Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Hợp đồng điện tử theo pháp luật việt nam phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 77 trang )

giao kết họp
dịng điện từ.
tó người tiét
ệ thịng tin B

ttongqtriii
ị điệntừj Ị

''ậvềỉiọpị

cậpnhấtđịáểoi
■ Chãnghạnáit
ĩite theo mơ toỉ
mẫu trên websiỉ

đỏne điệntừ.vằ

CHƯƠNG 3
HỒN THIỆN PHÁP LUẬT VÈ HỢP ĐỒNG
ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY






L NHỮNG U CẦU ĐỐI VỚI VIỆC HỒN
THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÈ HỢP ĐÒNG ĐIỆN
TỬ
Sự phát triển của công nghệ thông tin, giao dịch điện tử
đã làm thay đổi cách thức giao dịch, giao kết hợp đồng truyền


thống và đem lại những lợi ích to lớn cho xã hội. Tuy nhiên,
bên cạnh đó cũng phải thừa nhận ràng, những rủi ro có thể gặp
phải trong q trình giao kết và thực hiện hợp đồng trên mạng

E thục Ể, v ồ ỉ

là hiện thực và việc này đòi hỏi phải có các giải pháp khơng
chỉ về mặt kỹ thuật mà cịn cần phải hình thành được một

ấnđềnếuklỀ!

tế trên thế giới cho thấy, để thúc đẩy hợp đồng điện tử phát
triển thì vai trị của Nhà nước phải được thể hiện rõ nét trên
hai lĩnh vực: cung ứng dịch vụ điện tử và xây dựng một hệ
thống pháp luật đầy đủ, thống nhất và cụ thể để điều chỉnh các
quan hệ hợp đồng điện tử. Nếu như chúng ta thiếu đi một cơ

róisựpliáltt

khung pháp lý đầy đủ và hồn thiện. Những kinh nghiệm thực

sờ pháp lý vững chắc cho hợp đồng điện tử hoạt động thì các
doanh nghiệp và người tiêu dùng sẽ rất lúng túng trong việc
giải quyết các vấn đề có liên quan và về phía các cơ quan nhà
nước cũng sẽ rất khó có cơ sở để kiểm soát được các hoạt
động giao kết hợp đồng điện tử.
249


Hom thế nữa giao kết hợp đồng điện tử là một lĩnh vực

mới mẻ cho nên tạo được niềm tin cho các chù thê tham gia
vào các quan hệ hợp đồng điện tử là một việc làm có tính câp
thiết mà một trong những hạt nhân là phải tạo ra được một
hành lang pháp lý hoàn thiện, thuận lợi, bảo vệ được quyên và
lợi ích hợp pháp của các bên tham gia. Như đã phân tích ở
Chương 2, bên cạnh những kết quả đạt được trong quá trình
xây dựng pháp luật về hợp đồng điện tử thời gian vừa qua, thì
khung pháp luật về hợp đồng điện tử ở nước ta hiện nay vẫn
còn tồn tại những hạn chế, bất cập'nhất định địi hỏi cần phải
tiếp tục nghiên cứu hồn thiện. Việc hoàn thiện pháp luật về
hợp đồng điện tử ở nước ta hiện nay phải đáp ứng các yêu cầu
sau:
1.

Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng điện tử phải

trên cơ sở quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng về
ứng dụng công nghệ thông tin vào mọi hoạt động của đòi
sổng kinh tế - xã hội, tận dụng những lợi ích mà cơng nghệ
thơng tin đem lại nhằm đẩy mạnh sự phát triển kinh tế xã bội
Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin trong
những thập niên cuối của thế kỷ XX đã tạo ra những khả năng
và cơ hội mới cho sự phát triển kinh tế - xã hội trên phạm vi
tồn cầu. Cơng nghệ thơng tin được ứng dụng rộng rãi trong
mọi lĩnh vực đã thúc đây tăng trưởng kinh tê, chuyên dịch cơ
cấu kinh tế và làm thay đổi căn bản cách quản lý, học tập và
250


làm việc của con người, ứ n g dụng công nghệ thông tin giúp

tổ chức, cá nhân nâng cao hiệu suất làm việc trong các hoạt
động của mình.
Ở nước ta, cơng nghệ thơng tin có vai trị đặc biệt quan
trọng trong việc phát huy có hiệu quả năng lực trí tuệ của
người Việt Nam, thúc đẩy phát triển kinh tế, rút ngắn khoảng
cách phát triển so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Mặt khác, ứng dụng công nghệ thông tin và phát triển công
nghệ thông tin đổi với mọi lĩnh vực, trong đó có hoạt động
thương mại, giao kết hợp đồng ở nước ta sẽ góp phần giải
phóng sức mạnh vật chất và tinh thần của dân tộc, đẩy mạnh
công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và hiện đại hóa các ngành
kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp,
hỗ trợ hiệu quả quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,
nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân và tạo khả năng
đi tắt đón đầu để thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nhận thức được điều này, Đảng ta đã ban hành nhiều
nghị quyết chỉ đạo, định hướng việc ứng dụng và phát triển
công nghệ thông tin. Nghị quyết Hội nghị lần thứ VII Ban
Chấp hành Trung ương (khóa VII) ngày 30/7/1994 xác định:
“ưu tiên ứng dụng và phát triển các công nghệ tiên tiến, như
công nghệ thông tin phục vụ yêu cầu điện tử hóa và tin học
hóa nền kinh tể quốc dàn”59. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
59 Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đàng toàn tập, tập 53, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, tr. 570.

