THỰC TRẠNG CHĂM SÓC SỨC KHỎE NGƯỜI CAO TUỔI
TRONG CÁC HỘ GIA ĐÌNH
(Nghiên cứu tại xã Tiến Xuân, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội)
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tiến Xuân là địa bàn có đơng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Với
khoảng 69% dân cư sinh sống tại đây là dân tộc Mường, 31% là dân tộc Kinh và
một số dân tộc khác (Tày…). Đa phần dân cư sinh sống chủ yếu bằng sản xuất
nông nghiệp. Với sự đầu tư, hỗ trợ của thành phố, chủ trương triển khai xây
dựng Nơng thơn mới, diện mạo của xã, từ đó nền kinh tế cũng như đời sống của
nhân dân đã có nhiều khởi sắc. Những dấu mốc quan trọng trong sự phát triển
về các mặt tại nơi đây như kinh tế, văn hóa, xã hội khơng thể thiếu sự tham gia
của NCT.
Những năm qua Hội người cao tuổi tại xã Tiến Xn ln phát huy vai
trị tuổi cao gương sáng trong phát triển kinh tế- xã hội ở địa phương. Nhằm đẩy
mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh;
Nêu gương sáng - phát huy vai trị người cao tuổi, xây dựng nơng thơn mới, thi
đua phát triển kinh tế góp phần xóa đói giảm nghèo, làm giàu chính đáng. Bên
cạnh những cơ hội thì NCT cũng phải đối mặt với nhiều thách thức.
Theo báo cáo của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, năm 2020, cả
nước có gần 13 triệu người cao tuổi, chiếm 12% dân số, trong đó khoảng 1,98
triệu người trên 80 tuổi, gần 4,8 triệu người cao tuổi là nam , gần 7,7 triệu người
cao tuổi sống ở nông thơn. Ðến hết năm 2020, cả nước đã có khoảng 12,1 triệu
NCT có thẻ BHYT, chiếm 95% tổng số NCT và còn khoảng 5% người già
thuộc diện hộ nghèo chưa có BHYT. Có thể thấy, phần lớn NCT Việt Nam vẫn
chủ yếu sống ở nông thôn, sống cùng con cháu, đời sống vật chất cịn gặp nhiều
khó khăn. NCT đối diện với gánh nặng "bệnh tật kép", thường mắc các bệnh
mạn tính, bình qn mỗi NCT có ba bệnh, có chi phí điều trị lớn.
Bên cạnh đó, chất lượng cuộc sống của người dân tại Tiến Xuân ngày
càng được nâng lên, nhiều người đến độ tuổi nghỉ hưu vẫn có sức khỏe rất tốt.
Họ mong muốn được tiếp tục đi làm, tinh thần vừa vui vẻ đồng thời có thêm thu
nhập cải thiện cuộc sống. Nhưng mặt khác, một bộ phận khơng nhỏ NCT khơng
có lương hưu, họ vẫn phải đi làm để có tiền trang trải cuộc sống.
Xuất phát từ thực tế trên, với tư cách là những người nghiên cứu cũng
như là sinh viên của khoa Xã hội học thuộc Học viện Báo chí và Tun truyền,
chúng tơi muốn nghiên cứu vấn đề này để hiểu rõ hơn về thực trạng chăm sóc
sức khỏe của NCT tại xã, từ đó đề xuất những kiến nghị giúp NCT có thể cải
thiện sức khỏe thể chất lẫn tinh thần người cao tuổi. Bên cạnh đó, nghiên cứu
cũng tìm hiểu thực trạng tham gia hoạt động kinh tế của NCT để từ đó có những
khuyến nghị hỗ trợ cho người cao tuổi tại địa phương.
2. Ý nghĩa nghiên cứu
2.1. Ý nghĩa khoa học
Đề tài này góp phần mang lại một góc nhìn mới về thực trạng chăm sóc sức khỏe
người cao tuổi trong các hộ gia đình tại xã Tiến Xuân, huyện Thạch Thất, thành phố
Hà Nội qua việc nhận diện những đặc điểm nhân khẩu học, đời sống của người cao
tuổi cũng như những hoạt động chăm sóc sức khỏe người cao tuổi của gia đình và bản
thân người cao tuổi trong sinh hoạt hàng ngày và khi đau ốm. Trên cơ sở đó luận văn
góp phần làm sáng tỏ các quan điểm lý luận về người cao tuổi và chăm sóc sức khỏe
người cao tuổi.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn
Ngày nay, NCT trở thành vấn đề toàn cầu và đang là mối quan tâm của cộng đồng
quốc tế bởi người cao tuổi đang ngày càng gia tăng về số lượng và có xu hướng tăng
nhanh do sự tiến bộ của y học cùng với sự tăng trưởng của kinh tế. Kéo theo đó là vấn
đề về chăm sóc sức khỏe đối với NCT cũng được quan tâm một cách toàn diện. Chăm
lo sức khỏe NCT là một trong những nhiệm vụ quan trọng của cá nhân, gia đình và
tồn xã hội.
Do đó kết quả của nghiên cứu sẽ là một gợi ý và có thể được cung cấp cho địa
phương xã Xuân tiến nói riêng và cộng đồng nói chung để nhận thức rõ hơn về chăm
sóc sức khỏe NCT trong các hộ gia đình. Trên cơ sở đó, chỉ ra những vấn đề mà gia
đình, cộng đồng cần quan tâm để chăm sóc sức khỏe và phát huy vai trò NCT ngày
càng tốt hơn.
3. Tổng quan nghiên cứu
3.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu trên thế giới
Trước hiện tượng già hóa dân số mang tính toàn cầu, là thách thức lớn cho sự
phát triển KT-XH và an sinh xã hội. Các nghiên cứu dân số NCT đã được tiến hành từ
những năm 50 của thế kỷ XX tại các quốc gia phát triển đã chuyển sang giai đoạn già
hóa dân số. Nhiều viện nghiên cứu và các tổ chức xã hội đã nghiên cứu NCT trên
nhiều phương diện, đặc biệt là về nhân phẩm, những đặc điểm tâm sinh lý và sinh lý
lứa tuổi. Thời gian đó chủ yếu là các tài liệu, bài viết và các cơng trình nghiên cứu về
NCT nói riêng.
