Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Quyền lập hội theo pháp luật của một số nước và kinh nghiệm cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (904.86 KB, 67 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH
-----------***------------

LÊ PHẠM THU HÂN
MSSV: 1953801011054

QUYỀN LẬP HỘI THEO PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ NƯỚC
VÀ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật
Niên khóa: 2019 - 2023

Người hướng dẫn: ThS. Trương Thị Minh Thuỳ

TP.HCM – Năm 2023


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan Khóa luận tốt nghiệp với đề tài “Quyền lập hội theo pháp luật một
số nước và kinh nghiệm cho Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu do chính tơi thực
hiện dưới sự hướng dẫn của ThS. Trương Thị Minh Thuỳ. Khóa luận có sử dụng,
trích dẫn ý kiến, quan điểm khoa học của một số tác giả. Các thơng tin này đều được
trích dẫn nguồn cụ thể và chính xác. Các số liệu, thơng tin được sử dụng trong Khóa
luận là hồn tồn khách quan, trung thực.
Tác giả

Lê Phạm Thu Hân


MỤC LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN LẬP HỘI
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và các mối quan hệ của quyền lập hội ...........6
1.1.1. Khái niệm quyền lập hội .................................................................................6
1.1.1.1. Khái niệm hội ........................................................................................6
1.1.1.2. Quyền lập hội ........................................................................................9
1.1.2. Đặc điểm của quyền lập hội ......................................................................... 12
1.1.3. Ý nghĩa của quyền lập hội ........................................................................... 17
1.1.4. Mối quan hệ giữa quyền lập hội và một số quyền dân sự - chính trị cơ bản của
con người ............................................................................................................... 18
1.1.4.1. Quyền lập hội và quyền tự do hội họp................................................ 18
1.1.4.2. Quyền lập hội và quyền tự do ngôn luận và tự do thông tin .............. 18
1.1.4.3. Quyền lập hội và quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội .......... 19
1.1.4.4. Quyền lập hội và quyền tự do liên kết của người lao động................ 19
1.2. Chủ thể, nội dung, sự hạn chế quyền lập hội ................................................ 20
1.2.1. Chủ thể của quyền lập hội ............................................................................ 20
1.2.2. Nội dung của quyền lập hội ......................................................................... 22
1.2.2.1. Quyền thành lập, gia nhập, rút khỏi hội............................................... 22
1.2.2.2. Quyền hoạt động tự do và được bảo vệ trước sự can thiệp vô lý ......... 25
1.2.3. Sự hạn chế đối với quyền lập hội ................................................................. 27
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyền lập hội ...................................................... 30
1.3.1. Yếu tố chính trị ............................................................................................ 30
1.3.2. Yếu tố pháp luật ........................................................................................... 31
1.3.3. Yếu tố kinh tế – xã hội ................................................................................. 32
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ....................................................................................... 34
CHƯƠNG 2: QUYỀN LẬP HỘI THEO PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƯỚC VÀ
KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
2.1. Quyền lập hội theo pháp luật một số nước ................................................... 35
2.1.1. Quyền lập hội theo pháp luật Pháp .............................................................. 35



2.1.2. Quyền lập hội theo pháp luật Cộng hoà Liên bang Đức .............................. 38
2.1.3. Quyền lập hội theo pháp luật Nhật Bản ....................................................... 42
2.2. Thực trạng và kinh nghiệm cho Việt Nam ................................................... 44
2.2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về quyền lập hội ........................................ 44
2.2.2. Một số kiến nghị hoàn thiện trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của pháp luật
các nước ................................................................................................................... 50
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ....................................................................................... 54
KẾT LUẬN CHUNG ............................................................................................. 55
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền lập hội là quyền cơ bản của con người, được ghi nhận lần đầu tiên tại
Điều 20 Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền năm 1948. Ngoài việc quy định “mọi
người có quyền tự do hội họp và lập hội một cách hịa bình”, Khoản 2 Điều 20 cịn
nêu “khơng ai bị ép buộc phải tham gia vào bất cứ hiệp hội nào”. Sau đó, trong Cơng
ước Quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị được Liên Hợp Quốc thông qua năm
1966 đã tái khẳng định và cụ thể hóa tại Điều 22, trong đó nêu rõ “Mọi người có
quyền tự do lập hội với những người khác, kể cả quyền lập và gia nhập các cơng
đồn để bảo vệ lợi ích của mình”. Như vậy, quyền lập hội là một phần không thể tách
rời trong nền dân chủ vì nó cho phép các thành viên “bày tỏ quan điểm chính trị,
tham gia vào các mục tiêu văn học, nghệ thuật và các hoạt động kinh tế, xã hội và
văn hóa khác, tham gia vào việc thờ phụng tơn giáo và các niềm tin khác, hình thành
và gia nhập các tổ chức cơng đồn và hợp tác xã, bầu chọn những người lãnh đạo
đại diện cho mình và buộc họ phải chịu trách nhiệm”.1 Do đó, đảm bảo quyền lập
hội là một quyết định rất quan trọng đối với các nước theo chế độ dân chủ, có ảnh
hưởng sâu sắc đến sự phát triển đất nước. Tuy nhiên, trên khắp thế giới, việc đảm bảo

tôn trọng quyền cơ bản này gặp phải rất nhiều thách thức. Ở một số quốc gia, một số
đối tượng người lao động bị từ chối quyền lập hội, hay tổ chức của người lao động
và người sử dụng lao động bị đình chỉ hoạt động hay can thiệp bất hợp pháp, và trong
một số trường hợp cực đoan những người hoạt động cơng đồn cịn bị bắt giữ hoặc
giết.2
Q trình tồn cầu hóa đã mang lại thay đổi nhanh chóng và năng động khơng
chỉ về kinh tế, chính trị, pháp lý mà cả về nhiều vấn đề về quyền con người ở các
quốc gia. Với môi trường dân chủ, cởi mở hội nhập, các hoạt động kinh tế - xã hội
ngày càng phát triển, xã hội hóa ngày càng cao, việc thành lập và phát triển hội ở
nhiều quốc gia trên thế giới đã có những thay đổi rất lớn, một phần là để đáp ứng nhu
cầu tự do, dân chủ, sáng tạo của người dân và xã hội, phần khác là các hội phát triển
đa dạng với quy mơ, tính chất, phạm vi hoạt động khác nhau đã góp phần quan trọng
trong cơng cuộc đổi mới và phát triển đất nước.

1

Lời nói đầu của Nghị quyết số 15/21 của Hội đồng Nhân quyền.
truy
cập ngày 28/02/2023.
2


2
Ở Việt Nam, đường lối nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam ln đặt con
người ở vị trí trung tâm của các chính sách kinh tế - xã hội; coi con người vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con
người được xem là nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững của Việt Nam. Trên
tinh thần đó, quyền lập hội của cơng dân lần đầu tiên được quy định tại Điều 10 Hiến
pháp năm 1946. Trên cơ sở đó, ngày 20/5/1957, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa đã ký Sắc lệnh số 102/SL/L004 ban hành Luật về hội. Các bản Hiến pháp

năm 1959, năm 1980, năm 1992 và Hiến pháp năm 2013 đều kế thừa và ghi nhận
quyền lập hội là một trong những quyền cơ bản của công dân. Điều 25 Hiến pháp
năm 2013 quy định “Cơng dân có quyền tự do ngơn luận, tự do báo chí, tiếp cận
thơng tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy
định”.
Mặc dù vậy, sự hội nhập ngày càng sâu rộng vào cộng đồng quốc tế cũng như
sự phát triển nhanh chóng về mọi mặt của đất nước đang đặt ra những yêu cầu cấp
thiết về hoàn thiện pháp luật trên nhiều lĩnh vực, trong đó có pháp luật về quyền lập
hội. Để thực thi Hiến pháp năm 2013, việc xây dựng Luật về hội đã được đưa vào
chương trình lập pháp của Quốc hội. Theo đó, Luật về hội đã được Quốc hội khóa
XIII thảo luận, cho ý kiến tại kỳ họp thứ 10 vào cuối năm 2015. Tuy nhiên đến nay
Luật về hội mới chỉ dừng ở dự thảo. Điều này không đáp ứng được nhu cầu điều
chỉnh khi hội đang có vai trị rất quan trọng và có xu hướng phát triển mạnh mẽ trong
giai đoạn tới.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “Quyền lập hội theo
pháp luật một số nước và kinh nghiệm cho Việt Nam” để nghiên cứu và làm khóa
luận tốt nghiệp với mục đích khái quát về một số pháp luật về quyền lập hội trên thế
giới, phân tích các ưu – khuyết điểm của pháp luật các nước Pháp, Đức và Nhật Bản
để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm quý giá nhằm hoàn thiện hơn nữa pháp luật về
quyền lập hội ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam, cho đến nay, đã có nhiều cơng trình khoa học, các bài viết đăng
tạp chí… về quyền lập hội. Nổi bật trong những nghiên cứu hiện hành là luận án tiến
sĩ của tác giả Lê Thương Huyền “Quyền tự do lập hội ở Việt Nam hiện nay”, bảo vệ
tại Học viện Khoa học xã hội năm 2021. Luận án đã nghiên cứu và đưa ra khái niệm
đầy đủ về quyền lập hội trên cơ sở phân tích các quan niệm về quyền con người, về
hội và về quyền lập hội trên thế giới và ở Việt Nam; Luận án nhận diện đặc điểm và


