Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Bài 1 lịch sử và cuộc sống tại sao cần học lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (722.09 KB, 14 trang )

Ngày dạy: Từ 07/09 – 21/09/2021
CHƯƠNG 1: TẠI SAO CẦN HỌC LỊCH SỬ
TIẾT 1,2,3: BÀI 1: LỊCH SỬ LÀ GÌ?
I. MỤC TIÊU
1. Kiến thức
- Nêu được khái niệm lịch sử và môn Lịch sử
- Hiểu được lịch sử là những gì đã diễn ra trong q khứ.
- Giải thích được vì sao cần thiết phải học mơn Lịch sử
- Phân biệt được các nguồn sử liệu cơ bản, ý nghĩa và giá trị của các nguồn sử liệu.
2. Năng lực
a. Năng lực chung
- Năng lực tự học và tự chủ: Tự đặt mục tiêu học tập để nỗ lực phấn đấu thực
hiện.
- Năng lực giao tiếp và hợp tác thông qua hoạt động nhóm, cặp đơi hiệu quả.
b. Năng lực đặc thù: Góp phần hình thành các năng lực sau:
- Năng lực tìm hiểu lịch sử thơng qua khai thác và sử dụng thông tin ở một số tư
liệu lịch sử, hình ảnh lịch sử để nêu được khái niệm lịch sử và môn Lịch sử Bước
đầu nhận diện và phân biệt được các nguồn sử liệu cơ bản: Tư liệu gốc, tư liệu
truyền miệng, tư liệu chữ viết, tư liệu hiện vật.Ý nghĩa và giá trị của các nguồn sử
liệu.
- Năng lực nhận thức và tư duy lịch sử: học sinh trình bày được chủ kiến của mình
về một vấn đề lịch sử như lập luận khẳng định hoặc phủ định ý kiến: Lịch sử là
những gì đã qua, không thể thay đổi được nên không cần thiết phải học mơn Lịch
sử. Em có đồng ý với ý kiến đó khơng? Tại sao?
- Vận dụng được kiến thức kĩ năng đã học để học sinh có thể kể được tên những di
tích lịch sử ở địa phương mình và kể cho cả lớp nghe về sự kiện lịch sử liên quan
đến một trong những di tích đó.
3. Phẩm chất
- Góp phần thêm u q hương, đất nước.
- Tơn trọng q khứ, có trách nhiệm giữ gìn và bảo vệ các di sản, các nguồn tư liệu
lịch sử.


- Có thái độ đúng đắn khi tham quan di tích lịch sử, bảo tàng lịch sử.
II. THIẾT BỊ DẠY HỌC VÀ HỌC LIỆU
- Máy tính, máy chiếu (nếu có).
-Hình ảnh minh họa về các nguồn tư liệu lịch sử ( trong và ngồi SGK), phiếu học
tập.
III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
1.HOẠT ĐỘNG 1: MỞ ĐẦU
a. Mục tiêu: Tạo hứng thú, thu hút và định hướng sự chú ý của HS vào bài học


b. Nội dung:
- HS mô tả lại lớp học của mình thời điểm hiện tại. Sau đó giáo viên kể một câu
chuyện giả định xảy ra khoảng 100 năm sau, các nhà sử học tìm thấy những miêu
tả của HS trong thư viện một trường học.
- Cho HS quan sát lớp học ngày xưa để tìm ra những điểm khác biệt.
=> Tư liệu lịch sử : Lịch sử giáo dục Việt Nam đầu thế kỉ XXI.
Đặt thêm câu hỏi:
- Những miêu tả của các em có giống nhau hay khơng?
c. Sản phẩm học tập:
- Những miêu tả đó có điểm chung, phản ánh quá khứ.
- Nhưng những miêu tả cũng có những điểm khơng giống nhau, vì nó mang dấu ấn
chủ quan của người làm ra nó.
d. Tổ chức thực hiện:
- Gv cho HS mơ tả lớp học của mình thời điểm hiện tại : vẽ tranh, viết đoạn văn,
….
- Cá nhân học sinh trả lời
- GV nhận xét và dẫn dắt vào bài học.
Vậy lịch sử có phải là những gì diễn ra trong quá khứ? Làm thế nào để viết
lên một câu chuyện lịch sử gần đúng với sự thật nhất? Vì sao phải học lịch sử?
Chúng ta cùng nhau đi tìm hiểu vào bài.