-
Nghiên cứu về nhân phẩm NCT
Stratton và Tadd (2005) đã đề cập đến nhân cách người cao tuổi, tập trung tìm
hiểu nhìn nhận và hiểu biết của xã hội về vấn đề nhân cách của NCT ở một số nước
như Anh, Ireland, Tây Ban Nha, Pháp, Slovakia và Thụy Sỹ. Xã hội đang mất dần đi
những giá trị truyền thống khi nhìn nhận về người cao tuổi. Xã hội cho rằng NCT
khơng khác gì trẻ con. Họ là nhóm người dư thừa, làm liên lụy những người trẻ. Trong
gia đình, việc chăm sóc người cao tuổi là cơng việc rất khó khăn, có thể dẫn đến căng
thẳng, có thể tạo nên áp lực về kinh tế và sức khỏe. Về hệ thống chăm sóc sức khỏe,
không những đối diện với quá tải và yếu kém về cơ sở vật chất, NCT cịn thường cảm
thấy cơ lập ở các nhà dưỡng lão. Nhân viên ở những trung tâm, nhà dưỡng lão và
chăm sóc NCT thường ít được đào tạo bài bản và họ thường đối xử với NCT như đối
xử với trẻ em. Chính những điều này đã ảnh hưởng đến nhân phẩm người cao tuổi.
Tadd và Bayer (2006) cũng đã đưa ra khái niệm về nhân phẩm, nghiên cứu về
vấn đề nhân phẩm người cao tuổi trong hoạt động chăm sóc sức khỏe người cao tuổi ở
một số nước châu Âu. Tác giả đưa ra những gợi ý về các khía cạnh nhân phẩm nhằm
giúp các nhà hoạch định chính sách cho phù hợp với mong đợi của người cao tuổi và
xã hội. Theo đó, các trung tâm chăm sóc người cao tuổi cần quan tâm nhiều hơn đến
vấn đề giao tiếp, sự riêng tư, sự khác biệt cá nhân và cảm giác dễ tổn thương ở người
cao tuổi. Vấn đề nhân phẩm ở người cao tuổi cần được chuyển hóa thành các khóa đào
tạo bài bản dành cho những người hoạt động trong lĩnh vực chăm sóc người cao tuổi.
Cùng với chủ đề nghiên cứu trên, không chỉ dừng lại ở việc Nhà nước nên và
khơng nên làm gì cho người cao tuổi, Agich (2010) cũng đã tiếp cận người cao tuổi từ
góc độ nhân phẩm. Qua nghiên cứu, tác giả cho thấy vấn đề đảm bảo về nhân phẩm
cho NCT trong các chính sách NCT không được đảm bảo và chưa được hiểu một cách
đúng đắn phù hợp. Tác giả cho rằng, chính sách đối với NCT cần phải quan tâm đến
nhân phẩm của đối tượng này.
-
Nghiên cứu về những đặc điểm tâm sinh lý NCT
Nổi bật với cơng trình nghiên cứu của nhà tâm lý học Mỹ Ann Bowling (1988)
về “Thuyết nghiên cứu sự thay đổi tâm lý khi nghỉ hưu” với 3 thuyết chính về sự lão
hóa và nghiên cứu tâm lý của người về hưu, đó là:
+ Thuyết khủng hoảng, đứt đoạn: cho rằng lao động là điều kiện cơ bản của sự
hòa nhập xã hội và nghỉ hưu sớm là mất sự hịa nhập đó.
+ Thuyết liên tục: cho rằng việc ngừng làm việc không nhất thiết dẫn đến sự
khủng hoảng tâm lý. Lao động không phải luôn dễ chịu và có tác dụng tốt đối
với sức khỏe và trạng thái hài lịng với cuộc sống.
+ Thuyết kiểm sốt và thích nghi tiếp cận tâm lý- xã hội về tuổi già: cho rằng đối
với NCT, việc kiểm soát sự lão hóa được coi là một trong những yếu tố thích
nghi quan trọng. Việc “thành cơng” trải qua tuổi già, theo nghĩa đảm bảo rằng
mình sống tốt và có ích, dựa vào phần lớn khả năng mà cá nhân kiểm soát được
xã hội quanh mình và ý thức mà họ có về xã hội đó.
Nhiều tác phẩm, bài viết trên các tạp chí nổi tiếng như: Năm 1998, trong tạp chí:
“Tâm lý và tuổi già” ba tác giả Neal Krause, Kersay Liang, Shengzu Gu đã nghiên
cứu về vấn đề “Sự căng thẳng tài chính, sự hỗ trợ nhận được và các triệu chứng trầm
cảm ở Trung Quốc”; nhà tâm lý học người Đức Martin Pinquar với tạp chí: “Tác
động của trạng thái, mạng lưới và năng lực kinh tế - xã hội đối với sự phồn thịch
khách quan trong cuộc sống của người già” (2000); nhà tâm lý học người Nga D.I.A
Raigorodski với sách “Tâm lý học người cao tuổi” (2004).
Như vậy, có thể nói rằng nghiên cứu đi sâu tìm hiểu về chăm sóc sức khỏe NCT
nói chung trên thế giới cịn ít, những tâm tư nguyện vọng của NCT cịn ít được quan
tâm nghiên cứu. Tuy nhiên các cơng trình của một số tác giả nói trên cúng có những
đóng góp là đưa ra được những kiểu hình, chất lượng sống của người cao tuổi, đề cao
phúc lợi xã hội để giúp cho NCT sống khỏe, sống vui, sống có ích cho gia đình và xã
hội.