3

các nội dung của quyền lập hội và xác định những hạn chế chính đáng của quyền lập
hội; Luận án chỉ ra tương đối toàn diện các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi quyền
lập hội ở Việt Nam và thực trạng quyền lập hội ở Việt Nam hiện nay.
Bên cạnh đó, cịn có những nghiên cứu tiêu biểu như sách chuyên khảo của tác
giả Nguyễn Thị Hồng Yến (2022) về Pháp luật về quyền lập hội và những vấn đề đặt
ra cho Việt Nam trong quá trình hội nhập, nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia Sự thật.
Cuốn sách này làm rõ các khía cạnh pháp lý và thực tiễn quốc tế, cũng như quốc gia
liên quan đến quyền lập hội. Phân tích những u cầu hồn thiện về quyền lập hội tại
Việt Nam trong bối cảnh thực thi các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và đề
xuất những giải pháp hoàn thiện các quy định trong Dự thảo luật về Hội tại Việt Nam.
Thêm nữa, sách chuyên khảo của tác giả Nguyễn Hoàng Anh và các cộng sự
(2015) Pháp luật về quyền tự do lập hội, hội họp hịa bình trên thế giới và của Việt
Nam, tái bản lần thứ 12, nhà xuất bản Hồng Đức, Hà Nội cũng là một tài liệu khá hữu
ích. Trong cuốn sách này, tác giả giới thiệu, phân tích cả quyền lập hội và quyền hội
họp hịa bình trong pháp luật nhân quyền quốc tế, pháp luật của một số quốc gia và
Việt Nam.
Mặt khác, cũng có một số nghiên cứu của các chuyên gia về nội dung này, tiêu
biểu như bài viết “Quyền lập hội trong luật quốc tế và pháp luật một số nước” của
tác giả Ngơ Hữu Phước đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 21 (325), tr.5864, năm 2016. Bài viết phân tích các quy định về quyền lập hội trong các văn kiện
quốc tế và các quy định về quyền lập hội trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ năm
1946 đến nay.
Bài viết “Bảo đảm quyền tự do hiệp hội trong luật quốc tế và pháp luật của
Đức: Một số góp ý cho Dự thảo luật về Hội của Việt Nam” của tác giả Trần Việt
Dũng đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 02 (105) của Trường Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh, tr.49-54, năm 2017. Bài viết phân tích quyền tự do lập hội
trong pháp luật quốc tế và bảo đảm quyền tự do lập hội trong pháp luật của Đức.
Hay là bài viết “Cân bằng yếu tố quản lý nhà nước và bảo đảm quyền lập hội
của người dân trong Dự thảo luật về Hội từ kinh nghiệm của Vương Quốc Anh” của
tác giả Đặng Tất Dũng đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 02 (105) của Trường
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.55-59, năm 2017. Bài viết phân tích quy

định về quyền lập hội của công dân trong pháp luật Việt Nam và mối quan hệ giữa
quyền lập hội của nhân dân và quản lý nhà nước trong Dự thảo luật về hội.


4
Trên phạm vi quốc tế, số lượng cơng trình nghiên cứu về quyền lập hội nói
chung và pháp luật về quyền lập hội nói riêng khá phong phú và đa dạng. Một trong
số đó là The International Covenant on Civil and Political Rights Cases, Materials,
and Commentary, Third Edition, Oxford University Press, 2013. Tác giả là Sarah
Joseph and Melissa Castan. Cuốn sách này phân tích chi tiết các quyền trong Cơng
ước Quốc tế về các Quyền dân sự, chính trị năm 1966, trong đó bao gồm quyền tự do
hội họp, biểu tình. Sách được minh chứng bởi các án lệ, bình luận của các Ủy ban
nhân quyền Liên hợp quốc và Tịa án nhân quyền khu vực, vì vậy có giá trị tham khảo
cao. Hay là ấn phẩm U.N. Covenant on Civil and Political Rights: CCPR
Commentaries, Fourth Edition, Oxford University Press, 2012. Tác giả là Manfred
Nowak. Giống như cuốn sách trên, cuốn sách này phân tích chi tiết các quyền trong
Cơng ước Quốc tế về các Quyền dân sự, chính trị năm 1966, trong đó bao gồm quyền
tự do hội họp, biểu tình. Sách cũng được minh chứng bởi các án lệ, bình luận của các
Ủy ban nhân quyền Liên hợp quốc và Tịa án nhân quyền khu vực, vì vậy có giá trị
tham khảo cao.
Có thể nói, những cơng trình nghiên cứu nêu trên đã cung cấp những kiến thức
và thơng tin khá tồn diện về pháp luật quyền lập hội trên thế giới và ở Việt Nam.
Mặc dù vậy, do nhiều nguyên nhân khác nhau nên các đề tài này chưa đề xuất được
một cách đầy đủ sự cần thiết phải đổi mới cũng như cách thức đổi mới pháp luật về
quyền lập hội như thế nào để phù hợp với bối cảnh Việt Nam. Chính vì vậy, vẫn cần
có thêm những nghiên cứu chuyên sâu pháp luật về quyền lập hội ở nước ta. Như vậy,
có thể khẳng định đề tài “Quyền lập hội theo pháp luật một số nước và kinh nghiệm
cho Việt Nam” vẫn là một đề tài cấp thiết đảm bảo tính mới, có cơ sở lý luận và thực
tiễn để thực hiện đề tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của khóa luận là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về nội
dung và ý nghĩa thực tiễn của quyền lập hội và pháp luật về quyền lập hội của một số
nước trên thế giới. Bên cạnh đó, khóa luận cũng nghiên cứu và có những đánh giá
chung về quyền lập hội và pháp luật về quyền lập hội ở Việt Nam trong thời gian qua.
Từ đó, chỉ ra những hạn chế của pháp luật về quyền lập hội ở nước ta và đưa ra một
số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa pháp luật về quyền lập hội ở Việt Nam.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, khóa luận có nhiệm vụ: Làm rõ khái
niệm và các vấn đề lý luận về quyền lập hội. Nghiên cứu, phân tích pháp luật về
quyền lập hội của một số nước trên thế giới, làm sáng rõ những ưu – khuyết điểm của