2. HOẠT ĐỘNG 2: HÌNH THÀNH KIẾN THỨC MỚI
Hoạt động 2.1: Tìm hiểu về Lịch sử và mơn Lịch sử
a. Mục tiêu: Trình bày được khái niệm lịch sử và môn Lịch sử. Hiểu được lịch sử
là những gì đã diễn ra trong quá khứ.
b. Nội dung:
- Câu hỏi 1:Dựa vào SGK tr.11 “ Mọi sự vật…..trong quá khứ” em hãy cho biết:
Lịch sử là gì? nêu một ví dụ cụ thể ( 2 phút).
- Câu hỏi 2:HS quan sát hình 1.1: Rồng đá trước thềm Điện Kính Thiên, thế kỉ
XV, khu di tích Hoàng Thành Thăng Long, Hà Nội kết hợp với SGK, tr. 11( Em có
biết), đặt ít nhất 3 câu hỏi liên quan đến hình ảnh theo gợi ý 5W1H trong thời
gian 3 phút


H 1.1. Rồng đá trước thềm Điện 5W1H
Kính Thiên, thế kỉ XV, khu di tích
Hồng Thành Thăng Long, Hà Nội.
c. Sản phẩm:
- Câu 1: Lịch sử là những gì đã xảy ra trong quá khứ, bao gồm mọi hoạt động của
con người từ khi xuất hiện đến nay.
- Môn Lịch sử là mơn khoa học tìm hiểu về lịch sử loài người bao gồm toàn
bộ những hoạt động của con người và xã hội lồi người trong q khứ.
- Ví dụ: 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai
sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hịa.
- Câu 2: Học sinh đặt được ít nhất 3 câu hỏi liên quan đến hình 1.1 SGK tr.10
+ Rồng đá trước thềm Điện Kính Thiên, thế kỉ XV khu di tích Hồng Thành Thăng
Long, Hà Nội xuất hiện vào thời gian nào?
+Ai là người cho xây dựng?
+Nó có giá trị gì đối với ngày nay?...
d. Tổ chức thực hiện:
Bước 1: Gv hướng dẫn hs đọc SGK tr.11, giới thiệu hình ảnh 1.1 tr.10 và

hướng dẫn HS đặt câu hỏi theo kĩ thuật 5W1H.
Bước 2: HS đọc thông tin SGK tr. 11, quan sát hình 1.1tr.10 và thực hiện
nhiệm vụ trong thời gian 5 phút
Bước 3: Đại diện học sinh trả lời các câu hỏi, học sinh khác nhận xét
Bước 4: GV nhận xét, tổng kết.


Gv chốt kiến thức cơ bản:
Câu 1+2( theo gợi ý sản phẩm)
Gv chuyển ý: Như vậy mọi sự vật xung quanh chúng ta đều phát sinh, tồn tại và
biến đổi theo thời gian, xã hội lồi người cũng vậy.Q trình đó chính là lịch sử.
Vậy có cần thiết phải học lịch sử hay khơng?
Hoạt động 2.2. Tìm hiểu lí do vì sao phải học Lịch sử?
a. Mục tiêu: Giải thích được vì sao cần thiết phải học mơn Lịch sử.
b. Nội dung: HS tự đọc SGK, quan sát H1.2 SGK Tr.11 và xem đoạn video về Lễ
hội Hùng Vương sau đó thảo luận cặp đơi ( 5 phút):
- Câu hỏi 1:Có ý kiến cho rằng: Lịch sử là những gì đã qua, không thể thay đổi
được nên không cần thiết phải học mơn Lịch sử. Em có đồng ý với ý kiến đó
khơng? Tại sao?
- Câu hỏi 2: Em hiểu thế nào về từ “ gốc tích” trong câu thơ của Chủ tịch Hồ Chí
Minh? Nêu ý nghĩa của câu thơ đó?
c. Sản phẩm học tập: Học sinh hồn thành nhiệm vụ:
Câu 1: Em không đồng ý với ý kiến đó. Bởi lịch sử là những gì đã qua nhưng học
lịch sử là cách để chúng ta biết về cội nguồn của tổ tiên, quê hương, đất nước, hiểu
được ông cha ta đã phải lao động, sáng tạo, đấu tranh như thế nào để có được đất
nước như ngày nay đồng thời đúc kết những bài học kinh nghiệm của quá khứ
nhằm phục vụ cho hiện tại và tương lai.
Câu 2:
- “Sử ta”: lịch sử ủa nước Việt Nam ta.
-“ gốc tích”: lịch sử hình thành buổi đầu của nước Việt Nam, là một phần của lịch