3.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước về chăm sóc sức khỏe người cao
tuổi
Trong những năm gần đây, vấn đề chăm sóc sức khỏe cho NCT trong gia đình,
cộng đồng đang được các nhà nghiên cứu quan tâm. Những nghiên cứu không chỉ
phản ánh được tình hình sức khỏe của NCT mà cịn làm rõ được vai trị của gia đình
trong chăm sóc sức khỏe về cả mặt thể chất, mặt tinh thần cũng như quan hệ xã hội
cho họ:
Các cuộc nghiên cứu , điều tra về NCT cũng đã phản ánh tình hình sức khỏe của
họ nói chung, hay sức khỏe theo giới nói riêng. VNAS thu thập số liệu từ tháng 10 đến
12/2011 tại 12 tỉnh, thành phố đại điện cho 6 vùng sinh thái của Việt Nam (bao gồm
Thái Nguyên, Hưng Yên, Thanh Hóa, Hà Nội, Nam Định, Huế, Đắk Lắk, Đồng Nai,
Sóc Trăng, Tiền Giang và TP. Hồ Chí Minh). Hơn 4.000 người đại diện cho nhóm dân
số cận cao tuổi và cao tuổi (từ 50 tuổi trở lên) đã được mời tham gia cuộc điều tra này.
Tại thời điểm điều tra, có tới trên 50% số NCT được phỏng vấn cho rằng tình trạng
sức khỏe hiện tại là yếu hoặc rất yếu. Đau đầu , chóng mặt , đau khớp , đau lưng là các
triệu chứng thường gặp nhất NCT. Gần 40% NCT được chẩn đốn có bệnh huyết áp.
Trên 30% được chẩn đoán viêm khớp. Tiếp theo là một số bệnh như tim mạch, răng
miệng, viêm phế quản hoặc bệnh phổi mãn tính, song tỷ lệ mắc các bệnh này không
quá 20% . NCT ở thành thị mắc tiểu đường cao hơn nơng thơn. Tỷ lệ NCT gặp ít nhất
một khó khăn trong sinh hoạt hàng ngày như ăn uống, tắm rửa, mặc quần áo hay đi đại
tiểu tiện là 30%. Hơn 80% NCT bị chấn thương trong vòng 12 tháng qua được điều trị
bởi cán bộ y tế. Trong số NCT phải trả tiền cho các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, gần
50% trong số họ không đủ tiền chi trả cho các dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Một điểm
đáng lưu ý là tỷ lệ NCT nam được vợ chăm sóc chiếm 65,5%, trong khi đỏ NCT nữ
được chồng chăm chỉ có 20,1%. Đây một yếu tố về bất bình đẳng giới cần được quan
tâm.
Nghiên cứu “Thực trạng sức khỏe và đời sống người cao tuổi ở Hải Dương .
Quảng Bình và Đắk Lắk” TS. Nguyễn Thế Huệ - GĐ Trung tâm nghiên cứu Dân số
và Phát triển, Viện Khoa học Xã hội VN đăng trên Tạp chí DS & PT, số 10/2004,
Website Tổng cục DS - KHHGĐ (năm 2004) cũng đã làm rõ được tình trạng sức khỏe
của NCT, và những vấn đề cần lưu tâm. Điều tra tại 3 tỉnh cho thấy mơ hình gia đình
của NCT phổ biến là hai vợ chồng cao tuổi sống cùng con cháu (chiếm 45,5 %), hai
vợ chồng cao tuổi sống với nhau (chiếm 31,3%), một cụ cao tuổi sống với con cháu
(chiếm 16 %). Tình trạng NCT sống cơ đơn khơng nơi nương tựa chiếm tỷ lệ nhỏ
(6,3%). Lương hưu là một khoản thu nhập quan trọng của NCT, chiếm 36,5%. Tuy
nhiên, tỷ lệ NCT có lương hưu ở khu vực nơng thơn cịn thấp so với khu vực thành
thị, 23,2% so với 49,7%. Ngoài ra các khoản trợ cấp mất sức, trợ cấp xã hội ở khu vực
nông thôn cũng thấp hơn. Nghiên cứu mới chỉ mô tả thực trạng sức khỏe và đời sống
vật chất của NCT mà chưa tập trung chỉ ra vai trị của gia đình trong việc chăm sóc
sức khỏe cũng như đời sống vật chất và tinh thần cho họ.
Gia đình vẫn ln là nguồn hỗ trợ chính đối với NCT khi họ ốm đau. Tuy nhiên
sự quan tâm, thăm hỏi và chăm sóc của con cháu đối với NCT cũng có những mức độ
khác nhau. Số liệu Điều tra gia đình Việt Nam năm 2006 cho thấy, khi cha mẹ ốm
đau, những người con gái về thăm hỏi cha mẹ đẻ cao hơn con trai đơi chút (64.4% so
với 60.1%). Những người con ở nhóm tuổi cao hơn có tỷ lệ chăm sóc cha mẹ nhiều
hơn nhóm tuổi trẻ. Theo kết quả Điều tra gia đình Việt Nam năm 2006 trong 12 tháng
qua có 95,9% số người có con đã tách hộ về thăm cha mẹ. Do tác động, ảnh hưởng
của kinh tế, tỉnh chất cơng việc, hồn cảnh sống khác nhau nên việc thăm cha mẹ cũng
khác nhau. Có 28% thăm hỏi cha mẹ hằng ngày, 21.5% thăm hỏi vài lần trong tuần,
17.8% thăm hỏi một vài lần trong tháng. 24.3% thăm hỏi một vài lần trong năm và
8.1% thăm hỏi vài năm 1 lần. Nghiên cứu của Hirschman và Vũ Mạnh Lợi cũng cho
kết quả tương tự trong số những con trưởng thành, theo đó khoảng 60% sống gần cha
mẹ, thăm nom họ hàng ngày hoặc ít nhất cũng một lần trong tuần. Như vậy, gia đình
vẫn là chỗ dựa, là chủ thể chính chăm sóc sức khỏe về cả mặt thể chất lẫn tinh thần
cho NCT.
Khi phân tích số liệu khảo sát gia đình Hà Nội (2011), phân tích riêng trong nhóm
NCT về sự giúp đỡ hỗ trợ của người con được coi là “thân nhất” (có mức độ gặp mặt,
liên lạc nhiều nhất trong năm), thấy rằng: trong số 202 NCT trả lời, có 29.2% xác định
người con “thân nhất” là con trai cả; 25.2% là con trai thứ; 18.8 % là con gái thứ; 17.8
% là con gái cả ; 3.5 % chỉ có 1 con ; 2 % là con dâu cả và 0.5 % là con dâu thứ.