5
từng pháp luật về quyền lập hội của các nước đó. Đánh giá thực trạng pháp luật về
quyền lập hội ở nước ta và đưa ra quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về
quyền lập hội ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Pháp luật về quyền lập hội ở các quốc gia trên thế giới
và ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận tập trung nghiên cứu về pháp luật quyền lập hội
của nước Pháp, Đức, Nhật Bản và pháp luật quyền lập hội hiện hành ở Việt Nam.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Khóa luận này sẽ góp phần làm sáng tỏ những điểm lý luận và thực trạng tổ
chức quyền lập hội ở các quốc gia trên thế giới và ở Việt Nam. Đồng thời, chỉ ra
những hạn chế của pháp luật về quyền lập hội ở nước ta và đưa ra một số giải pháp
nhằm hoàn thiện hơn nữa pháp luật về quyền lập hội ở Việt Nam.
Kết quả của Khóa luận này có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ
cho công tác nghiên cứu và giảng dạy của các cơ sở đào tạo luật.
6. Phương pháp nghiên cứu
Về phương pháp luận, để làm rõ các vấn đề nghiên cứu, đề tài vận dụng phương
pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của học thuyết Mác – Lênin. Đây là

phương pháp khoa học vận dụng nghiên cứu trong toàn bộ nội dung để đánh giá khách
quan sự thể hiện của các quy định pháp luật về quyền lập hội trong sự so sánh, đối
chiếu giữa pháp luật của các quốc gia trên thế giới.
Về phương pháp nghiên cứu, trong quá trình nghiên cứu, khóa luận sử dụng các
phương pháp nghiên cứu khoa học bao gồm: Phân tích, thống kê, tổng hợp, đối chiếu
để đạt được mục đích nghiên cứu đề tài. Thêm vào đó, khóa luận cịn sử dụng phương
pháp so sánh để làm sáng tỏ các quy định pháp luật về quyền lập hội giữa pháp luật
Việt Nam và pháp luật quốc tế, qua đó nhận thức, lý giải được sự tương đồng, khác
biệt của Việt Nam và quốc tế để làm luận cứ xác thực cho việc đưa ra những khuyến
nghị nhằm hoàn thiện pháp luật hiện nay về quyền lập hội, cũng như xây dựng nên
cơ chế thực thi các quy định trên một cách hiệu quả.
7. Kết cấu của Khóa luận này gồm:
Lời nói đầu và hai chương:


6
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quyền lập hội.
Chương 2: Quyền lập hội theo pháp luật một số nước và kinh nghiệm cho Việt
Nam
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo


7
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN LẬP HỘI
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và các mối quan hệ của quyền lập hội
1.1.1. Khái niệm quyền lập hội
1.1.1.1. Khái niệm hội
Về thuật ngữ, trong tiếng Anh, “hội” thường được thể hiện qua hai thuật ngữ là
Association và Society. Trong đó, “Association” là một dạng thức liên kết của các

cá nhân có chia sẻ cùng một mục đích, làm cùng một loại hình cơng việc…3; cịn
“Society” là từ để chỉ một cộng đồng có tổ chức, tại đây mối liên hệ, liên kết giữa
các thành viên đa dạng và phức tạp hơn nhiều. Sự liên kết này khơng đơn giản dựa
trên tiêu chí mục đích, sở thích chung, mà cịn có thể là những đặc điểm văn hóa, tơn
giáo tương đồng. Cả hai khái niệm này đều có từ gốc Latinh là socius/ socielis, hàm
ý là sự liên hệ, giao lưu, đồng hành giữa con người với nhau trong đời sống.4
Dưới góc độ pháp lý quốc tế, định nghĩa về “hội” cũng đã được quan tâm nghiên
cứu. Theo Đại diện đặc biệt Liên Hợp Quốc về những người bảo vệ nhân quyền: Khái
niệm “hội” nhắc đến bất kỳ nhóm cá nhân hoặc bất kỳ thực thể pháp lý nào liên kết
với nhau để cùng nhau hành động, bày tỏ, thúc đẩy, theo đuổi hoặc bảo vệ một lĩnh
vực quan tâm chung5. Hay trong Báo cáo A/HRC/20/27 của Báo cáo viên đặc biệt về
quyền tự do hội họp hịa bình và hiệp hội, Maina Kiai 6gửi Hội đồng nhân quyền Liên
hợp quốc năm 2012 thì “hội” được hiểu “..là bất kỳ nhóm cá nhân hoặc thực thể
pháp lý nào liên kết với nhau để cùng nhau hành động, bày tỏ, thúc đẩy, theo đuổi
hoặc bảo vệ một lĩnh vực quan tâm chung”. Một số loại hội điển hình bao gồm tổ

3

Dictionary of Contemporary English (2009), New edition for Advanced learnners, Pearson Longman,

p. 88.
4
Lã Khánh Tùng, Nghiêm Xuân Hoa và Vũ Công Giao (2015), Hội và Tự do hiệp hội: Một cách tiếp
cận dựa trên quyền, NXB. Hồng Đức, Hà Nội, tr. 11.
5
Lê Thương Huyền (2021), Quyền tự do lập hội ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa
học xã hội, tr.23.
6
Maina Kiai là Báo cáo viên Đặc biệt của Liên Hợp Quốc về quyền tự do hội họp ơn hịa và lập hội từ
ngày 1 tháng 5 năm 2011 đến ngày 30 tháng 4 năm 2017. Ông Kiai là một nhà vận động lâu năm cho nhân

quyền và cải cách hiến pháp ở Kenya – đáng chú ý là người sáng lập và Giám đốc điều hành của Ủy ban Nhân
quyền Kenya khơng chính thức, và sau đó là Chủ tịch Ủy ban Nhân quyền Quốc gia của Kenya Ủy ban (20032008), nơi ông giành được danh tiếng quốc gia nhờ sự vận động dũng cảm và hiệu quả chống tham nhũng của
quan chức, ủng hộ cải cách chính trị và chống lại sự trừng phạt sau vụ bạo lực xảy ra ở Kenya năm 2008, khiến
hàng nghìn người thiệt mạng. Từ tháng 7 năm 2010 đến tháng 4 năm 2011, ông Kiai là Giám đốc Điều hành
của Hội đồng Quốc tế về Chính sách Nhân quyền, một cơ quan cố vấn có trụ sở tại Geneva chuyên đưa ra các
báo cáo nghiên cứu và tài liệu tóm tắt với các khuyến nghị chính sách. Ơng Kiai cũng là Giám đốc Chương
trình Châu Phi của Tổ chức Ân xá Quốc tế (1999-2001), và Giám đốc Châu Phi của Nhóm Luật Nhân quyền
Quốc tế (nay là Quyền toàn cầu, 2001-2003).


8
chức xã hội, câu lạc bộ, hợp tác xã, tổ chức phi chính phủ, tổ chức tơn giáo, đảng phái
chính trị, cơng đồn, tổ chức và hiệp hội trực tuyến.7
Ở Việt Nam, nhận thức về hội là vấn đề đang có nhiều tranh luận, xuất phát từ
những góc nhìn khác nhau.
Theo Từ điển tiếng Việt, danh từ “hội” dùng để chỉ tổ chức quần chúng rộng
rãi của những người cùng chung một nghề nghiệp hoặc có chung một hoạt động8.
Hay trong Từ điển Hành chính của tác giả Tơ Tử Hạ thì “Hội là tổ chức tự nguyện
của các cơng dân, tổ chức cùng ngành nghề, cùng giới, cùng sở thích,… tập hợp lại
nhằm đáp ứng nguyện vọng, lợi ích chính đáng của hội viên, khơng vì mục đích vụ
lợi”9. Các định nghĩa này đều có điểm tương đồng về “hội” là sự liên kết, quy tụ, tập
hợp của nhiều người với nhau thành nhóm để hướng đến các lợi ích, mục đích hay sự
quan tâm chung. Ví dụ: Những người thích mèo, muốn chia sẻ những kiến thức hay
những tấm hình đẹp về các loại mèo, họ tập hợp lại với nhau thành “Hội những người
yêu thích mèo”; hay là những người giàu lòng nhân ái, muốn giúp đỡ những mảnh
đời bất hạnh, họ tập hợp lại với nhau thành “Hội từ thiện”… Tuy nhiên, có thể thấy
khái niệm hội này mang tính chất chung chung và chưa làm rõ bản chất về hội.
Trong lịch sử lập pháp của Việt Nam, khái niệm “hội” đã được đề cập ngay
trong những văn bản đầu tiên của nước ta. Điều 1, Sắc lệnh số 52/SL ngày 22/4/1946
của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xác định: “Hội là một đồn thể

có tính cách vĩnh cửu gồm hai hoặc nhiều người giao ước hiệp lực mà hành động để
đạt mục đích chung; mục đích ấy khơng phải để chia lợi tức”. Hiện nay, quan điểm
về hội được quy định cụ thể tại khoản 1, Điều 2 Nghị định số 45/2010/NĐ-CP: “là
tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam cùng ngành nghề, cùng sở thích,
cùng giới, có chung mục đích tập hợp, đồn kết hội viên, hoạt động thường xuyên,
không vụ lợi nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội, hội viên, của cộng đồng;
hỗ trợ nhau hoạt động có hiệu quả, góp phần vào việc phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước, được tổ chức và hoạt động theo Nghị định này và các văn bản quy phạm
pháp luật khác có liên quan”. Khoản 2 Điều 4 của Nghị định số 45/2010/NĐ-CP đưa
ra một số đặc trưng của hội: “Hội có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản và
có thể có biểu tượng riêng”. Như vậy, theo văn bản này, hội vẫn được hiểu là tổ chức
7
Report of the Special Rapporteur on the Rights to Freedom of Peaceful Assembly and of Association,
Maina Kiai (A/ HRC/20/27), p.13, para 51.
Nguồn: 2, truy cập ngày 22/02/2023.
8
Trung tâm Từ điển học (2011), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, tr. 459.
9
Tô Tử Hạ: Từ điển Hành chính, Nxb. Lao động – Xã hội, Hà Nội, 2008, tr.129.