sử nước ta – “sử ta”.
- Ý nghĩa: Người Việt Nam phải biết lịch sử của đất nước Việt Nam như vậy mới
biết được nguồn gốc, cội nguồn của dân tộc.
d. Tổ chức thực hiện:
Bước 1: GV hướng dẫn HS đọc SGK, quan sát H1.2 tr.11 sau đó xem đoạn
video về Lễ hội Hùng Vương và thực hiện nhiệm vụ


Bước 2: HS đọc SGK, quan sát H1.2, xem đoạn video về Lễ hội Hùng Vương
và thực hiện nhiệm vụ theo cặp đôi.
Bước 3: Đại diện cặp trả lời, học sinh khác nhận xét
Bước 4: GV nhận xét, tổng kết:
+Biết cội nguồn của tổ tiên, quê hương, đất nước.
+ Hiểu được ông cha ta đã phải lao động, sáng tạo, đấu tranh như thế nào để có
được đất nước như ngày nay.
+Rút ra bài học kinh nghiệm….
Gv mở rộng: Lễ hội Hùng Vương được tổ chức UNESCO công nhận là di sản
văn hóa phi vật thể….
GV chuyển ý: Tuy nhiên lịch sử khơng giống những mơn khoa học khác có thể
làm thí nghiệm, mà lịch sử là những sự kiện, hiện tượng đã qua và khơng thể quay
lại, chỉ cịn dấu tích của người xưa là ở lại với chúng ta và được lưu giữ dưới nhiều
dạng khác nhau. Đó được gọi là nguồn sử liệu hay tư liệu lịch sử.Vậy có những
nguồn tư liệu nào?
Hoạt động 2.3. Khám phá quá khứ từ các nguồn sử liệu
a. Mục tiêu: Phân biệt được các nguồn sử liệu cơ bản, ý nghĩa và giá trị của
các nguồn sử liệu.
b. Nội dung: Hs quan sát các hình 1.3, 1.4, 1.5, 1.6 SGK tr.12.13 kết hợp với
kênh chữ SGK tr. 12, 13 và hoàn thành phiếu học tập theo nhóm ( 5 phút)
Tư liệu lịch sử


Ý nghĩa và giá trị

c. Sản phẩm:
Tư liệu lịch sử

Ý nghĩa và giá trị

Tư liệu gốc

Là nguồn tư liệu đáng tin cậy nhất khi tìm hiểu lịch
sử.


Tư liệu truyền miệng

Được xem là một nguồn thông tin để tìm hiểu lịch sử

Tư liệu chữ viết

Ghi chép đầy đủ mọi mặt đời sống con người và các
sự kiện lịch sử đã xảy ra.

Tư liệu hiện vật

Giúp tìm hiểu và dựng lại lịch sử đồng thời sử dụng
để kiểm chứng các tư liệu chữ viết.

d.Tổ chức thực hiện:
Bước 1: GV hướng dẫn HS hồn thành phiếu theo nhóm (5 phút)
Bước 2: HS thực hiện hoạt động theo nhóm