251


quốc lần thứ VIII năm 1996 nhấn mạnh: “ứ ng dụng cóng

nghệ thơng tin trong tât cả các lĩnh vực kinh té quôc dan, tạo
ra sự chuyển biến rõ rệt vê năng suất, chất lượng và hiệu quả
của nền kinh tế”60. Tháng 4/2001, tại Đại hội Đảng toàn quốc
lần thú IX, thương mại điện tử đã được nhắc tới như một yêu
tố thị trường quan trọng cần phát triển nhằm hỗ trợ các ngành
thương mại, dịch vụ khác, thể hiện trong văn kiện về định
hướng phát triển kinh tế, xác định tư tưởng chi đạo của Đảng
đối với thương mại điện tử. Văn kiện nêu rõ: ‘'Phát triển
mạnh và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ: thương mại,
kể cả thương mại điện tử... Sớm phổ cập sử dụng tin học và
mạng thông tin quốc tế (Internet) trong nền kinh tế và đời
sống xã h ộ r
Đặc biệt, nhằm tạo ra bước phát triển và ứng
dụng mạnh mẽ hơn công nghệ thơng tin trong thời kỳ mới, Bộ
Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 58-CT/TW ngày 17/10/2000
về việc đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin
phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong đó
yêu cầu tập trung phát triển các dịch vụ điện tử trong các lĩnh
vực dịch vụ, thương mại và thương mại điện tử... Chi thị số
58-CT/TW cũng khẳng định: “Công nghệ thông tin là lĩnh vực
cần được đặc biệt khuyến khích đầu tư. Rà sốt và tháo bỏ
mọi nhận thức và quy định không phù hợp, tạo điều kiện
60 Đàng Cộng sàn Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biêu tồn quốc lần thứ
VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 190.
61 Đàng Cộng sàn Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biêu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 93-94.

252



thuận lợi nhất, áp dụng mức ưu đãi hiện hành cao nhất và
từng bước đạt mức ưu đãi bằng hoặc cao hom so với các nước
trong khu vực cho việc ứng dụng và phát triển công nghệ
thông tin, đi đôi với việc thực hiện các biện pháp quản lý chặt
chẽ, sử dụng có hiệu quà”.
Những chủ trương của Đảng vừa nêu ở trên là hết sức
quan trọng trong việc định hướng hoàn thiện pháp luật về hợp
đồng điện tử. Trên cơ sở những chủ trương, định hướng đúng
đắn đó, Nhà nước đóng vai trị tạo lập mơi trường pháp lý và
cơ chế chính sách thuận lợi nhằm thu hút cơng nghệ tiên tiến
và khuyến khích doanh nghiệp và người dân ứng dụng giao
kết hợp đồng điện tử; cung cấp các dịch vụ công hỗ trợ hoạt
động giao kết hợp đồng điện tử. Việc hoàn thiện pháp luật về
hợp đồng điện tử phải thể chế hóa cho được đường lối, chính
sách của Đảng về đẩy mạnh và phát triển ứng dụng công nghệ
thông tin vào mọi hoạt động của nền kinh tế. Thơng qua việc
hồn thiện này, chúng ta khơng chỉ thấy rằng một hành lang
pháp lý phù hợp cho giao kết hợp đồng điện tử được mở ra
trước mắt, mà cịn thấy sau nó là cả một chiến lược mang tính
chính trị, đó là chiến lược sử dụng cơng nghệ cao cho sự phát
triển kinh tế. Có như vậy, chúng ta mới tận dụng được những
lợi ích mà giao kết hợp đồng điện tử mang lại, thúc đẩy hoạt
động sản xuất và giao dịch thương mại trong nước cũng như
với nước ngồi, nhằm phục vụ cho cơng cuộc phát triển kinh
tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
253


2.
Hoàn thiện pháp luật về họp đồng điện tử phải

trên cơ sở tôn trọng bản chất của họrp đồng
Nghiên cứu về hợp đồng trong pháp luật Việt Nam cũng
như pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới cho thây một
bản chất thống nhất của hợp đồng - đó là sự thỏa thuận, thơng
nhất ý chí của các chủ thể tham gia nhàm làm phát sinh hậu
quả pháp lý. Trên nền tảng của tự do, tự nguyện về ý chí và sự
bình đẳng về địa vị pháp lý, quan hệ hợp đồng dù được thiết
lập bằng bất cứ phương thức nào (truyền thống hay điện tử)
cũng luôn phản ánh một bản chất thống nhất. Vì vậy, pháp
luật với chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, cần phải tơn
trọng bản chất khách quan của các quan hệ đó. Không phủ
nhận nhu cầu phải ban hành các văn bản quy phạm pháp luật
đặc thù để điều chỉnh các quan hệ hợp đồng chuyên biệt,
nhưng các văn bản quy phạm pháp đó phải được xây dựng
dựa trên nền tảng lý luận đồng bộ và thống nhất. Trên cơ sở
đó, cho phép chúng ta xây dựng được một hệ thống các quy
định pháp luật nhất quán, phản ánh được đúng bản chất khách
quan của các quan hệ hợp đồng, tránh những mâu thuẫn
khơng đáng có về mặt lý luận cũng như thực tiễn nhàm tiến
tới điều chỉnh một cách phù hợp, hiệu quả đối với các quan hệ
hợp đồng điện tử và xây dựng được một cơ sở pháp lý vững
chắc, khoa học và tin cậy cho mọi chủ thể tham gia.
Tơn trọng bản chất khách quan của hợp đồng cịn địi hỏi
sự tơn trọng và bảo đảm của pháp luật đối với quyền bình
254


iẳng và tự do ý chí của các chủ thể, hạn chế tối đa sự can
thiệp không cần thiết của Nhà nước vào các quan hệ hợp
đồng. Tuy nhiên, điều này khơng có nghĩa phủ nhận hồn tồn

chức năng đảm bảo trật tự công cộng và khả năng điều chỉnh
của Nhà nước trong các quan hệ đó.
3.