9
tự nguyện của cơng dân, tổ chức Việt Nam, có chung mục đích, hoạt động thường
xun, khơng vì mục tiêu lợi nhuận và có tư cách pháp nhân. Tuy nhiên, trên thực tế,
Nghị định số 45/2010/NĐ-CP không điều chỉnh đối với các tổ chức: Mặt trận tổ quốc
Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh, Hội Nơng dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam và các tổ chức giáo hội (gọi chung là các hội có tính chất đặc thù) và các
hội khơng có tư cách pháp nhân, đồng thời đặt ra yêu cầu bắt buộc các hội phải thực
hiện nghĩa vụ đăng ký10. Như vậy, hội theo cách hiểu ở Việt Nam không bao gồm các

nhóm và tập thể do nhân dân tự nguyện bột phát, tức thời lập ra (các nhóm này khơng
có điều lệ, khơng có đóng góp vật chất, sức lực, trí tuệ, khơng có hệ thống tổ chức
thống nhất, cố kết không chặt chẽ và không thường xuyên hành động). Đồng thời,
các tổ chức như: Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam,
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nơng dân Việt Nam, Hội Cựu chiến
binh Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam không được xem là hội. Đây là tổ
chức chính trị - xã hội theo Điều 9 Hiến pháp năm 2013. Các tổ chức chính trị - xã
hội bao gồm cả hoạt động chính trị và hoạt động phi chính trị11. Các tổ chức chính trị
– xã hội này là các hội đặc biệt do nguyên nhân lịch sử cách mạng Việt Nam để lại
và có những vai trị quan trọng góp phần vào việc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất
nước. Đây là những tổ chức được thành lập đại diện cho ý chí của các tầng lớp trong
xã hội trong hoạt động của bộ máy nhà nước nên phải được tổ chức theo các nguyên
tắc chặt chẽ hơn, có quan hệ chặt chẽ và trực tiếp với đảng cầm quyền, làm nòng cốt
trong mọi hoạt động và tổ chức của các hội quần chúng, là cơ sở chính trị của hệ
thống chính trị. Bên cạnh đó, hội ở Việt Nam cũng khơng bao gồm các tổ chức tơn
giáo, tín ngưỡng.12
Từ một số khái niệm đã nêu ra ở trên có thể thấy hiện nay có khá nhiều định
nghĩa về hội, tuỳ thuộc vào từng góc độ nghiên cứu cũng như nhận thức về tầm vai
trò của hội trong từng xã hội mà có những cách hiểu khác nhau về khái niệm“hội”.
Qua những ý kiến tham khảo khái niệm về hội và những phân tích ở trên, có thể đưa
ra định nghĩa về hội như sau: “Hội là tổ chức liên kết tự nguyện của công dân, tổ
chức Việt Nam cùng ngành nghề, cùng sở thích, cùng giới, có chung mục đích tập
hợp, đồn kết hội viên, hoạt động thường xun, khơng vì mục tiêu lợi nhuận, nhằm
10
Lê Thương Huyền (2021), Quyền tự do lập hội ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa
học xã hội, tr.27.
11
Phan Xuân Sơn (2012), Hệ thống chính trị và một số vấn đề về đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam,
NXB. Chính trị - Hành chính, Hà Nội, tr.33.
12

Lê Thương Huyền (2021), Quyền tự do lập hội ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa
học xã hội, tr.28.


10
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội, vì hội viên và vì lợi ích cộng đồng”. Nội
hàm của khái niệm này không bao gồm các tổ chức chính trị - xã hội (Mặt trận tổ
quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh, Hội Nơng dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam) và các tổ chức tôn giáo. Hội bao gồm hội có nghĩa vụ đăng ký và
hội khơng có nghĩa vụ đăng ký theo quy định của pháp luật. Bởi vì, đăng ký thành
lập hội là quyền của một nhóm người, nhóm sáng lập viên. Họ có quyền đăng ký hay
không đăng ký. Trên thực tế nhiều hội không đăng ký nhưng vẫn hoạt động rất tốt.
Việc đăng ký thành lập hội chỉ để các quốc gia quản lý việc các hội hoạt động hợp
pháp và có hiệu quả. Cho nên, nếu một hội muốn có tư cách pháp nhân thì mới phải
tiến hành thủ tục đăng ký thành lập hội.
1.1.1.2. Quyền lập hội
Quyền lập hội là một trong những quyền cơ bản của con người trong nhóm
quyền tự do, quyền này còn được Tòa án Tối cao Hoa Kỳ coi là một phần cơ bản của
quyền tự do ngôn luận, vì trong nhiều trường hợp, người ta chỉ thực hiện quyền này
có hiệu quả khi kết hợp với người khác13. Để nhận thức một cách sâu sắc về bản chất
và nội dung của quyền lập hội thì trước tiên cần hiểu được khái niệm về quyền lập
hội.
Tuyên ngôn Liên Hợp Quốc về quyền và nghĩa vụ của các cá nhân, các nhóm
và các tổ chức xã hội trong việc thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người và tự do cơ
bản đã được quốc tế công nhận, khẳng định: “Mọi người, hoặc tự mình hoặc thơng
qua liên kết với người khác, đều có quyền ủng hộ hoặc phấn đấu vì sự bảo vệ và thực
hiện quyền con người và những quyền tự do cơ bản ở mức độ quốc gia và quốc tế.
Các nhà nước có thể áp đặt sự hạn chế nào đó đối với tổ chức dân sự trong việc thực
hiện các quyền này nhưng nhà nước không được phân biệt đối xử với cá nhân liên

quan đến việc thực hiện các quyền này”14. Điều này có nghĩa là, nhà nước khơng
được hạn chế quyền của công dân sáng lập tham gia vào một tổ chức nào đó, khơng
được phân biệt đối xử giữa cá nhân là cơng dân và người nước ngồi khi tham gia
vào một tổ chức nào đó, tuy nhiên nhà nước cần có những biện pháp thích hợp để
quản lý, điều chỉnh tổ chức và hoạt động của hội nhằm đảm bảo quyền con người và
lợi ích chung của cộng đồng.

13

NAACP v. Alabama (1958)
Nguồn: truy cập ngày 05/05/2023.
14
Đại hội đồng Liên Hợp quốc (1998 ), Tuyên ngôn được Đại hội đồng Liên Hợp quốc thông qua theo
Nghị quyết số 53/144 ngày 09/12/1998.


11
Theo Tun ngơn Quốc tế về Nhân quyền, ngồi việc quy định: “Mọi người có
quyền tự do hội họp và lập hội một cách hịa bình”, khoản 2 Điều 20 cịn nêu rõ:
“Khơng ai bị ép buộc phải tham gia vào bất cứ hiệp hội nào”. Sau đó, Cơng ước
Quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị đã tái khẳng định và cụ thể hóa tại Điều 22,
trong đó nêu rõ: “Mọi người có quyền lập hội với những người khác, kể cả quyền lập
và gia nhập các cơng đồn để bảo vệ lợi ích của mình”. Theo tinh thần của các quy
định trên thì quyền lập hội bao gồm ba khía cạnh: (i) quyền thành lập hội; (ii) quyền
gia nhập hội; và (iii) quyền hoạt động, điều hành hội, bao gồm cả việc tìm kiếm, huy
động các nguồn kinh phí.
Ngồi hai văn kiện quốc tế quan trọng trên, Tổ chức Lao động Quốc tế cũng đã
đưa ra định nghĩa về quyền lập hội là quyền của người lao động và người sử dụng lao
động được thành lập và tham gia vào các tổ chức mà họ lựa chọn, đây là quyền không
thể tách rời của một xã hội tự do và cởi mở.15

