm sốt, vận hành nó một cách an tồn nhưng vẫn có
những thiệt hại khách quan bất ngờ có thể xảy ra nằm ngồi sự kiểm sốt đó.
Trong khoa học pháp lý xuất hiện thuật ngữ “nguồn nguy hiểm cao độ” để chỉ
những sự vật như vậy. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
là loại trách nhiệm đặc biệt bởi lẽ thiệt hại xảy ra không phải do hành vi và do
lỗi của con người mà do hoạt động của những sự vật mà hoạt động của chúng
luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại. Mặc dù chủ sở hữu hoặc người chiếm
hữu nguồn nguy hiểm cao độ có thể khơng có lỗi đối với thiệt hại nhưng để
bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho người bị thiệt hại, pháp luật vẫn buộc họ có
trách nhiệm bồi thường.
Như vậy, “nguồn nguy hiểm cao độ” là gì? Luật pháp đã có những quy định
như thế nào về trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra? Thực tiễn giải quyết bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra như thế nào? Xuất phát từ những lý do trên nên em chọn đề bài số 19
“PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH
NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGUỒN NGUY HIỂM CAO ĐỘ
GÂY RA” để làm bài tập học kỳ của mình.

2


NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI DO NGUỒN NGUY HIỂM CAO ĐỘ GÂY RA THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM

1.1


Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm

cao độ gây ra
1.1.1 Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ
Bản thân loại tài sản luôn chứa đựng tiềm ẩn những nguy hiểm khách quan,
con người khơng thể kiểm sốt tuyệt đối, dễ xảy ra những thiệt hại ở mức độ
lớn cho những người xung quanh như: nguyên, nhiên liệu (nguy hiểm khả
năng cháy nổ), phương tiện cơ giới (nguy hiểm tốc độ), thú dữ (nguy hiểm
tính hoang dã).
Về khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ, tại khoản 1 điều 601 Bộ luật Dân sự
năm 2015 không đưa ra khái niệm mà chỉ liệt kê các đối tượng được coi là
nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm: “Phương tiện giao thông vận tải cơ giới,
hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất
cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do
pháp luật quy định”.
- Đối với “Phương tiện giao thông vận tải cơ giới” bao gồm: phương tiện
giao thông vận tải cơ giới đường bộ, phương tiện giao thông vận tải cơ giới
đường sắt, đường thủy, đường hàng không.
+ Về phương tiện giao thông cơ giới đường bộ: Khoản 18 và Khoản 19 Điều
3 Luật giao thông đường bộ năm 2008 quy định: “18. Phương tiện giao thông
cơ giới đường bộ (sau đây gọi là xe cơ giới) gồm xe ơ tơ; máy kéo; rơ mc
hoặc sơ mi rơ mc được kéo bởi xe ơ tơ, máy kéo; xe mô tô hai bánh; xe mô
tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe tương tự. 19.
Phương tiện giao thông thô sơ đường bộ (sau đây gọi là xe thô sơ) gồm xe
3


đạp (kể cả xe đạp máy), xe xích lơ, xe lăn dùng cho người khuyết tật, xe súc
vật kéo và các loại xe tương tự”. Theo đó, chỉ các phương tiện giao thông cơ