Hồn thiện pháp luật về hợp đồng điện tử phải bảo

đảm tính thống nhất của toàn bộ hệ thống pháp luật bợp
đồng
Hợp đồng điện tử không làm thay đổi bản chất của các
hợp đồng nhiều như nó thay đổi q trình đi đến thoả thuận.
Vì vậy, giới luật gia khơng nên kỳ vọng rằng loại hợp đồng
này sẽ dẫn đến sự cần thiết phải xây dựng một đạo luật riêng
để điều chỉnh và cũng không nên tin ràng, luật truyền thống sẽ
không thay đổi, bất chấp các phương thức thiết lập hợp đồng
mới. Vì sự tiến bộ công nghệ ảnh hường tới hệ thống pháp
luật, nên luật hợp đồng phải thừa nhận và điều chỉnh một cách
hợp lý những thay đổi cơ bản trong cách thức thiết lập họp
đồng. Mục tiêu không phải là soạn ra một khung pháp lý
không được kiểm định mà là đặt niềm tin vào mục đích của
các quy định đã có sẵn từ hàng thập kỷ, thậm chí là hàng thế
kỷ nay, để khuyến khích giao dịch và bào vệ những người
tham gia.
Vẩn đề mà chúng ta cần đặc biệt quan tâm khi xây dựng
và hoàn thiện pháp luật trong bối cảnh như thế này đó là vừa
phải đảm bảo có được những quy định điều chinh những vấn
255


đề đặc thù trong giao kết hợp đồng điện tử, lại vừa bảo đảm sự
thống nhất cùa hệ thống pháp luật hợp đồng nói chung cũng

như với tồn bộ hệ thống pháp luật quốc gia. Đây là một thách
thức, mà nội dung là phải hiện đại hóa hệ thống pháp luật hợp
đồng cho phù hợp với những chuẩn mực hiện đại đông thời lại
không phá vỡ nền tảng pháp luật hợp đồng truyền thơng. Đe
làm được điều đó, khẩu hiệu của chúng ta là "vừa tiên lên
phía trước, vừa nhìn lại phía sau” để đạt được một tổng thể
thống nhất.
Tính thống nhất của pháp luật về họp đồng thể hiện ở
chỗ pháp luật về hợp đồng phải là một chình thể, được cấu
thành bởi các quy phạm, các chế định pháp luật có nội dung rõ
ràng, tương thích, nhất qn, không mâu thuẫn, không chồng
chéo, không phủ định nhau. Nội dung tính thống nhất của
pháp luật hợp đồng thể hiện ở những điểm cơ bản như: các
nguyên tắc, chế định, quy phạm pháp luật được sắp xếp một
cách khoa học, lôgic, cụ thể, không mâu thuẫn, chồng chéo về
nội dung. Tính thống nhất khơng có nghĩa là việc pháp điển
hố các quy định về hợp đồng trong một đạo luật duy nhất.
Nó khơng phụ thuộc vào số lượng văn bản pháp luật điều
chinh quan hệ hợp đồng. Nhưng nó địi hỏi các văn bản phải
được sắp xếp theo trật tự giá trị hiệu lực của văn bản, bời
nguyên tắc ưu tiên trong áp dụng văn bản điều chình quan hệ
hợp đồng, bởi mối quan hệ giữa luật chung và luật chuyên
ngành. Theo đó, các quy định trong các văn bản pháp luật
256


chuyên ngành không trái với quy định trong các văn bản pháp
luật chung.
Xuất phát từ yêu cầu này, các quy định về hợp đồng
trong Bộ luật Dân sự năm 2005 phải được coi là các quy định

chung về hợp đồng có hiệu lực điều chỉnh đối với tất cả các
quan hệ hợp đồng. Các quy định pháp luật về hợp đồng điện
tử chỉ điều chỉnh về hình thức, phương thức xác lập hợp đồng
thông qua phương tiện điện tử, tức là các điều kiện, cách thức
để các hợp đồng được giao kết bằng phương tiện điện tử được
xem là có giá trị pháp lý như các hợp đồng được xác lập bàng
các phương tiện truyền thống. Ngoài ra, những vấn đề về nội
dung của từng loại hợp đồng vẫn do pháp luật chuyên ngành
điều chỉnh.
Đảm bảo tính thống nhất của tồn bộ hệ thống pháp luật
hợp đồng trong q trình hoàn thiện pháp luật về hợp đồng
điện tử thể hiện những ý nghĩa pháp lý quan trọng là:
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân cũng
như các cơ quan áp dụng pháp luật trong việc nhận thức và
thực hiện pháp luật; tạo tâm lý tin tưởng, yên tâm của các bên
tham gia quan hệ hợp đồng điện tử vào chính sách, pháp luật
của Nhà nước, trên cơ sở đó phát huy tối đa các nguồn lực vào
đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực thương mại điện tử;
- Hình thành đồng bộ hệ thống chế định pháp luật về hợp
đồng điện tử, giúp tăng cường hiệu lực và hiệu quả quàn lý
của Nhà nước đối với lĩnh vực giao dịch mới mẻ này;
257


Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cùa các bên tham
gia, nhất là bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong các quan
hệ hợp đồng điện tử mà bàn thân phương thức giao dịch đã
luôn đưa họ vào vị trí yếu thế.
4.
Hồn thiện pháp luật về họp đồng điện tử phải phù

họp vói hạ tầng ứng dụng cơng nghệ thơng tin của Việt
Nam
Pháp luật được hình thành do nhu cầu điều chinh các
quan hệ xã hội. Chức năng của pháp luật chỉ có thể thực hiện
được khi nó được xây dựng phù hợp với những điều kiện cụ
thể của xã hội trong từng thời kỳ nhất định: '"Một hệ thống
pháp luật cỏ thể được xây dựng khá toàn diện, khơng có mâu
thuẫn, nhưng lại khơng phù hợp với trình độ phát triến của xã
hội là một hệ thống ào. Đó có thể là hệ thống pháp luật duy ỷ
chí hay một hệ thống pháp luật vay mượn, sao chép”62.
Như vậy, một trong những yêu cầu đặt ra đối với việc
hoàn thiện pháp luật về hợp đồng điện tử là tính phù hợp và
khả năng thích ứng với điều kiện, hạ tầng ứng dụng công nghệ
thông tin của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên,
điều này không thể làm hạn chế hay phủ nhận tính dự liệu của
pháp luật về hợp đồng điện tử đối với việc điều chinh các
quan hệ phát sinh ít nhất trong một tương lai gần nhằm đảm
62 GS. TSKH. Đào Tri ú c (2001), "Những nội dung cơ bàn cùa khái niệm hệ
thống pháp luật nước ta và các nguyên tăc lập pháp", Tạp chi Nghiên cứu láp
pháp, số 10/2001, tr. 4.

258


bảo sự ổn định tương đối của pháp luật về hợp đồng điện tử.
Khi xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hợp đồng điện tử
phải tính đến một cách đầy đủ, toàn diện các điều kiện về cơ
chế, tổ chức, nguồn nhân lực, nguồn lực tài chính và các điều
kiện vật chất khác của hạ tầng công nghệ thông tin. Các quy
định pháp luật điều chỉnh việc giao kết và thực hiện hợp đồng

điện tử sau khi được ban hành chỉ có thể thực sự đi vào cuộc
sống nếu có cơ sở hạ tầng ứng dụng cơng nghệ thơng tin tốt.
Hệ thống thông tin phải đàm bảo về tốc độ truyền dẫn thông
tin đủ lớn, độ ổn định và an tồn cao. Cơ sở hạ tầng về mạng
viễn thơng phải đủ mạnh, đồng thời đảm bảo chi phí hợp lý để
các doanh nghiệp và người dân có khả năng tiếp cận với các
dịch vụ truyền thông, đặc biệt là Internet.
Cần phải nhấn mạnh ràng, việc hoàn thiện pháp luật về
hợp đồng điện tử chỉ là điều kiện cần, chưa phải là điều kiện
đủ cho sự phát triển của các quan hệ hợp đồng điện tử. Có thể
ví như khi chúng ta xây dựng đường cao tốc: có làn đường, có
biển hiệu, có quy tắc về tốc độ khơng có nghĩa là sẽ có nhiều
người đi và đi an tồn; vấn đề còn phụ thuộc vào điều kiện
của người tham gia, chất lượng phương tiện sử dụng, hiểu biết
của người đi trên đường... Cũng như vậy, dù đã có khung khổ
pháp lý, việc giao kết hợp đồng điện tử chỉ thực sự phát triển
và an toàn nếu các chủ thể muốn và biết sử dụng phương tiện
điện tử cho giao dịch của mình, nếu họ có kiến thức tối thiểu
về công nghệ cũng như về pháp lý để tiến hành giao kết hợp
259


đồng điện tử... Ngoài ra, điều quan trọng là những người
trong cuộc (các bên tham gia hợp đồng) nhận thức đây đủ vê
những lợi ích mà giao kết hợp đồng bằng phương tiện điện tử
mang lại và có quyết tâm, có trình độ để khơng bỏ qua các lợi
ích này. Pháp luật về hợp đồng điện tử khơng tự mình tạo ra
các quan hệ hợp đồng điện tử, cũng không thể đảm bảo tính
an tồn của mọi quan hệ hợp đồng điện tử. Tuy nhiên, nó tạo
ra một khung khổ pháp lý cho việc giao kết hợp đồng điện tử,

và do đó mở ra cơ hội để có những hợp đồng điện tử được
giao kết thuận lợi và an toàn.
5.
Hoàn thiện pháp luật về họp đồng điện tử cần phải
đặt trong giải pháp tổng thể của việc hoàn thiện pháp luật
về giao dịch điện tử
Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng điện tử khơng thể tách
rời việc hồn thiện pháp luật Hên quan đến giao dịch điện tử.
Trong các giao dịch điện tử thì hợp đồng điện tử là một quan
hệ phổ biến. Hợp đồng điện tử có mối quan hệ biện chứng và
mật thiết với các chế định của pháp luật về giao dịch điện tử.
Vì vậy, nghiên cứu về hợp đồng điện tử cần đặt trong sự
nghiên cứu tổng thể các quy định pháp luật liên quan đến giao
dịch điện tử.
Việt Nam đã cỏ nhiều nỗ lực trong việc tạo lập môi
trường pháp lý nhàm thúc đẩy và phát triển giao dịch điện tử
qua đó tận dụng các cơ hội mà cơng nghệ thơng tin mang lại
góp phần đẩy mạnh sự phát triển kinh tế - xã hội. Các văn bản
260


3háp luật về giao dịch điện tử nói chung và giao kết hợp đồng
liện tử nói riêng ở các quốc gia đều mới chỉ được ban hành
rong khoảng thời gian trên dưới 10 năm gần đây cho thấy
ính thời sự của hoạt động này. Việt Nam cần coi trọng việc
loàn thiện khung pháp lý phù hợp để điều chỉnh các quan hệ
)hát sinh từ giao dịch điện tử, đảm bảo quyền và lợi ích hợp
)háp của Nhà nước, -tổ chức và cá nhân, đảm bảo sự bình đẳng
ỉà an tồn trong giao dịch điện tử.
Là lĩnh vực mới mẻ, các văn bản pháp luật về giao dịch