Ở Việt Nam, theo tác giả Lê Thị Thu Thảo, quyền lập hội được hiểu là “quyền
của các cá nhân được tự do liên kết, tập hợp lại với nhau thành nhóm để theo đuổi
những hoạt động tập thể hướng đến những lợi ích, mục đích hay sự quan tâm chung.
Tự do hiệp hội khơng chỉ được hiểu là quyền tham gia một hội nào đó mà cịn bao
gồm cả quyền khơng tham gia một nhóm, hay một hội và quyền được ra khỏi nhóm
hay hội đó”16. Tương tự, theo tác giả Đặng Tất Dũng, quyền lập hội được hiểu là “tự
do của mọi người lập hội với những người khác, kể cả quyền lập và gia nhập hay
không gia nhập, ly khai các công đồn bảo vệ lợi ích của mình. Việc thực hiện quyền
lập hội không bị hạn chế, trừ trường hợp do pháp luật quy định và những hạn chế
này là cần thiết trong một xã hội dân chủ, vì lợi ích an ninh quốc gia, an tồn và trật
tự cơng cộng, để bảo vệ sức khỏe của công chúng hoặc nhân cách, hoặc các quyền
và tự do của những người khác”17. Theo góc nhìn về quyền cơ bản của con người,
tác giả Nguyễn Đăng Dung cho rằng: “Quyền lập hội là một trong những quyền cơ
bản của con người trong việc tổ chức thành lập ra các tổ chức xã hội, một công cụ

15
Freedom of associations, Nguồn: truy cập ngày 23/02/2023.
16
Lê Thị Thu Thảo (2016), Một số bất cập của Dự thảo Luật về Hội liên quan đến quyền tự do hiệp
hội, Hội thảo Góp ý Dự thảo Luật về Hội, Trường đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, tr.85.
17
Đặng Tất Dũng (2016), Mối quan hệ giữa mục tiêu QLNN và đảm bảo quyền lập hội của người dân
trong Dự thảo Luật về Hội và một số đề xuất phát huy quyền lập hội trong Dự thảo luật, Hội thảo Góp ý Dự
thảo Luật về Hội, Trường đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, tr.100.


12
quan trọng có khả năng bảo vệ quyền của mình trước những nguy cơ vi phạm của
các tổ chức, và cá nhân khác”18.
Trong quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam, quyền lập hội có một vị trí

quan trọng, xuất phát từ tầm quan trọng của việc bảo đảm quyền con người cũng như
từ vai trò đặc biệt của các hội và hiệp hội trong đời sống xã hội. Theo đó, quyền hội
họp và lập hội đã chính thức được quy định trong Hiến pháp năm 1946 (Điều 10).
Quyền này tiếp tục được khẳng định tại các bản Hiến pháp năm 1959 (Điều 25), Hiến
pháp năm 1980 (Điều 67), Hiến pháp năm 1992 (Điều 69) và Hiến pháp năm 2013
(Điều 25). Tinh thần của các quy định Hiến pháp cho thấy quyền lập hội thuộc về
mọi công dân trừ những người mất quyền công dân hoặc đang bị truy tố trước pháp
luật. Điều 2 Luật về Quyền lập hội năm 1957 ghi nhận mọi người đều có quyền lập
hội, việc lập hội phải xin phép (Điều 3) nhưng lại khơng phân biệt hội có tư cách pháp
nhân và hội khơng có tư cách pháp nhân, hội cần thiết phải đăng ký thành lập và hội
không cần phải đăng ký thành lập.
Phân tích các quan điểm và thực tiễn pháp lý trong và ngoài nước, theo quan
điểm của tác giả, quyền lập hội cần được hiểu là: “quyền cơ bản của con người, tổ
chức được tự do liên kết, tập hợp lại với nhau thành nhóm để theo đuổi những hoạt
động tập thể hướng đến những lợi ích, mục đích hay sự quan tâm chung, bao gồm
quyền thành lập, tham gia một hội, nhóm; quyền khơng tham gia một hội, nhóm;
quyền được ra khỏi hội, nhóm đó”. Theo khái niệm này, chủ thể của quyền lập hội
gồm con người (công dân Việt Nam, người nước ngồi và người khơng quốc tịch) và
tổ chức. Việc quy định tổ chức là một trong những đối tượng điều chỉnh của quyền
lập hội là vì tổ chức là một phần trong xã hội, tham gia vào các quan hệ kinh tế, chính
trị, dân sự… giống như con người.
1.1.2. Đặc điểm của quyền lập hội
Quyền lập hội là một trong những quyền cơ bản của công dân Việt Nam được
ghi nhận xuyên suốt trong tất cả các bản Hiến pháp mà Quốc hội Việt Nam thơng qua
từ trước đến nay, có ý nghĩa quan trọng trong mối tương quan với các quyền con
người khác. Do đó, quyền lập hội cũng mang đặc điểm của quyền con người nói
chung và nhóm quyền dân sự, chính trị nói riêng, bao gồm:

Nguyễn Đăng Dung (2016), Bảo đảm quyền tự do lập hội trong Dự thảo Luật về Hội của Việt Nam,
tài liệu hội thảo: Cơ chế bảo đảm thực hiện quyền lập hội của công dân: Lý luận và thực tiễn, Hà Nội..

18


13
Thứ nhất, quyền lập hội được ghi nhận và bảo đảm bởi pháp luật quốc gia và
các thỏa thuận pháp lý quốc tế.
Cũng như các quyền con người khác, quyền lập hội vừa là quyền có tính “tự
nhiên, vốn có”, vừa là quyền có tính “pháp lý”. Quyền có tính “tự nhiên, vốn có” là
quyền lập hội dành cho tất cả mọi người, không phân biệt quốc tịch, nơi cư trú, giới
tính, nguồn gốc quốc gia hay dân tộc, màu da, tơn giáo, ngơn ngữ... mọi người đều
bình đẳng trong việc thụ hưởng quyền lập hội mà khơng có sự phân biệt đối xử nào.
Tuy nhiên, quyền lập hội của cá nhân chỉ có thể được bảo đảm và hiện thực hóa nếu
nó được ghi nhận và bảo đảm bởi các quy định của pháp luật, bao gồm cả pháp luật
quốc gia và pháp luật quốc tế. Điều này thể hiện tính “pháp lý” của quyền lập hội
giống như các quyền con người khác19.
Trên phương diện pháp lý quốc tế, quyền lập hội được ghi nhận tại Điều 20 của
Tuyên ngơn Quốc tế về Nhân quyền “Ai cũng có quyền tự do hội họp và lập hội có
tính cách hịa bình. Khơng ai bị bắt buộc phải gia nhập một hội đồn”; Điều 22 của
Cơng ước Quốc tế về Quyền dân sự và chính trị “Mọi người có quyền tự do lập hội
với những người khác, kể cả quyền lập và gia nhập các cơng đồn để bảo vệ lợi ích
của mình”... Các văn kiện pháp lý quốc tế khơng chỉ ghi nhận mà cịn hình thành cơ
chế bảo đảm và thúc đẩy các quyền ghi nhận trong các văn kiện đó, bao gồm cả quyền
lập hội. Quyền lập hội và cơ chế bảo đảm quyền lập hội ở cấp độ quốc gia cũng được
ghi nhận trong pháp luật của nhiều quốc gia, trước tiên phải kể đến các quốc gia là
thành viên của các văn kiện quốc tế nêu trên.
Thứ hai, quyền lập hội không phải luôn gắn liền với chế định quốc tịch.
Quyền lập hội là quyền thuộc về con người và được quy định khác nhau trong
pháp luật của các quốc gia. Mỗi một nhà nước sẽ dành những bảo đảm đối với quyền
lập hội ở mức độ khác nhau. Bởi vì, quyền cơng dân thể hiện mối quan hệ giữa công
dân với Nhà nước, được xác định thông qua một chế định pháp luật đặc biệt là chế

định quốc tịch.
Hiện nay, pháp luật các quốc gia có hai xu hướng quy định quyền lập hội:
Xu hướng thứ nhất, quyền lập hội được quy định chỉ dành cho những người
mang quốc tịch quốc gia với tư cách là quyền công dân chứ không dành cho tất cả
các cá nhân cư trú trên lãnh thổ quốc gia. Ví dụ, Điều 25 Hiến pháp Việt Nam năm
Nguyễn Thị Hồng Yến (2022), Pháp luật về quyền lập hội và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam trong
quá trình hội nhập, NXB. Chính Trị Quốc Gia Sự thật, Hà Nội, tr.31,32.
19