giới đường bộ mới được coi là nguồn nguy hiểm cao độ. Cịn các phương tiện
giao thơng thô sơ đường bộ không được xét là nguồn nguy hiểm cao độ.
+ Về phương tiện vận tải đường sắt: Khoản 26 Điều 3 Luật đường sắt năm
2017 quy định: “26. Phương tiện giao thông đường sắt là đầu máy, toa xe,
phương tiện chuyên dùng di chuyển trên đường sắt”.
+ Về phương tiện giao thông vận tải đường thủy: Khoản 7 Điều 3 Luật đường
thủy nội địa năm 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định: “7. Phương tiện
thuỷ nội địa (sau đây gọi là phương tiện) là tàu, thuyền và các cấu trúc nổi
khác, có động cơ hoặc khơng có động cơ, chun hoạt động trên đường thuỷ
nội địa.”
+ Về phương tiện giao thông vận tải đường hàng không: Khoản 1 Điều 13
Luật Hàng không dân dụng năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định:
“1. Tàu bay là thiết bị được nâng giữ trong khí quyển nhờ tác động tương hỗ
với khơng khí, bao gồm máy bay, trực thăng, tàu lượn, khí cầu và các thiết bị
bay khác, trừ thiết bị được nâng giữ trong khí quyển nhờ tác động tương hỗ
với khơng khí phản lại từ bề mặt trái đất.”
- Đối với “hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động”: Hệ
thống tải điện được hiểu là dây truyền dẫn điện, mô tơ, máy phát điện, cầu
dao,…; nhà máy công nghiệp như nhà máy công nghiệp nặng, công nghiệp
nhẹ…cũng như phương tiện giao thông vận tải cơ giới chỉ được coi là nguồn
nguy hiểm cao độ khi nó đang hoạt động, nghĩa là nếu nó đang ở trạng thái
tĩnh thì khơng tạo nguy hiểm cho những người xung quanh.
- Đối với “vũ khí” bao gồm: vũ khí quân dụng (gồm: súng cầm tay hạng nhỏ,
vũ khí hạng nhẹ, các loại bom, mìn, lựu đạn, các vũ khí khác có tính năng, tác
dụng tương tự như vũ khí quân dụng).
- “Chất cháy, chất nổ”: Chất cháy có đặc tính tự bốc cháy khi tiếp xúc với
ơxy trong khơng khí, nước hoặc dưới tác động của nhiệt như xăng, dầu, cồn,
4



ga…; Chất nổ với khả năng gây nổ mạnh, nhanh tỏa nhiệt và ánh sáng như
thuốc nổ, thuốc pháo, thuốc súng...
- “Chất độc”: là những chất có độc tính cao, rất nguy hiểm cho sức khỏe, tính
mạng của con người, động vật, cũng như đối với môi trường xung quanh.
- “Chất phóng xạ”: là nhân tố sát thương của vũ khí hạt nhân, có khả năng
phát ra những chùm tia phóng xạ khơng nhìn thấy gây bệnh hoặc gây nhiễm
xạ đối với người, động vật và môi trường sống.
- “Thú dữ” là động vật bậc cao, có lơng mao, có tuyến vú, ni con bằng sữa,
lớn, rất dữ, có thể làm hại người. Ví dụ: hổ, báo, sư tử, gấu…
- “Nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định”: Có thể thấy đây là
quy định mở để khắc phục hạn chế của việc liệt kê không đầy đủ các loại
nguồn nguy hiểm cao độ, tuy nhiên hiện nay ngoài quy định tại khoản 1 Điều
601 Bộ Luật Dân sự năm 2015 về nguồn nguy hiểm cao độ thì pháp luật chưa
có bất kỳ văn bản pháp luật nào quy định thêm về nguồn nguy hiểm cao độ
nên gây lúng túng trong việc xác định nguồn nguy hiểm trong độ trong thực
tế.
Như vậy, xuất phát từ đặc điểm của nguồn nguy hiểm cao độ là ln tiềm ẩn
trong nó khả năng gây thiệt hại nên tại Khoản 1 Điều 601 Bộ luật Dân sự năm
2015 cũng quy định: “Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải vận hành, sử
dụng, bảo quản, trông giữ, vận chuyển nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng
quy định của pháp luật”.
1.1.2 Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một
loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng, theo đó chủ sở hữu
hoặc người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi
thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản cũng như bù đắp tổn thất về
tinh thần cho bên bị thiệt hại do tự thân nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, ngay
cả khi khơng có lỗi.
5