Bước 3: Đại diện của các nhóm báo cáo, các nhóm khác nhận xét
Bước 4: GV nhận xét, tổng kết( như gợi ý sản phẩm)
*Câu hỏi dành cho học sinh khá, giỏi: Tại sao tư liệu gốc lại có giá trị xác thực
nhất? Hãy lấy một ví dụ chứng minh cho ý kiến của em từ một nguồn sử liệu cụ
thể có trong bài.
+ Trả lời: Vì nó liên quan trực tiếp đến sự kiện lịch sử, ra đời vào thời điểm xảy ra
sự kiện đó. (Gợi ý: Tại sao bản thảo Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến là tư liệu
gốc? Tư liệu 1.3 con tem và tranh cổ động không phải là tư liệu gốc? Các tư liệu
hiện vật được giữu nguyên hiện trang như Bia Tiến sĩ, Rìu đồng gót vng có phải
là tư liệu gốc khơng?)
GV mở rộng thêm: Qúa khứ đã qua và không thể quay lại, chỉ còn nguồn sử
liệu chứa đựng những dấu vết của người xưa là ở lại với chúng ta. Bởi thế ngay
từ thế kỉ XIX, nhà sử học Pháp Langlois Sh. Seniobos đã khẳng định: “Khơng
có cái gì có thể thay thế tư liệu – khơng có chúng thì khơng có lịch sử”. Có thể
hình dung tư liệu như những mảnh ghép để nhà sử học ghép nên những bức
tranh lịch sử - giống như khi chúng ta chơi trò chơi xếp hình.
3. HOẠT ĐỘNG 3. HOẠT ĐỘNG LUYỆN TẬP
a. Mục tiêu: Củng cố được nội dung kiến thức trọng tâm của bài học:
- Nêu được khái niệm lịch sử và mơn Lịch sử
- Hiểu được lịch sử là những gì đã diễn ra trong quá khứ.


- Giải thích được vì sao cần thiết phải học môn Lịch sử
- Phân biệt được các nguồn sử liệu cơ bản, ý nghĩa và giá trị của các nguồn sử liệu.
b. Nội dung:
-HS dựa vào câu thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh và hình1.2 Giỗ tổ Hùng
Vương; câu danh ngôn “Lịch sử là thầy dạy của cuộc sống” để trả lời câu
hỏi 1.
Câu 1: Tại sao cần thiết phải học môn Lịch sử?
Câu 2: Căn cứ vào đâu để biết và dựng lại lịch sử? (xem phần III)

c. Sản phẩm học tập: Câu trả lời của học sinh
Câu 1:
- Học lịch sử để biết cội nguồn của tổ tiên, dân tộc.(Dựa vào câu thơ của
Chủ tịch Hồ Chí Minh và hình1.2 Giỗ tổ Hùng Vương)
- Lịch sử dạy cho chúng ta những bài học từ quá khứ, đúc kết kinh nghiệm
của quá khứ cho cuộc sống hiện tại. (câu danh ngôn “Lịch sử là thầy dạy
của cuộc sống”).
Câu 2:
Căn cứ vào những dấu tích của người xưa cịn để lại. Đó là những chứng cứ
lịch sử, hay tư liệu lịch sử.
d.Tổ chức thực hiện:
Bước 1: GV hướng HS hoàn thành phiếu KWL
Bước 2: HS hoàn thành phiếu
Bước 3: HS trả lời
Bước 4: GV nhận xét
4. HOẠT ĐỘNG 4: HOẠT ĐỘNG VẬN DỤNG
a. Mục tiêu: Vận dụng kiến thức đã học để kể được tên các di tích lịch sử ở địa
phương học sinh đang sinh sống. Kể cho cả lớp nghe về sự kiện lịch sử liên quan
đến một trong những di tích đó.
b. Nội dung: HS kể cho cả lớp nghe về sự kiện lịch sử liên quan đến một trong
những di tích đó.
Câu 3: Em biết những di tích lịch sử nào ở địa phương em đang sống? Hãy kể cho
cả lớp nghe về sự kiện lịch sử liên quan đến một trong những di tích đó.
HS về nhà tìm hiểu và hồn thành nhiệm vụ.