ĩiện tử sẽ phải thường xuyên được bổ sung, sửa đổi để tạo
nôi trường pháp lý thuận lợi cho các bên tham gia là điều tất
'ếu. Ngồi ra, do cơng nghệ thơng tin thường thay đổi một
ách nhanh chóng nên các quy định pháp luật về giao dịch
tiện tử chắc chắn ít nhiều cũng phải được sửa đổi theo. Vì
'ậy, quan tâm hồn thiện khung pháp lý về giao dịch điện tử
trong đó có hợp đồng điện tử) ở vào thời điểm hiện tại ln là
êu cầu có tính khách quan.
Với cách tiếp cận như vậy, để hoàn thiện pháp luật về
lợp đồng điện tử cần xem xét tổng thể những vấn đề pháp luật
ề giao dịch điện tử có liên quan như:
- Các vấn đề liên quan tới việc thừa nhận giá trị pháp lý
ủa chứng từ điện tử.
- Vấn đề liên quan đến ngành, nghề kinh doanh dịch vụ
iương mại điện tử.
261


- Các vấn đề về thuế và chính sách ưu đãi vê thuê nhăm
tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh
thương mại điện tử và khuyến khích người tiêu dùng mua bán
trực tuyến.
- Vấn đề bảo vệ người tiêu dùng trong giao dịch điện tử.
- Vấn đề quản lý website thương mại điện tử.
- Các vấn đề về an tồn thơng tin và bảo vệ dữ liệu cá
nhân trong giao dịch điện tử.
- Các vấn đề về giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm
pháp luật trong giao dịch điện tử như: Giá trị pháp lý làm
chứng cứ của chứng từ điện tử; cơ chế giải quyết tranh chấp
trực tuyến; chế tài đối với các hành vi vi phạm pháp luật về

giao dịch điện tử; thẩm quyền và cơ chế thanh tra, kiểm tra và
xử lý vi phạm hành chính về giao dịch điện tử; tội phạm trong
lĩnh vực công nghệ cao và trong giao dịch điện tử.
- Vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại
điện tử.
- Vấn đề điều chỉnh pháp luật đối với các đối tượng phát
sinh trong hoạt động thương mại điện tử.
- Vấn đề khuyến khích đầu tư và hoạt động kinh doanh
dịch vụ trực tuyến.
- Vấn đề về các mơ hình thanh tốn trực tuyến...
262


6.
Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng điện tử cần đảm
bảo sự tương thích với các chuẩn mực pháp lý quốc tế,
đồng thịi tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài
Ngày nay, bên cạnh những đặc thù của điều kiện kinh tế
- xã hội của quốc gia, xu thế hội nhập quốc tế và khu vực
cũng đã, đang và sẽ tác động mạnh mẽ tới quá trình xây dựng
và hồn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật hợp
đồng nói riêng (trong đó có pháp luật về hợp đồng điện tử)
của từng quốc gia và Việt Nam cũng khơng phải là ngoại lệ.
Đây chính là q trình quốc tế hóa hệ thống pháp luật quốc
gia hoặc ngược lại là q trình nội luật hóa các cam kết quốc
tế - là sự ảnh hưởng của những yếu tố bên ngoài đến sự tồn tại
và phát triển của hệ thống pháp luật quốc gia. Trong bối cảnh
toàn cầu hóa hiện nay, một quốc gia sẽ khó có thể hội nhập
kinh tế quốc tế thuận lợi nếu hệ thống pháp luật của nước đó
hồn tồn khép kín, khơng hài hòa với các chuẩn mực pháp lý

quốc tế và khu vực.
Quá trình chủ động hội nhập kinh tể quốc tế, Việt Nam
đã có những cam kết ứng dụng và triển khai thương mại điện
tử. Với tư cách là thành viên của APEC, Việt Nam đã tham
gia “Chương trình hành động chung” của khối này và phấn
đấu thực hiện “Thương mại phi giấy tờ” vào năm 2010. Năm
2000, Thủ tướng Chính phủ nước ta đã ký kết Hiệp định
khung e-ASEAN, cam kết thúc đẩy ứng dụng công nghệ
thông tin và tạo thuận lợi cho sự phát triển của thương mại
263


điện tử. Trong khuôn khổ Diễn đàn hợp tác A-Au (ASEM
Việt Nam đã cam kết tham gia Chương trinh hành động thui
lợi hóa thương mại, mà trong đó thương mại điện tử là m
trong những nội dung được ưu tiên cao. Hội nhập kinh tê qu(
tế đã góp phần nâng cao thế và lực của Việt Nam trên trười
quốc tế, nhưng càng tiếp tục hội nhập chúng ta càng phải đ
mặt với nhiều thách thức hơn. Đồng thời với toàn câu hóa
làn sóng hài hịa hóa pháp luật trên tất cả các lĩnh vực của đ
sống xã hội. WTO, APEC, ASEM hay ASEAN chỉ là nhữi
cấp độ khác nhau của q trình đó. Trong bối cảnh như vậ
con thuyền pháp luật Việt Nam tất yếu bị cuốn trong cơn bí
tồn cầu hóa. "Muốn khơng bị nhấn chìm trong sự áp đảo C1
pháp luật phương Tây, khơng cịn con đường nào khác, nhữi
người làm luật Việt Nam buộc phải chủ động tiếp thu nhữi
chuẩn mực của pháp luật quốc tế, góp phần làm cho ngư
dân Việt Nam tự tin, mạnh mẽ và linh hoạt hơn trong nhữ]
cuộc đấu tranh vì sự tiến bộ, thịnh vượng của dân tộc mình"É
Như vậy, hồn thiện pháp luật về hợp đồng điện tử C1

Việt Nam cần phải tính đến những tác động và yêu cầu thi
tiễn của q trình hội nhập. Nó phải phản ánh được quá trìi
tăng cường quan hệ qua lại và phụ thuộc lẫn nhau giữa c
nước trong xu thế toàn cầu hóa. Điều đó có nghĩa pháp luật

63 PGS. TS. Phạm Duy Nghĩa (2003), Cơ sợ pháp luật kinh tế Việt X am vì n
nền kinh tế phát triển bền vững và lồn câu hóa, Nxb. Chinh trị qc gia
Nội, tr. 43.

