Tải bản đầy đủ (.pptx) (17 trang)

Bài Nói Và Nghe Tràng Giang.pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (648.25 KB, 17 trang )

NÓI VÀ NGHE:
GIỚI THIỆU VỀ MỘT
TÁC PHẨM NGHỆ
THUẬT


KHỞI
ĐỘNG
TRẢ LỜI CÁC CÂU HỎI SAU


Câu 1: Bài thơ Tràng Giang của Huy
Cận được in trong tập thơ:
A. Vũ trụ ca.

B. Lửa thiêng.

C. Đất nở hoa.

D. Kinh cầu
tự.

ĐÁP ÁN: B


Câu 2: Nỗi niềm thấm đẫm toàn bộ bài
thơ Tràng giang là:
A. Nỗi tuyệt
vọng.   

B. Nỗi hoài


nghi.  
D. Nỗi buồn .

C. Nỗi băn khoăn.
 ĐÁP ÁN: D


Câu 3: Câu thơ nào sau đây chép sai
so với bài Tràng giang của Huy Cận?
A. "Khơng khói hồng
hơn cũng nhớ nhà".

B. "Chim nghiêng cánh
nhỏ:Bóng chiều sa".

C. "Lớp lớp mây cao
đùn núi bạc".

D. "Lòng quê dờn dợn
vời con nước".

 ĐÁP ÁN: D


Câu 4: Trong khổ một bài thơ Tràng
giang của Huy Cận, hình ảnh nào mang
lại dáng vẻ hiện đại của Thơ mới?
A. "Củi một cành
khơ".


C. "Sóng gợn tràng
giang".

 ĐÁP ÁN: A

B. "Thuyền về nước
lại".
D. "Con thuyền xuôi
mái".


Câu 5: Giá trị nghệ thuật của bài thơ
“Tràng giang” thể hiện ở điểm nào?
A. Sử dụng hiệu quả thể
thơ thất ngôn tứ tuyệt.

B. Sử dụng ngôn ngữ
miêu tả đạt hiệu quả cao.

C. Sử dụng thủ pháp tương
phản và từ láy đạt đến sự
điêu luyện.

D. Lời thơ sinh động, giàu
hình tượng và tính gợi tả.

 ĐÁP ÁN: C


ĐỀ BÀI: GIỚI THIỆU VỀ BÀI

THƠ TRÀNG GIANG (HUY
CẬN)


Giới thiệu Tràng Giang
Nhắc tới Huy Cận, người ta nhớ ngay đến
một “hồn thơ ảo não” (Hoài Thanh). Trước
cách mạng tháng Tám 1945, ơng đã góp mặt
vào thơ ca đương thời một nỗi sầu nhân thế,
một cái tôi cô đơn, buồn bã trước dòng đời.
Với sự pha trộn giữa chất cổ điển và hiện
đại, ông đã gửi gắm nỗi niềm ấy trong nhiều
bài thơ, trong đó phải kể đến Tràng giang.
Bài thơ in trong tập “Lửa thiêng” (1940) rất
tiêu biểu cho phong cách thơ Huy Cận.


Vào một buổi chiều thu năm 1939, có một chàng sinh viên
trường Cao đẳng Canh nông, đạp xe dọc theo bờ đê sơng
Hồng, đến tới bãi Chèm – phía Nam dịng sơng, trước cảnh
sóng nước mênh mơng, đã khơng kìm nén nổi cảm xúc buồn
bã, cô đơn và nhớ nhà da diết nên sáng tác bài thơ Tràng
giang. Nhà thơ Huy Cận đã từng tâm sự về hoàn cảnh ra đời
bài thơ như thế. Ban đầu, tác phẩm có tên là “Chiều trên sông”
nhưng về sau đổi thành Tràng giang. Nhan đề này đã chuyển
tải nhiều ý nghĩa hơn. “Tràng giang” là một từ Hán Việt đầy
trang trọng, cổ kính, chỉ một con sông dài. Nhưng nhà thơ
không dùng “trường giang” (có cùng nghĩa) để thay thế, bởi
cách điệp vần “ang” giúp nhan đề vừa gợi âm hưởng ngân
vang, vừa gợi nên cảm giác một dịng sơng khơng những dài

mà còn rộng. Thêm lời đề từ Bâng khuâng trời rộng nhớ sông
dài càng làm rõ hơn sắc thái cảm xúc chủ đạo của bài thơ. Đó
là nỗi buồn của con người trước một khơng gian mênh mơng,
rộng lớn có thể bao trùm cả vũ trụ.


Từ nhan đề và câu thơ đề từ của bài thơ, khổ thơ thứ nhất đã mở ra một không gian sông
nước rộng lớn. Câu thơ mở đầu khổ thơ thứ nhất đã mở ra một hình ảnh sơng nước mình
mang.
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”
Dường như, dịng sơng “tràng giang” Đã xài nay lại vui chảy dài ra hơn với từng đợt sóng
“điệp điệp” cứ nối đi nhau vỗ vào bờ không ngừng nghỉ, không dứt. Những đợt sóng ấy
như trải dài đến vơ tận càng tơ đậm thêm không gian rộng lớn, bao la của sông nước. Và
để rồi, trên cái nền sông nước minh mông ấy, hình ảnh con thuyền hiện lên thật nhỏ nhoi,
cứ thế “xi mái nước song song”. hình ảnh đối lập giữa khơng gian sơng nước minh mơng
với hình ảnh con thuyền nhỏ bé càng gợi lên cho chúng ta sự cô đơn, lẻ loi. Đặc biệt, khổ
thơ thứ nhất còn để lại ám ảnh sâu sắc trong lòng người đọc bởi hai câu thơ cuối cuối khổ
thơ.


“ Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khơ lạc mấy dịng”
Từ xưa cho đến nay, thuyền và nước là hai hình ảnh ấy ln ln đi
liền với nhau, Ấy vậy mà ở đây dường như thuyền và nước như có
một nỗi buồn chia ly ở đang đón đợi. Có lẽ bởi thế mà cảnh vật ấy
càng khiến cho lịng sầu trăm ngả. Đặc biệt, giữa cảnh sơng nước
minh mơng ấy, hình ảnh cùi một cành khơ lạc mấy dịng gợi lên
trong lịng người đọc ám ảnh khơn nguôi về cõi nhân sinh, lạc lõng,
bơ vơ, không biết rồi sẽ trơi dạt về đâu bởi trăm dịng mênh mông
vô định. Như vậy, trong khổ thơ thứ nhất, nếu ví dịng trang giang là

dịng đời vơ tận thì hình ảnh con thuyền,cành cùi khơ chính là hình
ảnh tượng trưng cho kiếp người nhỏ nhoi, vô định.Đồng thời phải
khổ thơ cũng gợi lên nỗi buồn không nguôi, không dứt của tác giả.


Nếu trong khổ thơ mở đầu của bài thơ, tác giả vẽ lên khơng gian sơng nước
mênh mơng thì trong khổ thơ thứ hai, tác giả lại mở ra không gian nơi còn
nhỏ. Hai câu thơ mở đầu khổ thơ thứ hai đã vẽ nên một không gian hoang
vắng, hiu quạnh.
“Lơ thơ cịn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”
Với việc sử dụng nghệ thuật đảo ngữ cùng từ láy “lơ thơ” , “đìu hiu” đặc biệt
gợi cảm giác tác giả đã vẽ nên một bức tranh nơi con nhỏ vừa thưa thớt,
hoang vắng, lạnh lẽo vừa gợi lên một nỗi niềm buồn mênh mang. Thêm vào
đó, sự hoang vắng, tĩnh mịch của không gian như càng được tô đậm thêm
qua câu thơ “đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” . Có thể nói,đây là một câu thơ
có nhiều cách hiểu, “đâu” là đâu có, là phủ nhận âm thanh của tiếng chợ
chiều hay là đâu đó, gợi lên âm thanh yếu ớt của tiếng chợ.
Nhưng có lẽ dẫu hiểu theo cách nào đi chăng nữa thì câu thơ vẫn gợi lên
trong lòng người đọc nỗi buồn, sự hoang vắng, tàn tạ, thiếu vắng đi sự sống
của con người. Nếu hai câu thơ đầu khổ hai gợi lên khơng gian khn nhỏ
vắng vẻ, hiu quạnh thì dường như trong câu thơ thứ ba và câu bốn, không
gian ấy như được mở rộng cả về bốn phía làm cho cảnh vật vốn đã vắng vẻ
lại càng thêm cô liêu và tĩnh mịch hơn


“ Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sơng dài ,trời rộng ,bến cô liêu”
Trong hai câu thơ, tác giả dùng “sâu chót vót”thay vì “cao
chót vót” bởi lẽ chữ sâu khơng chỉ tả cảnh mà cịn tả tình, nó

khơng chỉ gợi lên một khoảng không gian rộng lớn, thăm
thẳm mà cịn gợi lên cả một nỗi buồn, sự cơ đơn đến tột
cùng của lịng người trước cái minh mơng, hoang vắng của
cảnh vật. Như vậy, trong hai khổ thơ đầu của bài thơ, nỗi
buồn của nhà thơ như bao phủ lên mọi cảnh vật, lên không
gian rộng lớn và minh mông. Và để rồi, trong khổ thơ thứ ba
của bài thơ, tác giả lên trở về với không gian sông nước với
khung cảnh mênh mang, đìu hiu, thiếu vắng đi sự sống của
con người.


“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đị ngang
Khơng cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”
Hình ảnh “bèo dạt về đâu hàng nối hàng” một lần nữa gợi lên
trong người đọc hình ảnh về kiếp người, cõi nhân sinh trơi nổi,
khơng biết rồi sẽ đi đâu, về đâu. Thêm vào đó, khổ thơ với
việc sử dụng nghệ thuật phủ định lặp lại nhiều lần đã nhịn
mạnh sự hiu quạnh, thiếu sự sống của cảnh vật. Lẽ thường,
chúng ta vẫn thường thấy rằng thuyền và cầu là những
phương tiện, những hình ảnh thể hiện sự giao lưu, kết nối giữa
con người với con người, giữa miền đất này với miền đất khác
nhưng ở đây “khơng một chuyến đị” , “khơng một cây cầu’’


Dường như, ở nơi đây chẳng có bất cứ thứ gì
gắn kết đơi bờ với nhau, nó thiếu đi dấu vết
của sự sống, của bóng hình con người và hơn
hết là tình người, mối giao hịa, thân mật

giữa con người với nhau. Có lẽ bởi thế mà hai
bờ của dịng sông cứ thể chạy dài, chạy dài
mãi mà chẳng bao giờ gặp nhau, chỉ còn lại ở
nơi đây những bờ xanh, những bãi vàng nối
tiếp nhau-một bức tranh đẹp nhưng tĩnh lặng
và thật buồn.


Trên đây là bài thuyết trình của
em về bài nghị luận về một tác
phẩm thơ, cảm ơn cô và các bạn
đã lắng nghe. Rất mong nhận
được sự góp ý từ phía cơ và các
bạn.



×