Câu 4: Hãy viết một đoạn văn ngắn về lịch sử ngôi trường em đang học (trường
được thành lập khi nào? Nó thay đổi như thế nào theo thời gian?...)
Câu 5: Cửa Bắc, một cơng trình kiến trúc cổ, nằm trên phố Phan Đình Phùng, Hà
Nội. Trên tường vẫn cịn nguyên dấu vết đạn pháo của thực dân Pháp khi đánh

chiếm thành Hà Nội năm 1882. Có ý kiến cho rằng nên trùng tu lại mặt thành, xóa
đi những vết đạn pháo đó. Em có đồng ý với ý kiến đó khơng? Tại sao?
d. Sản phẩm học tập: Câu trả lời của học sinh
d. Tổ chức thực hiện:
Bước 1: GV hướng dẫn HS tìm kiếm thơng tin về các di tích lịch sử ở địa
phương qua các tài liệu của lịch sử địa phương mình, trên Internet…
Bước 2: HS lựa chọn thực hiện nhiệm vụ cá nhân hoặc nhóm
Bước 3: HS nộp sản phẩm và trình bày vào đầu tiết học sau
Bước 4: GV nhận xét sản phẩm và cho điểm đánh giá thường xuyên.
*GV hướng dẫn hs học bài và chuẩn bị cho tiết sau: Bài 2: Thời gian trong
lịch sử.
Tài liệu tham khảo
Đi qua năm tháng, giữa cơn lốc đơ thị hóa ngày một nhanh và mạnh hơn,
nhiều biểu tượng văn hóa của làng quê Bắc Bộ xưa dần dần bị xóa mờ. Giếng cổ là
một trong số đó. Xứ Đồi (Hà Tây cũ, nay thuộc Hà Nội) là nơi cịn lưu giữ nhiều
giếng làng có giá trị, tuy nhiên, trước những biến cố của thời gian, nhiều giếng
làng cổ bị biến dạng, thậm chí là biến mất hồn tồn.
Xứ Đồi xưa hầu như xóm nào, làng nào cũng có giếng. Tiêu biểu nhất có
thể kể đến các vùng như: Hồi Đức, Đan Phượng, Thạch Thất, Ba Vì… Những cái
giếng được đào chủ yếu với mục đích lấy nước phục vụ đời sống người dân. Theo
thời gian, gắn liền với những biến động, những sự kiện diễn ra trong xóm làng, đặc
biệt là đời sống tâm linh, tín ngưỡng của người dân, giếng làng không đơn thuần là
nơi lấy nước mà trở thành một vật thể sống động, chứng tích của lịch sử, văn hóa.


Người dân địa phương quan niệm, cũng như sông, như núi, mỗi cái giếng
đều có một vị thần cai quản. Do đó, hầu hết giếng làng ở xứ Đồi đều có miếu thờ
hoặc ít nhất là có một bát hương đặt cạnh. Thường vào ngày đầu tháng, ngày rằm
hay những lúc làng có việc cần cầu khấn thì dân làng đều đến thắp hương, đặt lễ tại
các miếu này. Ý thức về sự linh thiêng của giếng, dân làng luôn bày tỏ thái độ tơn

trọng, giữ gìn, khơng đập phá, làm bẩn hay thay đổi cảnh quan xung quanh giếng.
1. Giếng Đại Phùng: Múc cả ngày cũng không vơi
Giếng Đại Phùng ở vị trí ngay đầu hồi bên phải của đình Đại Phùng. Ngơi đình
này có niên đại đầu thế kỷ XVII và đã được Nhà nước công nhận là Di tích văn
hóa lịch sử năm 1990.Mực nước giếng này khơng bao giờ thay đổi, dù có múc cả
ngày thì nước giếng vẫn cứ ở mực ấy.
Giếng Đại Phùng hơi khác lạ so với nhiều giếng cổ khác. Giếng này khơng làm
phần chân đế mà được vạt thẳng xuống. Tồn bộ cổ giếng nằm lộ hồn tồn trên
mặt đất có bề cao 55cm và dày 13,5cm. Giếng hình trịn, đường kính tính đến mép
ngồi là 130cm, đường kính trong 83cm. Dưới cổ giếng có một phần xây gạch trát
xi măng cao 70cm, đây là độ cao tôn cổ giếng lên vào năm 2010. Dưới phần xi
măng là những viên đá ong xây lòng giếng ban đầu chạy dài xuống đáy. Đặc biệt, ở
giếng cổ này, ở mặt trong trên miệng, người xưa đã đục những rãnh nhỏ liền nhau
để tránh việc nứt vỡ cổ giếng. Nước giếng vẫn rất trong và sạch, có thể dùng pha
trà hoặc đồ xơi.