1.2

Nguyên tắc bồi thường thiệt hại

Nguyên tắc bồi thường thiệt hại được quy định tại điều 585 Bộ luật Dân sự
năm 2015: “1. Thiệt hại thực tế phải được bồi thường tồn bộ và kịp thời.
Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng
tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường
một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. 2. Người
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu
khơng có lỗi hoặc có lỗi vơ ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của
mình. 3. Khi mức bồi thường khơng cịn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt
hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền u cầu Tịa án hoặc cơ quan nhà nước
có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường. 4. Khi bên bị thiệt hại có lỗi
trong việc gây thiệt hại thì khơng được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của
mình gây ra. 5. Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm khơng được bồi thường
nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn
chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình.”
Từ quy định của pháp luật có thể rút ra các nguyên tắc bồi thường thiệt hại
như sau:
Thứ nhất, thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Tuy
nhiên, pháp luật vẫn cho phép các bên tự nguyện thỏa thuận về mức bồi
thường thiệt hại sao cho phù hợp nhất, đảm bảo cân bằng lợi ích các bên.
Thứ hai, người gây ra thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường thiệt hại
nếu khơng có lỗi hoặc có lỗi vơ ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế.
Thứ ba, khi mức bồi thường khơng cịn phù hợp với thực tế thì bên gây ra
thiệt hại và bên bị thiệt hại có thể u cầu Tịa án hoặc cơ quan nhà nước có
thẩm quyền thay đổi mức bồi thường thiệt hại.

Thứ tư, nếu bên bị thiệt hại cũng có lỗi trong việc để xảy ra thiệt hại thì
khơng được bồi thường phần thiệt hại trong phạm vi lỗi đó.

6


Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ HIỆN HÀNH VỀ BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGUỒN NGUY HIỂM CAO ĐỘ GÂY RA
2.1 Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra
2.1.1 Phải có thiệt hại xảy ra
Thiệt hại được hiểu là những tổn thất thực tế được tính thành tiền, do việc
xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ
chức. Tuy nhiên, thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra không bao gồm
thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. Bởi nguồn nguy hiểm
cao độ gây thiệt hại là do sự hoạt động của các phương tiện cơ giới, do vậy
những thiệt hại gây ra cho người bị thiệt hại là tài sản, sức khỏe, tính mạng.
Hơn nữa, do tính chất nguy hiểm “cao độ” nên nguồn nguy hiểm cao độ có
thể gây thiệt hại cho bất kỳ ai. Có thể là chính chủ sở hữu, người đang chiếm
hữu, vận hành hay cả những người khơng có liên quan đến nguồn nguy hiểm
cao độ. Đối với chủ sở hữu, họ phải tự chịu mọi rủi ro đối với thiệt hại do tài
sản của mình gây ra. Do vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ được đặt ra khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho người
khơng có quan hệ đến nguồn nguy hiểm đó nhằm để bảo vệ quyền được bồi
thường cho những người này.
2.1.2. Thiệt hại do chính hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
Để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì thiệt hại đó phải do tự thân
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Nếu thiệt hại phát sinh do các yếu tố khác tác
động thì chỉ phát sinh nghĩa vụ bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng thơng

thường. Để xác định một thiệt hại có phải do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
hay không cần xác định hai yếu tố:
- Thứ nhất, nguồn nguy hiểm cao độ phải trong trạng thái đang vận hành, hoạt
động. Đối với phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà
máy công nghiệp thì chỉ được coi là nguồn nguy hiểm cao độ khi “đang hoạt
7


động”. Còn trường hợp thiệt hại xảy ra khi nguồn nguy hiểm cao độ đang ở
trạng thái “tĩnh” thì khơng thể coi là thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra.
- Thứ hai, thiệt hại xảy ra do hoạt động tự thân của nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra. Ví dụ xe ơ tơ đang di chuyển thì bị nổ lốp gây thiệt hại, xe ơtơ đang
xuống dốc thì đứt phanh gây tai nạn…nếu thiệt hại liên quan đến nguồn nguy
hiểm cao độ mà không phải do tự thân nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại
thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh thơng thường. Ví dụ: A điều
khiển ô tô vượt đèn đỏ gây tai nạn khiến B bị thương nặng. Trong trường hợp
này, mặc dù ô tô được coi nguồn nguy hiểm cao độ, tuy nhiên thiệt hại xảy ra
không phải do tự thân chiếc ô tô gây nên mà do hành vi vi phạm giao thơng
của người điều khiển gây nên. Vì vậy, trong trường hợp này chỉ phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do xâm phạm tài sản, sức
khỏe, tính mạng người khác. Trường hợp này khơng được coi là thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Tuy nhiên thực tế, trong nguồn nguy hiểm
cao độ luôn ln tiềm ẩn những rủi ro nhất định có thể xảy ra nên có những
sự kiện bất ngờ mà con người khơng thể biết trước và phịng tránh được. Ví
dụ: Do mưa làm cho cột điện bị nhiễm điện, người nào khơng biết đi qua đó
bị nhiễm điện chết. Trong trường hợp này thiệt hại xảy ra là do sự kiện bất
ngờ, bất khả kháng chứ không phải do hành vi của con người gây ra và con
người cũng không sao kiểm sốt và phịng ngừa hiệu quả hết được. Vì thế
khơng phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