Khơng có người con rể nào (trưởng hoặc thứ) được xác nhận trong diện này.
Nghiên cứu của Nguyễn Xuân Cường và Lê Trung Sơn (2003) về "Thực trạng
người cao tuổi và các giải pháp nâng cao chất lượng chăm sóc người cao tuổi ở Hà
Tây” cho thấy NCT ở Hà Tây thỏa mãn tinh thần chủ yếu là vui chơi cùng con cháu
(81,4%). NCT ở nông thôn sinh hoạt cùng con cháu thường xuyên hơn người cùng
nhóm ở thành thị (83,5% so với 77,4%). NCT ở thành thị tiếp cận với thông tin, tham
quan, du lịch, thể dục thể thao và sinh hoạt đoàn thể một cách thường xuyên hơn nông
thôn. Tỷ lệ NCT ở thành thị tham gia các hoạt động Đảng, chính quyền cao hơn ở
nông thôn và nam tham gia nhiều hơn nữ. Đa sổ NCT (80.7%) đều hài lòng với sự
chăm sóc của gia đình, con cháu.
Trong nghiên cứu “Một số vấn đề chăm sóc sức khỏe người già hiện nay Hải
Hưng” của tác giả Dương Chí Thiện đăng trên Tạp chí xã hội học số 4 năm 1993 đã
đề cập tới các vai trị của gia đình, của các tổ chức xã hội và hệ thống y tế đối với vấn
đề chăm sóc NCT. Việc chăm sóc sức khỏe cho NCT không chỉ thu hẹp trong phạm vi
của vấn đề y tế mà hàm chứa trong nó cả vấn đề kinh tế xã hội rộng lớn, đặc biệt là vai
trò của gia đình và các tổ chức xã hội trong công cuộc nâng cao chất lượng sống cho
họ trong xã hội hiện nay. Với việc thực hiện chế độ bảo hiểm y tế cho NCT, tuy mới
chỉ là bước đầu nhưng đó là bước tiến quan trọng và cơ bản của nước ta trên con
đường thực hiện một hệ thống chăm sóc sức khỏe NCT phù hợp với q trình phát
triển của xã hội hiện nay. Gia đình có vai trị rất to lớn trong đảm bảo mọi mặt cho
tồn bộ cuộc sống NCT. Các quan hệ gia đình như quan hệ giữa cụ ông, cụ bà, quan
hệ giữa các cụ và con cháu có ảnh hưởng rất to lớn đến tình cảm, tâm trạng của họ.
Tuy nhiên, một vấn đề đang được đặt ra hiện nay là số lượng NCT người cao tuổi phải
sống cô đơn ngày càng gia tăng ,mặc dù con cái của họ đang sống (vì nhiều lý do
khơng thể chăm sóc các cụ) hoặc họ khơng có con cái, khi họ ốm đau già yếu.
Luận án tiến sĩ “Một số giải pháp nâng cao chất lượng chăm sóc người cao tuổi
Việt Nam” của Phạm Vũ Hoàng đã đề cập đến các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng
chăm sóc NCT đó là nguồn lực tham gia chăm sóc NCT và kiểu hộ gia đình mà họ
đang sinh sống. Tác giả cho rằng “chăm sóc khơng chính thức vẫn đóng vai trị chính.
Hầu hết NCT đều có nguyện vọng được chăm sóc tại nhà. Những người chăm sóc
chinh cho NCT thường chính là phụ nữ. Tuy nhiên nguồn lực tham gia chăm sóc cho
NCT đang thay đổi nhu cầu về cán bộ điều dưỡng chăm sóc NCT sẽ tăng đột biển
trong bối cảnh lực lượng lao động giảm và phụ nữ ngày một tham gia tích cực hơn
trong các hoạt động kinh tế- xã hội”. Bên cạnh đó kiểu hộ gia đình cũng ảnh hưởng
đến chăm sóc NCT “Việc thu hẹp của hình thái gia định mở rộng làm suy yếu hình
thức chăm sóc khơng chính thức sẽ địi hỏi sự chăm sóc chính thức của Nhà nước và
xã hội ”. Tác giả đã chỉ rõ kiểu hộ gia đình, nguồn lực chăm sóc NCT đã ảnh hưởng
đến chất lượng chăm sóc, mức độ chăm sóc NCT cũng giảm dần.
Trong “Chiến lược sống của người cao tuổi trước những biến đổi của gia đình
nơng thơn hiện nay” của Bế Quỳnh Nga đăng trên tạp chí xã hội học số 1 (89) năm
2005 cũng chỉ ra rằng “Con cháu và người thân gia đình và họ hàng là những yếu tố
tạo nên mạng lưới sơ cấp cho NCT, những yếu tố quan trọng đầu tiên người già phải
nghĩ đến khi sắp xếp cuộc sống của mình”. Một nghiên cứu cho biết NCT đồng bằng
sông Hồng phần lớn sống với con cái 73,75%. Khoảng 7% sống độc thân, tỷ lệ này
khá cao ở nông thôn, phụ nữ và các cụ trên 70 tuổi. Khoảng 57% sống trong hộ gia
đình ba thế hệ. (Bùi Thế Cường, 1999). Hơn nữa, NCT sống chung hoặc sống riêng
đều được con cái hỗ trợ về tiền bạc, lao động.