GIẾNG CỔ LÀNG ĐẠI PHÙNG
Đây là một trong số những giếng cổ có chất liệu và kỹ thuật xây khá đặc biệt tại
vùng châu thổ Bắc bộ. Kiểu cổ giếng làm từ đá xanh ngun khối thì chúng tơi đã
thấy ở nhiều nơi của Hà Nội như ở Nhổn, trong Nhà thờ lớn, chùa Bối Khê… Còn
cổ giếng bằng đá ong nguyên khối thì hiếm gặp hơn. Đan Phượng là một trong
những vùng có những cụm cư dân Chăm pa định cư sau những lần Nam tiến của
các triều đại quân chủ Đại Việt. Chúng tơi đã có những khảo sát về vùng đất này


và thấy nơi đây có nhiều ảnh hưởng của nền văn hóa Chăm pa, nhất là việc đào
giếng lấy nước sạch. Người Chăm pa có trình độ làm giếng xếp gạch hoặc đá rất
giỏi, đặc biệt, họ là bậc thầy trong khu vực Đông Nam Á về kỹ thuật xử lý chất
liệu đá ong. Chúng tôi cho rằng, những giếng cổ ở đây chưa chắc đã do người
Chăm pa làm, nhưng sự ảnh hưởng về kỹ thuật của người Chăm là khá rõ nét.

Ông Thủy lần giở những ghi chép xưa, mới rõ giếng ấy không phải do thợ địa
phương hay người Bắc làm. Giếng được tạo tác do bàn tay khéo léo của những
người thợ Chăm. Thế nên, có người cịn gọi đây là giếng Chăm. Tuy nhiên, cũng
có người thắc mắc là vùng Đan Phượng khơng có đá ong, nhưng giếng Đại Phùng
lại là đá ong già tuổi. Theo nghiên cứu của chúng tôi, người xưa đã vận chuyển đá
ong từ Thạch Thất theo đường thủy sông Đáy về để làm giếng.
2. Giếng Đơng Khê: Bí ẩn tuổi thật
Cách giếng Đại Phùng không xa là giếng cổ Đông Khê. Giếng nằm sát bên con
đường làng và được bao bọc bởi hàng rào sắt hình bát giác. Giếng làm bằng đá
xanh nguyên khối được khoét đục khá cầu kỳ theo kiểu chậu úp. Cổ giếng cao
78cm, phần thành giếng cao 40cm, chân cao 38cm. Sát chân cổ giếng có 2 lượt đá
xanh, tạo thành thềm giếng hình trịn. Lịng giếng gồm những thanh đá có mặt cắt
hình chữ nhật, được chế tác hơi cong để tạo hình trịn cho giếng, xếp so le nhau
xuống tận đáy giếng. Theo đo đạc và phân tích của chúng tơi thì các thanh đá này
dài ngắn khơng đều nhau nhưng có độ dày đồng nhất 18cm. Những thanh đá này
tạo thành lòng giếng vững chắc và có tác dụng như một bộ lọc nước. Bên trong
phía trên miệng giếng, người xưa đã đục những rãnh nhỏ liền nhau, song song chạy
dọc xuống, có mặt cắt hình chữ V. Đây là kỹ thuật làm cho cổ giếng bền vững
không bị nứt vỡ trong điều kiện thời tiết thay đổi.

GIẾNG CỐ LÀNG ĐÔNG KHÊ


Mặt trong, trên miệng cổ giếng, người xưa đã đục những rãnh nhỏ liền nhau,
song song chạy dọc xuống nhằm làm cho cổ giếng không bị nứt vỡ do vật liệu đá
co ngót hay giãn nở trong điều kiện thời tiết thay đổi. Mới đây, khi tiến hành nạo
vét, người ta đã phát hiện ra dưới đáy giếng có một khối đá to trịn, liền khối. Theo
ơng Nguyễn Văn Hà, Trưởng ban Công tác mặt trận thôn Đông Khê, khối đá này
giúp các thanh đá bên trên lún đều. Đây là một kỹ thuật rất đặc biệt. Hiện tại, nước
giếng vẫn rất trong, chất lượng nước tốt. Cũng theo ông Nguyễn Văn Hà, giếng cổ