14
2013 quy định: “Cơng dân có quyền tự do ngơn luận, tự do báo chí, tiếp cận thơng
tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.
Xu hướng thứ hai, quyền lập hội được quy định dành cho tất cả các cá nhân cư
trú trên lãnh thổ quốc gia không phân biệt cá nhân đó là cơng dân quốc gia hay người
nước ngồi hoặc người khơng quốc tịch. Chẳng hạn, Điều 30 Hiến pháp Liên bang
Nga năm 1993 quy định: “Mọi người đều có quyền lập hội, bao gồm cả quyền gia
nhập cơng đồn để bảo vệ lợi ích của mình...”20. Hay Điều 64 Hiến pháp Thái Lan
năm 2007 quy định: “Mọi người được tự do liên kết và hình thành hiệp hội, liên minh,
nghiệp đồn... hoặc bất kỳ nhóm nào khác”21. Trong những trường hợp này, đối với
công dân của quốc gia, quyền lập hội là quyền cơng dân; cịn đối với các cá nhân
khác quyền lập hội là quyền con người.
Mặc dù có quy định khác biệt trong pháp luật các quốc gia về quyền lập hội
nhưng điều đó khơng có nghĩa là quyền lập hội với tư cách là quyền con người hoàn
toàn độc lập với quyền lập hội với tư cách là quyền cơng dân. Bởi vì, xuất phát từ sự
tận tâm, thiện chí thực hiện điều ước quốc tế, quốc gia thành viên sẽ áp dụng trực tiếp
hoặc chuyển hóa nội dung các chuẩn mực pháp lý quốc tế về quyền con người trong
đó có quyền lập hội, vào hệ thống pháp luật quốc gia và thể hiện trước tiên thông qua
các quyền công dân mà quốc gia dành cho những người mang quốc tịch nước mình,
sau đó là những quyền của người nước ngồi hoặc người không quốc tịch đang sinh

sống trên lãnh thổ quốc gia đó. Quốc gia phải có nghĩa vụ tơn trọng, bảo đảm và thực
hiện các quyền này, dù nó là quyền chỉ dành cho công dân quốc gia hay quyền dành
cho tất cả các cá nhân cư trú trên lãnh thổ quốc gia. Chính điều này đã tạo ra sự gắn
kết dù quyền lập hội được tiếp cận dưới góc độ quyền con người hay được tiếp cận
dưới góc độ quyền công dân.22
Thứ ba, phạm vi của quyền lập hội phụ thuộc vào thể chế chính trị, quan điểm,
thái độ của lực lượng cầm quyền ở mỗi quốc gia và có thể bị hạn chế.
Thể chế chính trị, quan điểm và thái độ của lực lượng cầm quyền ở mỗi quốc
gia đóng vai trị quan trọng trong việc bảo đảm thực hiện quyền con người nói chung
và quyền lập hội nói riêng. Bởi vì, nếu điều kiện chính trị ở quốc gia đó là một nền
20

The Constitution of The Russian Federation.
Nguồn: truy cập 24/02/2023.
21
Constitution of the Kingdom of Thailand 2007.
Nguồn: truy cập 24/02/2023.
22
Nguyễn Văn Quân (2015), “Khái niệm về hội trong pháp luật Cộng hịa Pháp và góp ý hồn thiện
khái niệm về hội của Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp điện tử, số 21(301).


15
chính trị dân chủ, tiến bộ, coi trọng và đề cao quyền con người thì quyền con người,
trong đó có quyền lập hội cũng sẽ bảo đảm thực hiện tốt, phạm vi thực hiện quyền
lập hội sẽ phổ biến rộng khắp lãnh thổ quốc gia đó. Do quốc gia có nền chính trị này
có mục tiêu chính trị vì con người, quan tâm tới việc xây dựng đường lối, chiến lược,
chính sách, pháp luật lấy con người làm trung tâm, hướng tới việc tạo mọi khả năng
bảo đảm tốt nhất quyền con người. Cụ thể, ở Việt Nam hiện nay dân chủ vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của đổi mới, nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Hiến pháp và pháp luật Việt
Nam thể hiện đầy đủ tất cả các quyền cơ bản, phổ biến của con người được nêu ra
trong Tuyên ngôn Nhân quyền thế giới năm 1948 và các Công ước Quốc tế khác của
Liên hợp quốc về quyền con người. Nhà nước Việt Nam luôn xác định, con người
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng đất nước, là trung tâm của
các chính sách kinh tế - xã hội, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người là nhân tố quan
trọng cho sự phát triển bền vững, bảo đảm thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hóa và
hiện đại hóa đất nước. Đại hội XIII của Đảng nêu rõ quan điểm của Đảng, Nhà nước
Việt Nam: “Tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của
công dân theo Hiến pháp năm 2013; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm
công dân đối với xã hội”.23 Ngược lại, nếu quốc gia có điều kiện chính trị độc tài,
chuyên chế thường song hành với hiện tượng xâm hại và thu hẹp quyền con người,
đặc biệt là các quyền chính trị - dân sự.
Phần lớn các quyền dân sự, chính trị như quyền được bảo đảm an tồn tính
mạng, sức khỏe, thân thể, quyền không bị tra tấn, đối xử tàn bạo, vô nhân đạo; quyền
không bị bắt làm nô lệ hay nô dịch; quyền bình đẳng, khơng phân biệt đối xử;… đều
là những quyền phổ biến tuyệt đối, đòi hỏi phải được thực hiện ngay mà khơng có
hạn chế, điều kiện, khơng thể bị hạn chế vì đó là ranh giới giữa có hay khơng có
quyền con người24. Quyền lập hội khơng phải là quyền tuyệt đối như phần lớn các
quyền dân sự, chính trị mà có thể bị hạn chế trong các trường hợp nhất định theo quy
định của pháp luật. Tuy nhiên, hạn chế không phải là việc cho phép đưa ra những quy
định làm triệt tiêu sự tự do của cơng dân, mà chính là để bảo đảm quyền của các chủ
thể khác và lợi ích chung của cộng đồng trong những trường hợp cần thiết. Sự hạn
chế không đồng nghĩa với việc biến các hạn chế này thành các phương thức quản lý
của nhà nước trong việc thực hiện quyền.
23

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.

I, tr.71

Nguyễn Thị Hồng Yến (2022), Pháp luật về quyền lập hội và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam trong
q trình hội nhập, NXB. Chính Trị Quốc Gia Sự thật, Hà Nội, tr.34.
24


16
Thứ tư, quyền lập hội biểu thị tập trung ở số lượng, tính chất, mức độ kiểm sốt
và vai trị của các tổ chức hội trong đời sống hiện thực tại mỗi quốc gia.
Quyền lập hội thể hiện trên nhiều phương diện nhưng rõ nét nhất là ở sự tồn tại
và vai trò của các hội. Trong thời gian qua, các hội ở Việt Nam phát triển khá đa dạng
với quy mơ, phạm vi và tính chất hoạt động khác nhau. Nhiều hội đã phát huy tốt vai
trò tập hợp, đồn kết hội viên, có đóng góp tích cực vào việc bảo vệ, xây dựng và
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội
viên.
Tuỳ thuộc vào chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội ở mỗi quốc gia mà mức
độ kiểm soát của nhà nước đối với các tổ chức hội là khác nhau. Có các nấc thang
kiểm soát, tuỳ thuộc vào độ mở của nền dân chủ dẫn đến việc nhà nước công nhận,
cho phép đăng ký, cấp phép thành lập hay cấm thành lập các tổ chức hội. Quyền hoạt
động tự do của các hội tương ứng với nghĩa vụ của chính quyền trong việc tôn trọng,
thực thi và bảo vệ quyền này. Nhà nước có nghĩa vụ thực thi các biện pháp chủ động
và thụ động đối với quyền lập hội của người dân. Nhà nước phải kiềm chế không
được can thiệp vào các hoạt động bình thường của hội. Trước hết, quy chế, điều lệ
của các hội được tự quyết bởi các thành viên mà khơng có sự can thiệp của nhà nước.
Quyền riêng tư của các hội cũng cần được bảo đảm, các cơ quan nhà nước không
được thay đổi việc bầu chọn ban lãnh đạo của các hội, cử người của mình vào ban
lãnh đạo hội, yêu cầu các hội nộp kế hoạch hoạt động hội.
Các hội có hình thức đa dạng, đó có thể là các câu lạc bộ, hội nghề nghiệp, các
tổ chức phi chính phủ, các quỹ, cơng đồn, chính đảng và cơng ty. Do sự đa dạng của
các nhóm, pháp luật các quốc gia thường có quy định điều chỉnh riêng một số nhóm,
hội bằng các luật riêng như: luật về doanh nghiệp - công ty, luật về cơng đồn - nghiệp

đồn, luật về các đảng phái chính trị.25 Các hội, hiệp hội có vai trị trung tâm trong xã
hội dân sự, khơng có tự do lập hội thì hầu như xã hội dân sự khơng tồn tại. Đời sống
hiệp hội là một chỉ số của xã hội dân chủ. Đời sống hiệp hội cũng giúp gia tăng vốn
xã hội, lòng tin trong xã hội thường tỷ lệ thuận với mức độ ràng buộc, gần gũi của
các quan hệ xã hội, cũng như sự trưởng thành của xã hội dân sự .