Như vậy chúng ta có thể thấy, có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về NCT và
chăm sóc sức khỏe cho họ. Các cơng trình nghiên cứu tiếp cận vấn đề NCT, sức khỏe
và chăm sóc sức khỏe cho NCT dưới nhiều quan điểm và góc độ khác nhau. Nhìn
chung, trong các cơng trình nghiên cứu kể trên, các tác giả đều tập trung mô tả những
đặc điểm về nhân khẩu xã hội của NCT như độ tuổi, trình độ hơn nhân, tình trạng học
vấn, mơ tả tình trạng sức khỏe và bệnh tật của nhóm này Đồng thời các nghiên cứu
trên cũng đã làm rõ vai trị của gia đình trong hoạt động sống hàng ngày của NCT
người cao tuổi. Tuy nhiên, những nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc mơ tả, phân
tích một số khía cạnh như sự hỗ trợ của gia đình mà chưa đi sâu phân tích tồn diện về
chăm sóc sức khỏe cho NCT. Vậy thì thực trạng chăm sóc sức khỏe NCT trong các
gia đình đang diễn ra như thế nào? Các yếu tố nào ảnh hưởng đến chất lượng chăm
sóc sức khỏe NCT? Đó là những câu hỏi mà luận văn muốn làm sáng tỏ.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu với mục đích làm sáng tỏ thực trạng chăm sóc sức khỏe NCT
trong các hộ gia đình tại xã Tiến Xuân huyện Thạch Thất, Hà Nội hiện nay.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu các đặc điểm nhân khẩu xã hội và đời sống cơ bản của NCT để chỉ ra
những vấn đề cấp thiết nhật của chăm sóc sức khỏe NCT trong thực tiễn
- Tìm hiểu về thực trạng chăm sóc sức khỏe NCT trong các hộ gia đình ở xã Tiến
Xuân hiện nay
- Tìm hiểu về các yếu tố ảnh hưởng tới việc chăm sóc sức khỏe NCT hiện nay
- Đề xuất phương hướng, một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng
chăm sóc sức khỏe NCT trong các hộ gia đình trong các năm tới.
5. Đối tượng khách thể phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
- Thực trạng chăm sóc sức khỏe NCT
- Tham gia hoạt động kinh tế của NCT
5.2. Khách thể nghiên cứu
- Người cao tuổi trong các hộ gia đình
5.3. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: xã Tiến Xuân, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội.
- Thời gian: từ ngày 5/4 đến 10/4/2021.
6. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
6.1. Câu hỏi nghiên cứu
-
Những đặc điểm cơ bản của NCT tại xã bao gồm những đặc điểm nào?
Thực trạng chăm sóc sức khỏe NCT trong các hộ gia đình đang diễn ra như thế
nào?
Những yếu tố nào ảnh hưởng tới chất lượng chăm sóc sức khỏe NCT hiện nay?
Những khuyến nghị có được từ nghiên cứu này?
6.2. Giả thuyết nghiên cứu
-
Gia đình NCT tại xã Tiến Xn đóng vai trị chủ đạo trong vấn đề chăm sóc
sức khỏe NCT, tuy nhiên họ cịn gặp nhiều khó khăn.
Đặc điểm nhân khẩu học thực trạng chăm sóc sức khỏe người cao tuổi; chất
lượng y tế tại địa phương; độ bao phủ của bảo hiểm y tế là những yếu tố ảnh
hưởng mạnh đến chất lượng chăm sóc sức khỏe NCT hiện nay.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Trưng cầu ý kiến
7.1.1. Điều tra bảng hỏi
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi hay còn gọi là phương pháp định lượng là
phương pháp nghiên cứu chính mà chúng tôi thực hiện.
Cách thức chọn mẫu:
Cụ thể đề tài sẽ khảo sát thu thập thông tin từ NCT có độ tuổi từ 60 tuổi trở lên
tại xã Tiến Xuân
Mẫu dự kiến: 300 bảng hỏi. Trên thực tế thu về 278 bảng hỏi.
7.1.2. Phỏng vấn sâu
Là sự lặp đi lặp lại của các cuộc đối thoại theo thời gian, gồm có bảng hỏi
mẫu nhất định và dùng bộ câu hỏi này dùng lặp đi lặp lại với nhiều đối tượng
thuộc diện nghiên cứu của dự án. Bằng phương pháp PVS, các thơng tin thu
được có chất lượng cao, tính chân thực và độ tin cậy của thơng tin có thể kiểm
nghiệm được trong quá trình phỏng vấn.
Trong đề tài này, mỗi điều tra viên sẽ tiến hành PVS với 2 đối tượng thuộc
diện nghiên cứu
7.2. Quan sát
Quan sát là loại tri giác có chủ định nhằm xác định các đặc điểm của đối
tượng qua những biểu hiện như: hành động, cử chỉ, cách nói năng... …
Phương pháp quan sát cho phép điều tra viên thu thập được các tài liệu cụ
thể, khách quan trong các điều kiện tự nhiên của con người.
7.3. Phân tích tài liệu
Khi nghiên cứu lý luận , chúng tôi tiến hành thu thập các tài liệu lý luận , các kết
quả nghiên cứu thực tiễn (sách, luận án, bài báo, tạp chí, cơng trình nghiên cứu trong
và ngoài nước,..) về các vấn đề liên quan đến đề tài. Các tư liệu trên được nghiên cứu,
phân tích, tổng hợp , hệ thống hóa để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài .
7.3.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Đề tài thu thập các thông tin có sẵn từ các cơng trình nghiên cứu khoa học của các
tác giả, các bài báo, tạp chí Khoa học… Dựa vào đó sử dụng các thơng tin phù hợp để
học tập, phân tích, so sánh với kết quả nghiên cứu của đề tài này.
7.3.2. Phương pháp thang đo
Sử dụng phương pháp thang đo của Robert Sternberg để tiến hành nghiên cứu.
Trong bảng hỏi, gồm A1 - A8 là câu hỏi về thông tin chung của NCT , A9 - A10 là
câu hỏi đánh giá về điều kiện kinh tế gia đình bản thân và A11 - A30 là câu hỏi quan
điểm về CSSK của NCT hiện nay. Khi sử dụng phương pháp này, chúng tơi tiền hành
tính độ tin cậy bên trong của từng tiểu thang đo và của toàn bộ thang đo theo hệ số
Cronbach’s alpha.
7.3.3. Phương pháp thống kê tốn học
Chúng tơi sử dụng phần mềm thống kê SPSS phiên bản 20.0 để xử lý các thông tin
định lượng. Cụ thể như sau: - Độ tin cậy của thang đo: Chúng tơi tính độ tin cậy bên
trong của từng tiểu thang đo và của thang đo theo hệ số Cronbach’s Alpha.