này được xây ít nhất từ thế kỷ thứ XII. Cách đây không lâu, các nhà khoa học trung
ương đã về khảo sát cây đại ở xóm Ngõ Giữa, thơn Đơng Khê và cho biết, cây đại
có niên đại tới 900 năm. Vậy mà các vị cao niên truyền lại là giếng cịn có trước
cây đại.
Theo TS Nguyễn Tiến Đông, Viện Khảo cổ học, giếng cổ Đông Khê rất đặc
biệt, cổ giếng làm bằng đá xanh nguyên khối, được khoét đục khá cầu kỳ. Cổ giếng
cao 78cm, phần thành giếng cao 40cm, chân cao 38cm. Sát chân cổ giếng có 2 lượt
đá xanh, tạo thành thềm giếng hình trịn. Lịng giếng gồm những thanh đá có mặt
cắt hình chữ nhật, được chế tác hơi cong để tạo hình trịn cho giếng, xếp so le nhau
xuống tận đáy giếng. Mặt trong, trên miệng cổ giếng, người xưa đã đục những rãnh
nhỏ liền nhau, song song chạy dọc xuống nhằm làm cho cổ giếng không bị nứt vỡ
do vật liệu đá co ngót hay giãn nở trong điều kiện thời tiết thay đổi.

Từ trên nhìn xuống giếng cổ Đông Khê
Mới đây, khi tiến hành nạo vét, người ta đã phát hiện ra dưới đáy giếng có một
khối đá to trịn, liền khối. Theo ơng Nguyễn Văn Hà, Trưởng ban Công tác mặt
trận thôn Đông Khê, khối đá này giúp các thanh đá bên trên lún đều. Đây là một kỹ
thuật rất đặc biệt. Hiện tại, nước giếng vẫn rất trong, chất lượng nước tốt.
3. Giếng Đoài Khê: Dấu tích lập làng
Giếng thơn Đồi Khê nằm ở phía tây xã Đan Phượng. Giếng nằm cách cổng
làng khoảng chục thước ta. Hai bên cổng, người ta gắn đôi câu đối: “Đoài Khê
hương sắc vạn thuở giữ tinh hoa/Giếng cổ mát trong ngàn năm lưu dấu tích”.


GIẾNG CỔ LÀNG ĐỒI KHÊ
Tồn bộ giếng cổ Đồi Khê được làm từ một khối đá ong liền mạch. Thềm
giếng hình trịn, lát bằng loại gạch thẻ có độ cứng cao. Giếng có đường kính ngồi
130cm, đường kính trong 90cm. Trong lịng, ngay dưới phần cổ giếng có một lượt
gạch thẻ xếp lóng dọc, tiếp xuống là một lượt gạch thẻ xếp lóng ngang. Hai lượt
gạch thẻ này chính là kết quả của một đợt trùng tu để nâng cổ giếng lên, đồng thời

lát thềm giếng. Căn cứ vào loại gạch, có thể suy đốn đợt trùng tu này được thực
hiện vào những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XX. Dưới các lớp gạch thẻ là những
viên đá ong được xếp so le liền khít xuống tận đáy giếng. Chất lượng nước giếng
này rất tốt, cách đây không lâu, khi chưa có hệ thống nước sạch, dân Đồi Khê đều
dùng giếng này. Theo các cụ cao niên trong làng, giếng có thể có từ thế kỷ XVIII.

Mặt ngang giếng cổ làng Đoài Khê
Cũng giống như 2 giếng cổ quý của Đại Phùng và Đơng Khê, giếng Đồi Khê
cũng hằn rõ những vết rãnh do dây gầu kéo nước tạo ra. Miệng giếng đá ong trông
giống như răng cưa rất đẹp và bóng. Cụ Nguyễn Văn Hồn, người xóm giếng bảo
rằng, thời xưa nhiều cao nhân về làng lấy nước giếng pha trà. Đến thời thực dân
Pháp đơ hộ, lính Tây cũng thường từ bốt Phùng vào đây lấy nước về sử dụng.
Đúng như câu đối trên cổng làng, nước giếng Đồi Khê mát trong vơ cùng. Chỉ
hiềm một nỗi, những nền nếp cũ cùng tục uống trà đã phôi pha nên giếng chỉ cịn là
dấu tích lập làng, lập xóm.