264


hợp đồng điện tử của Việt Nam không những phải phù hợp
với điều kiện kinh tế - xã hội, cơ sở hạ tầng ứng dụng công
nghệ thông tin trong nước, mà còn phải đảm bảo sự phù hợp
với các cam kết, thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.
Tuy nhiên, thực hiện yêu cầu này chúng ta cần chú ý là
không nên quá sùng ngoại. Tư tưởng sùng ngoại khơng thể
làm ta lớn lên được. Vì vậy, địi hỏi chúng ta phải nghiên cứu
một cách căn bản, có hệ thống kinh nghiệm lập pháp của các
hệ thống pháp luật tiêu biểu của khu vực cũng như trên thế
giới để chuyển hóa và tiếp thu một cách có chọn lọc những
quy định, tập quán quốc tế vào trong hệ thống pháp luật quốc
gia cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Những kinh nghiệm,
thành công, thất bại trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
hợp đồng điện tử của nước ngoài sẽ là bài học quý báu đối vớ
chúng ta. Mức độ và phạm vi làm hài hòa pháp luật về hơỊ
đồng điện tử của Việt Nam với môi trường pháp luật quốc t(
về lĩnh vực này trước hết cần phải xuất phát từ trình độ phá
triển kinh tế, xã hội, công nghệ thông tin của Việt Nam và cá'

yêu cầu khác của quá trình phát triển đất nước. Đặc biệt, việ
hoàn thiện pháp luật về hợp đồng điện tử cần tuân thủ
nguyên tắc chủ đạo mà các nước trên thế giới thường sử

dụnỊ

đó là: Nguyên tắc tương đương về mật chức năng, nguyên ứ
không phân biệt đối xử và nguyên tắc trung lập về công nghệ
II.

GIẢI PHÁP HỒN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆ

NAM VÈ HỢP ĐỊNG ĐIỆN TỬ
2<


1.
Nhóm giải pháp hồn thiện nội dung pháp luật 1
họp đồng điện tử
1.1.
Rà sốt, hệ thống hóa các văn bản quy phạm phí
luật liên quan đến hợp đồng điện tử
Việc rà sốt, hệ thống hóa các văn bàn quy phạm phí
luật liên quan đến hợp đồng điện từ có ý nghĩa:
Thứ nhất, phục vụ trực tiếp cho việc xây dựng và hoỉ
thiện pháp luật về hợp đồng điện tử. Thông qua rà sốt, 1
thống hóa, chúng ta có thể phát hiện được những quy địn
những văn bản quy phạm pháp luật mâu thuẫn, chồng chéo, í
hở hoặc đã lạc hậu, khơng cịn phù hợp với định hướng chur
là hỗ trợ, tạo điều kiện cho hợp đồng điện tử phát triển. Từ C

kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, thay th
loại bỏ chúng hoặc ban hành những văn bản mới để lấp đc
những kẽ hở chưa có pháp luật điều chỉnh, nhàm tiến tới X í
dựng một hệ thống pháp luật về hợp đồng điện tử hoàn thiệ
thống nhất, đồng bộ, đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, đí
ứng nhu cầu phát triển của xã hội, phục vụ đắc lực cho ho
động quản lý nhà nước.
Thứ hai, giúp cho chủ thể thực hiện pháp luật có đi<
kiện nắm bắt dễ dàng, nhanh chóng những quy định của phí
luật hiện hành về hợp đồng điện tử, giảm bớt đáng kể kỉ
khăn trong việc tìm kiếm điều luật cụ thể để áp dụng vào từr
trường hợp cụ thể, tránh sự lúng túng, khó xử khi bắt gí
nhũng quy định pháp luật mâu thuẫn, chồng chéo... Nhờ đ'
266


khi có tranh chấp về hợp đồng điện tử xảy ra, các vụ việc
được giải quyết nhanh chóng, kịp thời, ít sai sót hơn, tiết kiệm
thời gian và chi phí, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
các bên tham gia.
Thứ ba, phục vụ cho công tác tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật về hợp đồng điện tử. Phổ biến, giáo đục
pháp luật không thể phát huy tác dụng thực sự nếu như bản
thân các văn bản quy phạm pháp luật được tuyên truyền, phổ
biến đến người dân lại khơng được sắp xếp thành một tổng thể
hồn chỉnh, thống nhất, theo một trật tự trên dưới, trước sau.
Mặt khác, với việc rà sốt, hệ thống hóa các văn bản quy
phạm pháp luật về hợp đồng điện tử, người dân, doanh nghiệp
sẽ có điều kiện tiếp cận, tìm hiểu pháp luật dễ dàng hơn về các
vấn đề mà họ quan tâm.