8. Biến số và khung lý thuyết
8.1. Biến số
8.1.1. Biến độc lập:
-
Đặc trưng nhân khẩu học
+ Giới tính
+ Năm sinh
+ Dân tộc
+ Tình trạng hơn nhân:
Độc thân
Chưa kết hơn
Đã có gia đình
Ly thân
- Nguồn lực tham gia CSSK NCT, kiểu hộ gia đình của NCT và bao phủ
của hệ thống ASXH
8.1.2. Biến can thiệp:
- Điều kiện kinh tế-xã hội ở địa phương
- Thực thi chính sách chăm sóc sức khỏe NCT của địa phương
8.1.3. Biến phụ thuộc:
- Thực trạng chăm sóc sức khỏe NCT
8.2. Khung lý thuyết
(Đính kèm litnk word bản vẽ khung lý thuyết)
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHĂM SÓC
SỨC KHỎE NGƯỜI CAO TUỔI
1.1. Các khái niệm cơ bản sử dụng trong đề tài
1.1.1. Sức khỏe
Theo quan điểm của Tổ chức Y tế Thế giới: "Sức khỏe là tình trạng hoàn
toàn khỏe mạnh về thể chất,tinh thần và xã hội và khơng đơn thuần là tình trạng
khơng có bệnh tật hoặc không đau ốm”- WHO (1946)
=> Tuy nhiên khái niệm này được cho rằng mang tính lý tưởng và như
vậy tỷ lệ người đạt được trạng thái hoàn toàn như vậy là không nhiều.
Khái niệm sức khỏe thường được phân ra làm 2 loại: sức khỏe thể chất và
sức khỏe tinh thần .
Sức khỏe thể chất: đó là tình trạng đạt được một cơ thể khoẻ mạnh , do
thường xuyên có hoạt động vận động, thể dục, có chế độ dinh dưỡng tốt và nghỉ
ngơi hợp lý. Tại những quốc gia mà các thành viên được hưởng chế độ dinh
dưỡng hợp lý, được cải thiện thường xuyên, có sự chăm sóc tốt và chất lượng
cuộc sống 10 ổn định, chiều cao và cân nặng thường sẽ tăng. Đôi khi, sức khoẻ
thể chất cịn có thể được đánh giá thơng qua chỉ số cơ thể BMI (body mass
index)
Sức khỏe tinh thần: Đây là khái niệm có liên quan đến năng lực nhận thức
và tình cảm, hạnh phúc của cá nhân. Theo tổ chức y tế thế giới, sức khỏe tinh
thần là trạng thái khỏe mạnh giúp cá nhân nhận thức được các khả năng của họ,
có khả năng đối mặt với những áp lực thơng thường, có khả năng làm việc hiệu
quả và có khả năng đóng góp cho cộng đồng của họ”
1.1.2. Chăm sóc sức khỏe: là việc chẩn đốn, điều trị và phịng ngừa bệnh, bệnh
tật, thương tích, và suy yếu về thể chất và tinh thần khác ở người.
Chăm sóc sức khỏe cho NCT là phịng, chống sự già hố q sớm, đề
phịng và chữa trị các bệnh tuổi già bằng nhiều biện pháp khác nhau qua đó
nhằm cải thiện tình trạng sức khỏe (về cả thể xác lẫn tinh thần), giảm thiểu các
bệnh mãn tính, tàn phế và tử vong khi bước vào tuổi già. Các nhu cầu chăm sóc
của NCT gồm chăm sóc sức khỏe tâm thần, tâm lý, phục hồi về thính lực và thị
lực, chăm sóc vệ sinh răng miệng, định hưởng đầy đủ, hợp lý và an toàn, phục
hồi chức năng, nhà ở , mơi trường sống và phịng, chống giảm các yếu tố nguy
cơ. Nhu cầu chăm sóc sức khỏe là những yêu cầu cấp thiết của NCT không chỉ
phụ thuộc vào ý muốn chủ quan mà còn phụ thuộc khá nhiều vào chất lượng,
mức độ bệnh, khoảng cách và khả năng tiếp cận với các cơ sở chăm sóc sức
khỏe của từng người .
1.1.3. Người cao tuổi
Người cao tuổi có khi được gọi bằng nhiều cách khác nhau như người cao niên,
người già.
Theo Điều 1, chương 1 trong Pháp lệnh người cao tuổi của Nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, do Ủy ban Thường vụ Quốc hội năm 2000, quy
định: “Người cao tuổi theo quy định của Pháp lệnh này là cơng dân nước Cộng
hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ 60 tuổi trở lên.
Tại Điều 2, chương I trong Luật Người cao tuổi được Quốc hội nước
Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thơng qua ngày 23/11/2009 cũng có cách
xác định tương tự với Pháp lệnh người cao tuổi của Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, đó là: “Người cao tuổi được quy định trong Luật này là công
dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên”.
Theo định nghĩa của các nhà dân số học, những người trên 60 tuổi ,
không phân biệt nam nữ, được gọi là NCT.
Trong cuốn Từ điển Xã hội học của G.Endruweit và G.Trommsdorff
(Nhà xuất bản Thế giới) trang 727 phần “Xã hội học người cao tuổi- hay còn
gọi là lão học xã hội nghiên cứu những người cao tuổi trên 65, nhưng cũng từ
50-60 tuổi”.
1.1.4. Gia đình
Thực tế, gia đình là một khái niệm phức hợp bao gồm các yếu tố sinh
học, tâm lý, văn hóa, kinh tế ... khiển cho nó khơng giống với bất kỳ một nhóm
xã hội nào. Từ mỗi góc độ nghiên cứu hay mỗi khoa học khi xem xét về gia
đình đều có thể đưa ra một khái niệm gia đình cụ thể, phù hợp với nội dung
nghiên cứu và chỉ có như vậy mới có cách tiếp cận phù hợp đến với gia đình.