2.1.3 Có mối quan hệ nhân quả giữa hoạt động của nguồn nguy hiểm cao
độ và thiệt hại xảy ra
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ được đặt ra khi có mối quan hệ nhân
quả được xác định khi hoạt động tự thân của nguồn nguy hiểm cao độ là
nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại.
2.1.4 Yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra.
8


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phát
sinh ngay cả khi chủ sở hữu hay người sử dụng nguồn nguy hiểm khơng có
lỗi theo quy định tại Khoản 3 Điều 601 Bộ luật Dân sự năm 2015: “3. Chủ sở
hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt
hại cả khi khơng có lỗi”. Tuy nhiên, pháp luật cũng quy định các trường hợp
loại trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại được quy định tại khoản 3 điều 601
Bộ luật dân sự năm 2015: “a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của
người bị thiệt hại; b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc
tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Dấu hiệu quan
trọng nhất để xác định trách nhiệm này là hoạt động của nguồn nguy hiểm cao
độ chính là nguyên nhân trực tiếp, là yếu tố quyết định dẫn đến thiệt hại. Hoạt
động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ có thể hồn tồn khơng có lỗi
của con người hoặc cũng có thể có một phần lỗi của người quản lý, điều
khiển, tuy nhiên lỗi ở đây chỉ đóng vai trị thứ yếu đối với thiệt hại. Nếu thiệt
hại xảy ra hoàn toàn do lỗi, do hành vi của người điều khiển nguồn nguy hiểm
cao độ thì khơng áp dụng trách nhiệm này.
2.2 Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra
Chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm:
- Chủ sở hữu;

- Người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ;
- Người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ
Chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xác định theo quy
định tại khoản 2 điều 601 Bộ luật dân sự năm 2015: “2. Chủ sở hữu nguồn
nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì người này
phải bồi thường, trừ trường hợp có thoả thuận khác”. Và khoản 4 điều 601
Bộ luật dân sự năm 2015: “4. Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm
hữu, sử dụng trái pháp luật thì người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy
9


hiểm cao độ trái pháp luật phải bồi thường thiệt hại. Khi chủ sở hữu, người
chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ có lỗi trong việc để nguồn nguy
hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường
thiệt hại”.
- Thứ nhất, chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra. Bởi lẽ, chủ sở hữu là người trực tiếp nắm giữ, sử
dụng và định đoạt nguồn nguy hiểm cao độ. Chủ sở hữu có trách nhiệm phải
bảo quản, sử dụng, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ cẩn trọng và phải tuân
theo các quy định của pháp luật về việc bảo quản, sử dụng, vận hành đó theo
quy định tại khoản 1 Điều 601 Bộ luật Dân sự năm 2015. Vì vậy, nếu có thiệt
hại xảy ra thì chủ sở hữu là chủ thể có trách nhiệm phải bồi thường.
- Thứ hai, nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng nguồn
nguy hiểm cao độ thì người này có trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại. Trừ
trường hợp giữa chủ sở hữu và người được giao chiếm hữu, sử dụng có thỏa
thuận khác khơng trái pháp luật, đạo đức xã hội hoặc không nhằm trốn tránh
việc bồi thường.
- Thứ ba, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật
phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Nếu chủ sở hữu, người chiếm hữu,

sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao
độ bị chiếm hữu, sử dụng trái phép thì phải liên đới bồi thường thiệt hại. Mặt
khác, trường hợp chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử
dụng nguồn nguy hiểm cao độ để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử
dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.
2.3 Xác định loại thiệt hại được bồi thường, Chủ thể được hưởng bồi
thường thiệt hại và mức bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra
2.3.1 Loại thiệt hại được bồi thường
Thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra bao gồm:
- Thiệt hại về vật chất (tính mạng, sức khỏe, tài sản)
10