Thứ tư, phục vụ cho hoạt động nghiên cứu, giảng dạ)
pháp luật về hợp đồng điện tử. Chính cơng tác rà sốt, h(
thống hóa đã tạo điều kiện cho khoa học pháp lý có được cá
nhìn tổng thể về hệ thống pháp luật liên quan đến hợp đồnỊ
điện tử hiện hành, đánh giá được hiệu quả thực tế của hoạ
động pháp luật và áp dụng pháp luật, từ đó đưa ra được nhũn:
kiến nghị xác đáng để hoàn thiện pháp luật về hợp đồng điệ
tử. Đồng thời, công tác này cũng tạo điều kiện cho việc biê
soạn, chỉnh lý giáo trình, chương trình giảng dạy pháp luật V
hợp đồng ở bậc đại học và sau đại học.
26


Thứ năm, góp phần tạo ra những tiền đề pháp lý ho
chinh để pháp luật về hợp đồng điện tử của Việt Nam phù h
với thông lệ quốc tế trong tiến trình hội nhập kinh tê qc
Bởi lẽ, rà sốt, hệ thơng hóa pháp luật về hợp đơng điện
khơng chi phát hiện những quy định pháp luật mâu thui
chồng chéo, mà còn phát hiện những quy định trái với đi
ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, gia nhập hoặc phát hi
những điều ước nào được ký mà chưa được nội luật hóa
đảm bảo thực hiện, từ đó kiến nghị để cơ quan có thẩm quy
xử lý. Khơng những vthế, một hệ thống pháp luật quốc j
ngày càng hoàn thiện nhờ đóng góp đáng kể của cơng tác
sốt, hệ thống hóa sẽ tạo ra mơi trường pháp lý thuận lợi, là
mạnh, thơng thống thu hút các nhà đầu tư nước ngồi, th
đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
1.2.

Xây dựng một chương riêng về hợp đồng điện


trong Bộ luật Dân sự
Bộ luật Dân sự bao giờ cũng được xem là nền tảng c
luật tư, là hiến pháp của luật tư và do vậy có nhiệm vụ >
định cơ sở lý luận, các khái niệm cơ bản, các nguyên tắc, c
dạng hợp đồng cơ bản và các phương thức giao kết hợp đồ
cơ bàn của hệ thống luật tư. Với vị trí trung tâm, đóng vai
là luật chung, cỏ hiệu lực điều chỉnh mang tính nguyên tắc (
với tất cả các quan hệ hợp đồng trong mọi lĩnh vực thì các q
định về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự cần thể hiện được tí
cơ sở và nền tảng của mình. Theo đó, vừa phải điều chình n
268


cách đầy đủ, phù hợp với các quan hệ về hợp đồng, vùa phí
bảo đảm tính khái quát và dự liệu cao trong nội dung cũn
như kỹ thuật lập pháp của mình. Tóm lại, những quy địn
chung nhất về hợp đồng, kể cả hợp đồng điện tử phải đưọ
quy định trong Bộ luật Dân sự. Đây là giải pháp mà nưó
Pháp đã tiến hành. Với việc ban hành Luật số 2004-57$ ngà
21/6/2004, Pháp đã bổ sung vào Bộ luật Dân sự đã tồn tại trê
200 năm của mình 1 chương riêng (chương VII thuộc Thiê
III, Quyển thứ ba) để quy định những vấn đề chung nhất V
giao kết họp đồng điện tử có tên gọi là "Hợp đồng dưới hìn
thức điện tử" cho phù hợp với sự phát triển của xã hội hiệ
đại64. Phạm vi điều chinh của Luật Giao dịch điện tử năr
2005 là giao dịch điện tử trong hoạt động của các cơ quan nh
nước; trong lĩnh vực dân sự, kinh doanh, thương mại và cá
lĩnh vực khác do pháp luật quy định. Phạm vi điều chỉnh củ
Luật Công nghệ thông tin năm 2006 là hoạt động ứng dụng V

phát triển công nghệ thông tin, các biện pháp bảo đảm ứn
dụng và phát triển công nghệ thông tin, quyền và nghĩa vụ củ
cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động ứng dụng V

phát triển công nghệ thông tin. Sau một thời gian đi vào cuộ
sống, điều chỉnh một cách tương đối toàn diện những vấn đ
cơ bản liên quan đến ứng dụng công nghệ thông tin và gia
dịch điện tử trong các hoạt động hành chính, kinh tế, xã h(

M Nhà Pháp luật Việt - Pháp (2005), Bộ luật Dân sự Pháp, Nxb. Tư pháp, h
Nội, tr. 769-771.

26


nói chung và đã được thực tế kiểm nghiệm, các quy định
chung nhất về hợp đồng điện tử trong 2 Luật này cân được
pháp điển hóa để đưa vào Bộ luật Dân sự nhàm nâng cao hiệu
quả điều chỉnh. Nhất là trong bối cảnh chúng ta đang tiên
hành sửa đổi, bổ sung phần liên quan đến quyền sở hữu tài sản
và hợp đồng của Bộ luật Dân sự năm 2005.
Sự phát triển của pháp luật hợp đồng của
nay hoàn toàn là tất yếu và phản ánh kịp thời
động của các điều kiện kinh tế - xã hội. Pháp
của Việt Nam hiện nay đang phát triển trên
hướng sau:

Việt Nam đên
xu hướng vận
luật hợp đồng

cơ sở các xu

- Xu hướng thống nhất hóa pháp luật về hợp đồng;
- Xu hướng hiện đại hóa pháp luật về hợp đồng;
- Xu hướng quốc tế hóa pháp luật hợp đồng;
- Xu hướng đơn giản hóa pháp luật hợp đồng65.
Trong xu hướng hiện đại hóa pháp luật về hợp đồng, một
chương riêng về hợp đồng điện tử trong Bộ luật Dân sự cần
điều chỉnh một cách đầy đủ tối thiểu các nội dung sau:
- Khái niệm hợp đồng điện tử;
- Giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử;
- Nguyên tắc giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử;

65 Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Nội dung và nhũng điếm mới cơ
bàn cùa Bộ luật Dán sự năm 2005, Nxb. Chính trị quôc gia, Hà Nội, tr. 143.