Góc trong giếng cổ làng Đồi Khê
Như vậy, có thể thấy, những giếng cổ trên địa phận xã Đan Phượng rất quý. Ba
giếng cổ của Đan Phượng là tương đương tuổi nhau. Có thể khi chia làng, lập xóm,
người của 3 làng đã xây giếng để sử dụng chung. Tuy thần phả sắc phong hay sử
làng không chép việc này, nhưng nhìn màu sắc, kết cấu có thể dễ dàng nhận thấy
những lát cắt đặc trưng của một thời kỳ lịch sử.
Theo những nhà khảo sát về vùng đất này cho biết các giếng cổ có nhiều ảnh
hưởng của nền văn hóa Chăm, nhất là việc đào giếng lấy nước sạch. Người Chăm
có trình độ làm giếng xếp gạch hoặc đá rất giỏi, có lẽ kiến thức của họ về việc tìm
mạch cũng tốt nên bước đầu có thể khẳng định giếng ở Đan Phượng là do nghệ
nhân người Chăm thực hiện.
Theo các nhà khảo cổ học, đây là những giếng cổ có chất liệu và kỹ thuật xây
khá đặc biệt tại vùng châu thổ Bắc bộ. "Kiểu cổ giếng làm từ đá xanh ngun khối

thì chúng tơi đã thấy ở nhiều nơi của Hà Nội, như ở Nhổn, trong Nhà thờ lớn, chùa
Bối Khê… Còn cổ giếng bằng đá ong nguyên khối thì hiếm gặp hơn. Đan Phượng
là một trong những vùng có những cụm cư dân Chăm pa định cư sau những lần
Nam tiến của các triều đại qn chủ Đại Việt. Chúng tơi đã có những khảo sát về
vùng đất này và thấy nơi đây có nhiều ảnh hưởng của nền văn hóa Chăm pa, nhất
là việc đào giếng lấy nước sạch. Người Chăm pa có trình độ làm giếng xếp gạch
hoặc đá rất giỏi, đặc biệt, họ là bậc thầy trong khu vực Đông Nam Á về kỹ thuật xử
lý chất liệu đá ong. Chúng tôi cho rằng, những giếng cổ ở đây chưa chắc đã do
người Chăm pa làm, nhưng sự ảnh hưởng về kỹ thuật của người Chăm là khá rõ
nét" - TS Nguyễn Tiến Đơng nhận định.
Như vậy, có thể thấy, những giếng cổ trên rất quý. Tuy nhiên, đã có thời gian
chúng khơng được bảo quản tốt. Điển hình như giếng Đơng Khê đã bị bỏ hoang
trên dưới chục năm và trở thành nơi vứt rác. Anh Bùi Văn Chức, cán bộ văn hóa xã
Đan Phượng cho biết, có thời điểm rác đầy lên tận miệng giếng. Mãi đến khi có
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc", rác mới được trục vớt, giếng được nạo vét
và người ta xây khn viên để gìn giữ. Hiện nay, cách bảo vệ duy nhất vẫn là
người dân tự bảo quản, chính quyền xã hằng năm cho trục vớt rác mà thơi. Theo
quan sát, vì giếng gần chợ cóc của thơn nên trẻ em thỉnh thoảng vẫn tiện tay vứt
rác xuống giếng. Giếng Đại Phùng cũng không được bảo quản tốt. Năm 2010, khi


trùng tu đình Đại Phùng, người ta đã tơn nền đình lên 40cm và dùng ngồm kéo cổ
giếng lên, xây thêm một đoạn giếng khoảng 40cm bằng gạch thường. Đế giếng
hiện đã bị gạch lát đè lên. Hiện tại, do mưa nắng, cổ giếng bằng đá ong đã bị rỗ
nhưng cách bảo vệ duy nhất chỉ là dùng hai tấm tơn che miệng giếng.
Với tốc độ đơ thị hóa hiện nay, nguy cơ những giếng cổ bị xâm hại là đáng kể.
Nếu khơng tích cực tun truyền về giá trị của chúng thì trong tương lai khơng xa,
các giếng này sẽ chung số phận với các giếng cổ khác ở các vùng lân cận như Sấu
Giá, Dương Liễu, Nhổn…




×