Nguyễn Đăng Dung (2016), Bảo đảm quyền tự do lập hội trong Dự thảo Luật về Hội của Việt Nam,
tài liệu hội thảo: Cơ chế bảo đảm thực hiện quyền lập hội của công dân: Lý luận và thực tiễn, Hà Nội.
25


17
Thứ năm, quyền lập hội của cá nhân phải được thực hiện cùng với các thành
viên khác trong nhóm.
Tự do hiệp hội là đặc tính xã hội của con người, là nhu cầu tự nhiên của con
người muốn được quy tụ, được tập trung trong một tổ chức với những mối liên hệ
gần gũi, chặt chẽ. Việc các cá nhân liên kết, tập hợp lại với nhau thành nhóm để
hướng đến lợi ích, mục đích hay sự quan tâm chung thường được gọi là lập hội. Cá
nhân chỉ hiện thực hóa được quyền này của mình khi nó được tiến hành cùng với các
thành viên khác trong một nhóm có chung mục đích, lý tưởng, xu hướng… Quyền
của cá nhân và quyền của nhóm trong trường hợp này hỗ trợ, bổ sung cho nhau và
qua đó nâng cao hiệu quả cũng như những tác động ảnh hưởng của quyền lập hội
trong thực tiễn quốc gia và quốc tế.
1.1.3. Ý nghĩa của quyền lập hội
Quyền lập hội có ý nghĩa quan trọng đối với thúc đẩy các quyền con người khác
(dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa), cũng như đối với phát triển quốc gia.
Bởi vì, tự do lập hội là cần thiết trong một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Thứ nhất, trong lĩnh vực kinh tế, quyền lập hội phát triển làm cho các hội dần
trở thành một lực lượng kinh tế quan trọng đóng góp phần lớn vào sự nghiệp phát
triển kinh tế của đất nước. Nhờ sự trợ giúp về thông tin, tuyên truyền kinh nghiệm kỹ

thuật, quản lý, đóng góp ý kiến nhằm thúc đẩy sự ra đời các chính sách cho phù hợp
với thực tiễn nên mới phần nào khắc phục được các khiếm khuyết của nền kinh tế thị
trường, từ đó giúp nền kinh tế phát triển đi lên.
Thứ hai, trong lĩnh vực xã hội, ngày nay các hội tham gia rộng rãi vào các lĩnh
vực văn hóa, y tế, giáo dục, lao động… đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục và y tế,
nhiều hội thực hiện các hoạt động bảo vệ trẻ em, người già, người tàn tật, quyên góp
để xây trường ở những nơi vùng sâu vùng xa, cứu trợ thiên tai… Các hội đang chung
tay giúp đỡ Nhà nước một phần khi nguồn lực Nhà nước chưa đủ cung cấp cho xã
hội. Do đó có thể nói quyền lập hội có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát triển
kinh tế, xã hội.
Thứ ba, trong lĩnh vực công tác phổ cập kiến thức, quyền lập hội giúp tuyên
truyền, phổ cập kiến thức một cách dễ dàng và rộng rãi thông qua việc cung cấp tài
liệu phổ biến kiến thức, thơng qua các báo, tạp chí.


18
Thứ tư, trong lĩnh vực dân sự, thông qua quyền lập hội giúp các cá nhân liên kết
lại cùng nhau bảo vệ quyền sống, quyền an toàn về thân thể, quyền tự do ngơn luận,
báo chí, đi lại.
Tổng thể lại, các quyền tự do này là tiền đề và cũng là động lực thúc đẩy con
người hoạt động và sáng tạo: “Tự do cá nhân được dân chủ mang lại là cội nguồn
sản sinh ra những sáng kiến, những sáng tạo, cũng có nghĩa là sản sinh ra sự giàu
có, làm tăng thêm gấp bội của cải cho xã hội, góp phần thúc đẩy xã hội đi lên”26.
1.1.4. Mối quan hệ giữa quyền lập hội và một số quyền dân sự - chính trị cơ bản
của con người
1.1.4.1. Quyền lập hội và quyền tự do hội họp
Lập hội và hội họp có mối quan hệ gắn bó, chặt chẽ và khơng thể tách rời nhau.
Bởi vì, quyền lập hội chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở của một số quyền khác,
trong đó có quyền tự do hội họp. Quyền tự do hội họp đóng vai trị là tiền đề để các
nhóm có thể thảo luận, trao đổi về việc lên kế hoạch, hình thành, triển khai các hoạt

động, chương trình của các hội. Thực hiện quyền tự do hội họp cũng là phương tiện
quan trọng để các hội, đồn có thể triển khai các hoạt động của mình tại các địa bàn
khác nhau. Nói cách khác, khi mà tự do hội họp được thừa nhận thì khả năng lập hội,
tham gia vào hội mới thành hiện thực. Bên cạnh đó, khi các cá nhân tham gia vào một
hiệp hội thì tự do hội họp là phương tiện để hiệp hội có thể triển khai hoạt động, thực
thi mục tiêu, tôn chỉ mà hiệp hội đề ra.
Về bản chất, lập hội cũng là một biểu hiện của tự do hội họp. Hội họp là việc
nhiều người tập trung lại để cùng trao đổi, chia sẻ mối quan tâm, cùng biểu đạt quan
điểm, niềm tin… Hội họp có thể diễn ra tại nơi công cộng hoặc tại nhà riêng, với
nhiều hình thức khác nhau (tọa đàm, hội thảo, trình diễn nghệ thuật, biểu tình, tuần
hành)27.
Tuy nhiên về cơ bản, hai quyền này cũng có những điểm khác biệt. Tự do hội
họp có mức độ đơn giản hơn chỉ dừng lại ở việc gặp gỡ đơn thuần. Còn lập hội ở mức
độ cao hơn là khi các cá nhân tham gia hiệp hội, hiệp hội tạo ra các chính sách, cơ
chế bảo đảm cho các hành vi và các thành tố của cuộc gặp gỡ.

Vũ Duy Phú (chủ biên) và các cộng sự (2008), Xã hội dân sự - Một số vấn đề chọn lọc, NXB. Tri
Thức, tr.63.
27
Nguyễn Hoàng Anh và các cộng sự (2019), Pháp luật về quyền tự do lập hội, hội hợp hịa bình trên
thế giới và của Việt Nam, tái bản lần thứ 12, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, tr. 19.
26