270


- Đề nghị và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng điện
tử;
- Thời điểm và địa điểm giao kết hợp đồng điện tử;
- Nghĩa vụ cung cấp các điều khoản của hợp đồng điện
tử;
- Giải pháp cho lỗi nhập sai thông tin trong giao kết họp
đồng điện tử.
1.3.

Ban hành văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh,


hướng dẫn cụ thể việc giao kết hợp đằng điện tử qua website
theo mơ hình C2C
Mua bán đấu giá tài sản qua mạng Internet là hoạt động
đang diễn ra phổ biến ở Việt Nam hiện nay. Chừng nào pháp
luật về bán đấu giá tài sản trực tuyến chưa được xây dựng thì
cơ sở pháp lý cho việc đảm bảo quyền và lợi ích của các bên
tham gia và là động lực thúc đẩy các giao dịch dân sự, thương
mại phát triển vẫn đang bị bỏ ngỏ. Với những quy định tại Bộ
luật Dân sự năm 2005 và Nghị định số 17/2010/NĐ-CP của
Chính phủ ngày 04 tháng 03 năm 2010 về đấu giá tài sản, có
thể nói, pháp luật Việt Nam hiện hành về bán đấu giá tài sản
chưa bám sát thực tế cuộc sống, cũng như chưa thúc đẩy được
hoạt động đấu giá một cách mạnh mẽ trên thực tế. Các quy
định cùa pháp luật về đấu giá tài sản dường như xây dựng cho
môi trường truyền thống mà chưa chú ý tới sự phát triển của
công nghệ; chú trọng nhiều hơn tới tài sản bị buộc phải bán
271


đấu giá và vẫn mang tính thủ tục hành chính mà chưa thực sự
mang bản chất là giao dịch dân sự, thương mại mang tính chât
bình đẳng, thoả thuận và tự định đoạt. Chính vì vậy, trong thời
gian tới, để thúc đẩy hoạt động đấu giá phát triển, thúc đây sự
cạnh tranh trong nền kinh thế thị trường, pháp luật vê đâu giá
tài sản cần hoàn thiện theo hướng tách biệt hai loại đâu giá là
đấu giá bẳt buộc và đấu giá tự nguyện để có quy định riêng
phù hợp góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên tham gia giao dịch, góp phần thúc đẩy sự phát triển các
giao lưu dân sự. Đồng thời mở rộng phạm vi quy định quyền
của người bán đấu giá tài sản và phương thức bán đấu giá tài

sản đối với chủ sở hữu tài sản là cá nhân thông qua mạng
Internet.
Bên cạnh đó cần ban hành văn bản quy phạm pháp luật
quy định cụ thể hướng dẫn, điều chỉnh về quy trình giao kết
hợp đồng điện tị qua website giữa các cá nhân với nhau, về
quy trinh mua bán tài sản theo hình thức đấu giá qua mạng, về
nghĩa vụ cung cấp thông tin, cơ chế hoạt động của các website
thương mại điện tử theo mơ hình C2C, cũng như nghĩa

VỌI

của

bên trung gian đã thiết lập nên trang web cho phép người tiêu
dùng mua bán tài sản với nhau theo hình thức đấu giá trực
tuyến.
1.4.

Xây dựng và ban hành các quy định pháp luật

điều chỉnh, hướng dẫn cụ thể việc giao kết hợp đồng điện tử
theo mẫu trên website
272


Sự ra đời của hợp đồng theo mẫu đã phá vỡ quan niệm
tự do hợp đồng truyền thống (mặc dù về khía cạnh kinh tế,
khơng thê phủ nhận vai trị của nó trong việc đơn giản hóa q
trình ký kết và tiết kiệm thời gian, công sức cho cả hai bên khi
tham gia quan hệ hợp đồng). Được hình thành khơng phải trên

cơ sờ thống nhất ý chí tự do của các bên, hợp đồng theo mẫu
được xem như là sự khước từ nguyên tắc tự do hợp đồng.
Người tiêu dùng bị tước bỏ mọi cơ hội thảo luận, bàn bạc về
các điều khoản của hợp đồng đã được một bên mạnh hơn về
kinh tế quy định trước.
Như đã trình bày ở Chương 1, các hợp đồng theo mẫu
điện tử sử dụng để giao dịch qua website có 3 dạng là: Hợp
đồng nhấp chuột, hợp đồng duyệt web và hợp đồng gói kèm.
Cả ba loại hợp đồng này đều đặt ra câu hỏi cơ bản liên quan
tới sự thỏa thuận do có sự chi phối của yếu tố cơng nghệ, mà
pháp luật Việt Nam hiện hành cần giải quyết. Để giải quyết
vấn đề quan trọng này, chúng tôi cho rằng, việc điều chỉnh
pháp luật cần được tiếp cận từ 2 giác độ: Lý thuyết về sự ưng
thuận trong giao kết hợp đồng (i) và bảo vệ quyền lợi của
người tiêu dùng (ii).
i) Bản chất của hợp đồng phải là sự thống nhất ý chí
giữa các bên. Tất cả các hợp đồng đều là sự thỏa thuận,

về

nguyên tắc, hiệu lực của hợp đồng khơng phụ thuộc vào các
điều kiện về hình thức, thủ tục; hợp đồng có hiệu lực khi các
bên đã đạt được thỏa thuận (lý thuyết ưng thuận), trừ một sổ
273


×