- Thiệt hại về tinh thần
2.3.2 Chủ thể được hưởng bồi thường thiệt hại và mức bồi thường
Chủ thể được hưởng bồi thường thiệt hại có thể khơng phải là người bị thiệt
hại.
+ Thiệt hại về sức khỏe: Người bị thiệt hại, người chăm sóc người bị thiệt hại
+ Thiệt hại về tính mạng: Nhân thân người bị thiệt hại, những người mà người
bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng, những người thừa kế thuộc hàng thừa kế
thứ nhất, người trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại hoặc người được người
bị thiệt hại trực tiếp nuôi dưỡng.
+ Thiệt hại về tài sản: Người bị thiệt hại về tài sản
- Đối với tính mạng bị xâm phạm theo quy định tại điều 591 Luật Dân sự năm
2015 thì thiệt hại bao gồm: “1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:
a) Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật
này; b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng; c) Tiền cấp dưỡng cho những người
mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng; d) Thiệt hại khác do luật quy
định. 2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tính mạng của

người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1
Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những
người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu
khơng có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi
dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản
tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận;
nếu khơng thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm
phạm không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”
- Đối với sức khỏe bị xâm hại theo quy định tại điều 590 Bộ luật Dân sự năm
2015 thì thiệt hại bao gồm: “1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:
a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức
năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại; b) Thu nhập thực tế bị mất
hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị
11


thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập
trung bình của lao động cùng loại; c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế
bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu
người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xun
chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị
thiệt hại; d) Thiệt hại khác do luật quy định. 2. Người chịu trách nhiệm bồi
thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi
thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác
để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù
đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu khơng thỏa thuận được
thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm khơng q năm mươi
lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”
- Đối với tài sản bị xâm hại theo quy định tại điều 589 Bộ luật Dân sự năm
2015 thì thiệt hại bao gồm: “1. Tài sản bị mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng. 2.

Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản bị mất, bị giảm sút. 3. Chi
phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại. 4. Thiệt hại khác do
luật quy định”.
Như vậy, ngồi các thiệt hại có thể xác định được thì pháp luật cịn quy định
chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường còn phải bồi thường về tổn thất tinh thần
cho người bị thiệt hại theo các mức được quy định tại khoản 2 điều 590 và
khoản 2 điều 591 Bộ luật Dân sự năm 2015.

12


Chương 3
THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGUỒN NGUY HIỂM CAO ĐỘ GÂY RA
3.1 Những khó khăn, vướng mắc
- Thứ nhất, đó là vấn đề xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trên
thực tế, sự nhầm lẫn giữa bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra và bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra khá phổ biến. Lý do của sự nhầm
lẫn đó là khái niệm “thú dữ” trong nguồn nguy hiểm cao độ và khái niệm “súc
vật” chưa rõ ràng và cụ thể.
- Thứ hai, việc liệt kê “Nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy
định” tại khoản 1 Điều 601 Bộ Luật Dân sự năm 2015 hiện nay chưa có bất
kỳ văn bản pháp luật nào quy định thêm về nguồn nguy hiểm cao độ nên gây
lúng túng trong việc xác định nguồn nguy hiểm trong độ trong thực tế.
- Thứ ba, pháp luật quy định “thú dữ” gây thiệt hại làm phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phải đang chịu
sự quản lý của một chủ thể nhất định, nếu khơng có sự quản lí (ở mơi trường
tự nhiên, thiên nhiên hoang dã) thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại khơng
phát sinh. Trong nhiều trường hợp, như: Voi rừng, Trâu rừng, Báo
đốm…hoang dã vẫn thuộc sở hữu của Nhà nước. Như vậy, trường hợp nguồn