19
1.1.4.2. Quyền lập hội và quyền tự do ngôn luận và tự do thông tin
Quyền tự do ngôn luận là quyền của con người trong việc tự do tìm kiếm, tiếp
nhận và truyền đạt thơng tin, ý kiến của mình đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội dưới hình thức bằng lời nói, văn bản (viết tay hoặc đánh máy) hoặc dưới bản điện
tử (email, facebook, zalo…) hoặc dưới hình thức khác (tranh vẽ, biểu diễn nghệ

thuật…)28.
Quyền tự do ngôn luận và tự do thông tin giúp cho các cá nhân, tổ chức có được
thơng tin một cách đầy đủ, chính xác, khách quan và cơng khai. Làm cho thơng tin
đó được các chủ thể trong xã hội tin cậy. Sự tin tưởng, hiểu biết chính là tiền đề thúc
đẩy sự liên kết giữa các cá nhân hình thành nên hội. Khơng có quyền tự do ngơn luận
và tự do thơng tin thì các cá nhân, tổ chức khơng thể phản ánh, thảo luận hay tìm
kiếm các giải pháp cho các vấn đề xã hội. Ngược lại các hội giúp tập hợp, chia sẻ và
phân tích thơng tin một cách hiệu quả hơn, có thể liên kết vận động cải thiện chính
sách của nhà nước về thơng tin, giám sát các cơ quan công quyền thực thi pháp luật
về tiếp cận thơng tin. Nếu khơng có sự tập hợp để cùng nhau đưa ra ý kiến thì quyền
tự do ngôn luận và tự do thông tin bị giảm hiệu quả đáng kể, tiếng nói của một cá
nhân rất khó được tiếp thu và tầm ảnh hưởng hạn chế hơn.
1.1.4.3. Quyền lập hội và quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội
Quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội là quyền cơ bản của công dân về
lĩnh vực chính trị được ghi nhận trong đạo luật cơ bản của Nhà nước. Ở Việt Nam,
quyền này được ghi nhận tại Điều 28 Hiến pháp năm 2013: “Cơng dân có quyền tham
gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan Nhà
nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước”. Các hội ở nước ta thường sử
dụng quyền này để kiến nghị với cơ quan nhà nước về tâm tư, nguyện vọng của mình.
Từ đó, giúp cho nhà nước trong việc tăng cường quản lý khi tiếp nhận những ý kiến
quý giá từ các hội quần chúng, nhờ đó đưa ra những phương thức quản lý hiệu quả.
Mặt khác, giúp cho các hội nâng cao hiệu quả hoạt động của mình tạo được vị trí
đáng tin cậy trong xã hội.
Như vậy, quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của công dân cùng với các
quyền khác tạo tiền đề cho quyền lập hội được phát huy một cách toàn diện.

28

truy cập ngày 29/02/2023.



20
1.1.4.4. Quyền lập hội và quyền tự do liên kết của người lao động
Quyền tự do liên kết của người lao động là loại quyền phát sinh, gắn liền với
quan hệ lao động nhằm cân bằng vị thế của tập thể lao động và người sử dụng lao
động29. Đây là một loại quyền đặc biệt của người lao động. Quyền này được xem là
nhu cầu lợi ích tự nhiên mang tính khách quan gắn liền với người lao động. Quyền
liên quan đến lao động được ghi nhận tại khoản 4, Điều 23 của Tun ngơn tồn thế
giới về nhân quyền năm 1948 quy định: “Tất cả mọi người đều có quyền, cùng với
người khác, thành lập các cơng đồn hay gia nhập vào các cơng đồn để bảo vệ lợi
ích của mình”. Hay khoản 1, Điều 22 của Cơng ước Quốc tế về các Quyền dân sự và
chính trị năm 1961 quy định: “Mọi người đều có quyền tự do lập hội với những người
khác, kể cả quyền lập và gia nhập các cơng đồn để bảo vệ lợi ích của mình”. Nhiều
nước trên thế giới đã có đạo luật riêng quy định cơng đồn với tư cách là một dạng
hội. Chẳng hạn Luật Cơng đồn năm 1949 của Nhật Bản quy định về trình tự, thủ tục
đăng ký cũng như các vấn đề khác liên quan đến cơng đồn và công nhân sẽ do Ủy
ban về quan hệ lao động (Labor Relation Commission) quản lý như một dạng hội.
Việt Nam cũng vậy, cũng coi cơng đồn là một dạng hội vì nó mang đầy đủ những
đặc trưng cơ bản của một hội theo khái niệm chung.30 Như vậy, quyền lập hội là cơ
sở, tiền đề để người lao động tại doanh nghiệp thành lập và gia nhập hội này. Từ đó,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên tổ chức mình trong quan
hệ lao động tại doanh nghiệp; xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định.
Như vậy, quyền lập hội và quyền tự do liên kết của người lao động tạo điều kiện
cho người lao động và người sử dụng lao động cùng nhau bảo vệ tốt hơn không chỉ
quyền lợi kinh tế mà cả các quyền tự do dân sự của họ như quyền được sống, được
đảm bảo an toàn, toàn vẹn, và đảm bảo các quyền tự do cá nhân và tập thể.
1.2. Chủ thể, nội dung, sự hạn chế quyền lập hội
1.2.1. Chủ thể của quyền lập hội
Điều 20 Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền và Điều 22 Công ước Quốc tế về
các Quyền dân sự và chính trị ghi nhận quyền này thuộc về tất cả mọi người. Trên

thế giới, có hai trường phái phổ biến về chủ thể của quyền lập hội như sau:

Đào Mộng Điệp (2019), “Hoàn thiện pháp luật về quyền tự do liên kết và thương lượng tập thể của
người lao động khi thực thi CPTPP”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 05.
30
Nguyễn Thị Thìn (2019), Bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp 2013, Khóa luận tốt nghiệp,
Trường đại học quốc gia Hà Nội, tr.42.
29


21
Trường phái thứ nhất cho rằng chủ thể của quyền lập hội là thuộc về mọi người.
Các nước tiêu biểu cho trường phái này là Hoa Kỳ, Đức, Thuỵ Điển, Ba Lan…
Tại Hoa Kỳ, quyền lập hội trong pháp luật Hoa Kỳ hiện nay được ghi nhận trong
Luật Hội phi lợi nhuận không liên kết thống nhất ban hành năm 2008 và sửa đổi, bổ
sung năm 2011. Theo quy định thì bất kỳ ai cũng có quyền lập hội, khơng hạn chế về
chủ thể của quyền này. Có nghĩa là cơng dân Hoa Kỳ, người nước ngồi cư trú ở Hoa
Kỳ hay người nước ngồi khơng cư trú tại Hoa Kỳ, người có nhiều quốc tịch và khơng
có quốc tịch đều có quyền lập hội ở đây. Các hội đăng ký hoặc không đăng ký đều
được bảo đảm, bảo vệ một cách bình đẳng.
Hiến pháp và pháp luật Cộng hịa Liên bang Đức ghi nhận quyền lập hội thuộc
về mọi người. Được ghi nhận tại Điều 9 Đạo luật cơ bản của Cộng hịa Liên bang
Đức năm 1949 có nội dung như sau: “Tất cả người Đức đều có quyền thành lập cơng
ty và các hội khác”. Do đó, Hiến pháp Cộng hòa Liên bang Đức ghi nhận chủ thể của
quyền lập hội là cơng dân Đức. Ngồi ra, theo Điều 2 Đạo luật cơ bản của Cộng hòa
Liên bang Đức năm 1949 quy định “Mọi người đều có quyền tự do phát huy khả năng
và tố chất của mình trong chừng mực nhất định không xâm phạm đến các quyền của
người khác hoặc không vi phạm thể chế hiến định hoặc các chuẩn mực đạo đức” và
Điều 1 Luật về hội quy định “Việc lập các hội là tự do” thì người nước ngồi ở Đức
khi thành lập hội ở Đức có thể viện dẫn Điều 2 Đạo luật cơ bản và Điều 1 Luật về hội

nếu phát huy khả năng và tố chất của bản thân trong giới hạn không xâm hại đến
quyền của người khác hoặc không vi hiến, không vi phạm các chuẩn mực đạo đức.
Tại Ba Lan cho phép mọi cơng dân đều có quyền thành lập hội. Đối với người
nước ngoài, Điều 4 Luật Hội Ba Lan năm 1989 31quy định người cư trú trên lãnh thổ
Ba Lan có quyền tự do nhập hội, người khơng cư trú tại Ba Lan thì tùy từng trường
hợp cụ thể mà cơ quan có thẩm quyền có thể cho phép hoặc không cho phép lập hội.
Điều 8 Luật Hội của Hungary 32quy định công dân, pháp nhân (kể cả pháp nhân
công và pháp nhân tư), công dân nước ngồi (thường trú hoặc khơng thường trú tại
Thụy Điển) đều có thể thành lập hội.
Trường phái thứ hai cho rằng chủ thể của quyền lập hội là thuộc về công dân.
Các nước tiêu biểu cho trường phái này là Trung Quốc, Việt Nam.

Luật hội Ba Lan năm 1989, truy cập ngày
09/05/2023.
32
Luật hội Hungary, truy cập ngày 09/05/2023.
31


×