Theo Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam năm 2010 định nghĩa: "Gia
đình là tập hợp những người kia bó với nhau đo tim nhân, quan hệ huyết thống
hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh giữa các nghĩa vụ, quyền giữa họ
với nhau theo quy định của Luật này”
Đối với xã hội học, gia đình thuộc về phạm trù cộng đồng xã hội. Vì vậy,
có thể xem xét gia đình như một nhóm xã hội nhỏ, đồng thời như một thiết chế
xã hội mà có vai trị đặc biệt quan trọng trong q trình xã hội hóa con người:
Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù,một nhóm xã hội nhỏ mà các thành viên
của nó gắn bó với nhau bởi quan hệ hơn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan
hệ con nuôi , bởi tính cộng đồng và sinh hoạt , trách nhiệm đạo đức với nhau
nhằm đáp ứng những nhu cầu riêng của mỗi thành viên cũng như để thực hiện
tính tất yếu của xã hội và tái sản xuất con người
1.1.5. Hộ gia đình
Hộ gia đình hay cịn gọi đơn giản là hộ là một đơn vị xã hội bao gồm một
hay một nhóm người ở chung cùng chung hộ khẩu và ăn chung nhân khấu. Đối
với những hộ có từ 1 người trở lên, các thành viên trong hộ có thể có hay khơng
có quỹ thu chi chung hoặc thu nhập chung
Hộ gia đình khơng đồng nhất với khái niệm gia đình , những người trong
hộ gia đình có thể có hoặc khơng có quan hệ huyết thống, ni dưỡng hoặc hơn
nhân hoặc cả hai. Họ có thể là một người, có thể rất nhiều người. Hộ có ý nghĩa
về mặt phẳng kẽ nhân khẩu học, cảm gia đình là phạm trị xã hội học. Tuy nhiên,
trong nhiều trường hợp mỗi gia đình sống trong một ngơi nhà riêng tạo thành tột
hộ riêng .
Hộ gia đình được phân loại như sau: Hộ một người (01 nhân khẩu) Là hộ
chỉ có một người đang thực tế thường trú tại địa bàn. Họ hạt nhân: Là loại hộ
chỉ bao gồm một gia đình hạt nhân đến gia đình chỉ có 1 hay 2 thế hệ và được
phân tử thành: Gia đình có một cặp vợ chồng có con đẻ hoặc khơng cổ con đẻ
hay bổ đề cùng với con đẻ, mẹ đẻ cùng với con đề. Họ mở rộng: Là hộ bao gồm
gìn đình hạt nhân đi và những người có quan hệ gia đình với gia đình hạt nhân.
Ví dụ: một người cha đẻ cùng với con đẻ và những người thân khác, hoặc một
cặp vợ chồng với người thân khác: Hộ hỗn hợp Là trung hợp đặc biệt của loại lộ
mở rộng Trong phạm về đề tài này hộ gia đình được hiểu là: một đơn vị xã hội
bao gồm một hay một nhóm người ở chung cùng chung hộ khẩu) và an chung
(nhân khấu).
1.2. Các lý thuyết áp dụng trong đề tài
1.2.1. Lý thuyết cơ cấu xã hội
Cơ cấu xã hội là kết cấu và dạng thức tổ chức bên trọng của một hệ thống
xã hội nhất định, đó là sự thống nhất tương đối bền vững của các nhân tố, các
mối quan hệ, các thành phần cơ bản nhất cấu thành hệ thống xã hội. Khi nhìn
nhận cơ cấu xã hội “bộ khung” tạo dựng cơ thể xã hội cho ta biết được một xã
hội cụ thể nào đó được cấu thành từ những nhóm xã hội nào. Nhóm lớn như:
một quốc gia, dân tộc, giai cấp, chính đảng, tầng lớp; nhóm nhỏ như: một tổ
chức, cơ quan, xí nghiệp, lớp học... Cũng qua đó ta thấy được vị thế, vai trò và
mạng lưới của từng cá nhân, từng nhóm xã hội, các thiết chế xã hội và các quan
hệ xã hội…
Trong nghiên cứu này, lý thuyết cơ cấu xã hội được áp dụng ở chỗ người
cao tuổi là đại diện của một thế hệ đi trước, phát huy vai trò và khẳng định vị
thế của người cao tuổi, những năm qua, Hội người cao tuổi luôn phát huy vai
trò “tuổi cao gương sáng” trong các phong trào thi đua, học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh bằng những việc làm cụ thể thiết thực
xứng đáng là “cây cao bóng cả” cho thế hệ trẻ noi theo. Người cao tuổi còn đủ
sức khỏe vẫn trực tiếp tham gia sản xuất, những hội viên sức khỏe yếu động
viên, hướng dẫn con cháu về kinh nghiệm và kỹ thuật trong phát triển kinh tế.
1.2.2. Lý thuyết nhu cầu của Maslow
Lý thuyết của Maslow giúp cho sự hiểu biết của chúng ta về những nhu
cầu của con người bằng cách nhận diện một hệ thống thứ bậc các nhu cầu.
Nhu cầu sinh lý: Đây là nhu cầu cơ bản để duy trì cuộc sống của con người như
nhu cầu ăn uống, ngủ, nhà ở, sưởi ấm và thoả mãn về tình dục. Ơng quan niệm
rằng, khi những nhu cầu này chưa được thoả mãn tới mức độ cần thiết để duy trì
cuộc sống thì những nhu cầu khác của con người sẽ không thể tiến thêm nữa.
Nhu cầu về an toàn hoặc an ninh: An ninh và an tồn có nghĩa là một mơi
trường khơng nguy hiểm, có lợi cho sự phát triển liên tục và lành mạnh của con
người.
Những nhu cầu về quan hệ và được thừa nhận (tình yêu và sự chấp nhận).
Do con người là thành viên của xã hội nên họ cần nằm trong xã hội và
được người khác thừa nhận. Nhu cầu này bắt nguồn từ những tình cảm của con
người đối với sự lo sợ bị cô độc, bị coi thường, bị buồn chán, mong muốn được
hòa nhập, lòng tin, lòng trung thành giữa con người với nhau. Qua đó chúng ta
thấy được sức mạnh to lớn của nhu cầu được quan hệ và được thừa nhận trong
sự phát triển của mỗi cá nhân. Nó cũng cho thấy con người cần được yêu
thương và thừa nhận hơn là cần thức ăn, quần áo và chỗ ở cho sự tồn tại của
mình.
Nhu cầu được tôn trọng: Nội dung của nhu cầu này gồm hai loại: Lịng tự trọng
và được người khác tơn trọng.