nguy hiểm cao độ trong tự nhiên gây thiệt hại như thú dữ trong rừng tấn công
gây thiệt hại cho người đi rừng, thậm chí chúng có thể vào tận làng, phá
phách nhà cửa của người dân, tấn công người vào ban đêm… thì sẽ khơng ai
phải chịu trách nhiệm bồi thường. Đây cũng được xem là một bất cập trong
các qui định của pháp luật, qua đó đặt ra vấn đề cần phải có những biện pháp
hợp lý hơn trong việc quản lý tài nguyên thiên nhiên để bảo vệ quyền lợi của
người dân.
- Thứ tư, thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp
thiết. Ví dụ: khách bộ hành đang đi trên vỉa hè bị điện giật chết do cột điện
phóng điện khi trời mưa. Cột điện mà phóng điện gây chết người chắc chắn là
13


khơng an tồn, do lỗi của phía cơng ty điện lực. Tuy nhiên, thường thì phía
điện lực giải thích rằng do trời mưa. Mà trời mưa thì hiện tượng phóng điện
có thể xảy ra ở các cột điện, cho dù đơn vị quản lý đã làm hết mọi biện pháp
nhằm bảo đảm an toàn tốt nhất. Do vậy, đây là sự kiện bất khả kháng dùng để
né tránh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của mình. Quy định về sự kiện bất
khả kháng trong Bộ luật Dân sự năm 2015 hiện vẫn cịn chung chung, khó
hiểu. Tại khoản 1 Điều 156 Bộ luật Dân sự năm 2015, quy định về sự kiện bất
khả kháng như sau: “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách
quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp
dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép”. Tại khoản 1 Điều
171 Bộ luật Dân sự năm 2015, tình thế cấp thiết được hiểu như sau: “Tình thế
cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh một nguy cơ đang thực tế đe dọa
trực tiếp lợi ích cơng cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người
khác mà khơng cịn cách nào khác là phải có hành động gây một thiệt hại nhỏ
hơn thiệt hại cần ngăn chặn.”
3.2 Đề xuất giải pháp
- Thứ nhất, bổ sung khái niệm cụ thể về “nguồn nguy hiểm cao độ” tránh

việc liệt kê như hiện nay gây nhầm lẫn và khó xác định trong thực tiễn khi
xảy ra thiệt hại.
- Thứ hai, Pháp luật cần bổ sung quy định về trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước đối với những thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ trong tự nhiên
gây ra cho các chủ thể khác.
- Thứ ba, tăng cường biện pháp giáo dục, tuyên truyền nhằm nâng cao ý
thức pháp luật của người dân về nguồn nguy hiểm cao độ cũng như những
thiệt hại mà nó có thể gây ra để có biện pháp phịng tránh. Vẫn biết những
thiệt hại đó nằm ngồi sự kiểm sốt của con người nhưng nếu mỗi người đều
có trách nhiệm với tài sản của mình như bảo quản, sử dụng cẩn thận, thường
xuyên kiểm tra… thì sẽ phần nào giảm bớt được nguy cơ thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra.
14


KẾT LUẬN
“Nguồn nguy hiểm cao độ” với khả năng tiềm ẩn gây thiệt hại cho con
người và môi trường xung quanh đã làm cho vấn đề bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trở thành vấn đề quan trọng đòi hỏi các nhà
làm luật phải tiếp tục hoàn thiện các quy định sao cho thống nhất để việc áp
dụng được chính xác, cụ thể, bảo vệ một cách đầy đủ và tồn diện quyền và
lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại. Bên cạnh đó, việc hoàn thiện các quy
định của pháp luật về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
sẽ phần nào nâng cao hơn ý thức của chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao
chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ hợp pháp trong việc sử dụng,
vận hành tài sản là nguồn nguy hiểm của mình, nhằm giảm bớt những thiệt
hại đáng tiếc về người và của có thể xảy ra.

15



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam tập II,
Nxb. Công an Nhân dân;
2. Bộ Luật Dân sự năm 2015;
3. Luật giao thông đường bộ năm 2008;
4. Luật đường sắt năm 2017;
5. Luật đường thủy nội địa năm 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2017;
6. Luật Hàng không dân dụng năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2017;
7. PGS.TS Phạm Văn Tuyết, Hướng dẫn môn học Luật dân sự tập 2, Nxb. Tư
Pháp, 2017;
8. Trần Mạnh Hùng, luận văn thạc sĩ Luật học: Trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra và thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân
dân tỉnh Sơn La, 2018;
9. Một số website:
/> /> />
16



×