Nhu cầu phát huy bản ngã: Maslow xem đây là nhu cầu cao nhất trong cách
phân cấp về nhu cầu của ông. Đó là sự mong muốn để đạt tới, làm cho tiềm
năng của một cá nhân đạt tới mức độ tối đa và hồn thành được mục tiêu nào
đó.
Việc áp dụng lý thuyết Nhu cầu của Maslow vào nghiên cứu Thực trạng
chăm sóc sức khỏe người cao tuổi là vơ cùng hợp lý. Vì sau nhu cầu về sinh lý
gồm các nhu cầu về ăn, mặc, ở, tình dục thì nhu cầu tiếp theo mà Maslow đề
cập ở tháp nhu cầu này chính là sự an tồn. Khi cuộc sống ngày càng bận rộn,
thu nhập được nâng cao đời sống cũng vì thế mà đã cải thiện đáng kể. Điều này
hồn toàn hợp lý bởi nhu cầu sinh lý giúp con người có thể sống sót được, thì
tiếp theo họ cần một điều gì đó để đảm bảo duy trì và giúp họ an tâm hơn để
phát triển.Chưa kể đến, trung bình mỗi NCT hiện nay mang trong mình đến 3
loại bệnh. Vì vậy vấn đề chăm sóc sức khỏe ở NCT cần được chú trọng hơn.
1.2.3. Lý thuyết vai trò
NCT giữ vai trị quan trọng trong gia đình. Họ là chủ thể cốt lõi gần như
không thể thiếu để kết nối những giá trị truyền thống của gia đình của thế hệ
trước và tới những thế hệ sau. Do vậy, những câu chuyện, trải nghiệm của NCT
đã trải qua hết sức sinh động và có giá trị giáo dục cao cả cho thế hệ con cháu
mai sau. Không những vậy, NCT cịn là người lao động góp phần tạo ra thu
nhập hoặc tiết kiệm chi tiêu cho gia đình. Họ có thể tham gia vào thị trường lao
động hoặc tạo ra thu nhập ngay chính trong khu vườn của gia đình. Dù ở đâu đi
nữa, NCT nếu còn sức khỏe họ vẫn mang đến tích cực tham gia lao động tạo ra
thu nhập, giúp đỡ con cái chứ khơng muốn mình là gánh nặng của con.
1.2.4. Lý thuyết vai trò bệnh Talcott Parsons
Lý thuyết chính đầu tiên trong xã hội học phân tích vai trò của sức khỏe
và bệnh tật trong đời sống xã hội là được đưa ra bởi nhà lý thuyết chức năng
Talcott Parsons (1951) trong cuốn sách ‘Hệ thống xã hội’ của ông. Parsons
không đồng ý với sự thống trị của mơ hình y tế về sức khỏe trong việc xác định
bệnh tật, tuy nhiên lập luận rằng ốm không chỉ là một tình trạng sinh học, mà
cịn là một vai trò xã hội (với một bộ tiêu chuẩn và các giá trị được gán cho vai
trò). Parsons coi bệnh tật là một dạng hành vi lệch lạc trong xã hội, lý do là
những người bị bệnh khơng thể hồn thành các vai trị xã hội bình thường của
họ và do đó đi chệch khỏi tiêu chuẩn đồng thuận.
Hiện nay, NCT đối diện với gánh nặng "bệnh tật kép", thường mắc các
bệnh mạn tính, bình qn mỗi NCT có ba bệnh, có chi phí điều trị lớn. Hiện
Việt Nam là 1 trong 10 nước có tỷ lệ già hóa dân số nhanh đã tạo những áp lực
rất lớn trong việc ban hành và thực thi những chính sách liên quan, nhất là trong
việc chăm sóc sức khỏe để người cao tuổi sống khỏe và sống tốt. Tỷ lệ người
cao tuổi tham gia bảo hiểm y tế là khoảng 96% trên tổng số người cao tuổi. Mặc
dù tốc độ già hóa dân số gia tăng nhưng khả năng cung cấp dịch vụ y tế cho
người cao tuổi ở Việt Nam còn hạn chế, thiếu bác sĩ lão khoa, điều dưỡng lão
khoa, thiếu nhân lực chăm sóc người cao tuổi. Điều này địi hỏi những chính
sách chăm sóc sức khỏe, hỗ trợ từ Đảng, Nhà nước đối với NCT.
1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về CSSKNCT
Chăm sóc sức khỏe NCT khơng chỉ nhằm kéo dài tuổi thọ mà còn nhằm
nâng cao chất lượng cuộc sống, giúp NCT tiếp tục sống khỏe, sống vui và sống
có ích cho gia đình và xã hội. Đồng thời, đó cũng là trách nhiệm, nghĩa vụ của
quốc gia thể hiện tinh thần “uống nước nhớ nguồn” và sự văn minh tiến bộ xã
hội. Nhận rõ được ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề đó, Đảng và Nhà nước
ta coi việc chăm sóc sức khỏe NCT là đạo lý của dân tộc, là trách nhiệm của
tồn Đảng, tồn dân và các cấp chính quyền.
Các chính sách chăm sóc sức khỏe NCT hiện có tập trung vào một số
điểm sau:
- NCT được chăm sóc sức khỏe ban đầu tại nơi cư trú. Trạm y tế cấp xã
có trách nhiệm theo dõi, quản lý và trực tiếp chăm sóc sức khỏe, tổ chức khám
sức khỏe định kỳ cho NCT phù hợp với điều kiện cụ thể ở địa phương; kinh phí
do ngân sách địa phương hỗ trợ (Điều 14 Pháp lệnh người cao tuổi). Tổ chức
khám sức khỏe để lập hồ sơ theo dõi sức khỏe cho NCT. Việc khám sức khỏe
định kỳ được thực hiện một năm một lần , từng bước tổ chức mạng lưới bác sỹ
gia đình và dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại nhà cho NCT. Tổ chức mạng lưới
tình nguyện viên để chăm sóc sức khỏe cho NCT tại nhà, nhất là người nghèo,
người cô đơn không nơi nương tựa. Khuyến khích cán bộ y tế nghỉ hưu tham
gia tình nguyện viên hoặc tham gia tập huấn cho tình nguyện viên về những
kiến thức cần thiết trong chăm sóc sức khỏe NCT như: Các hoạt động tự chăm
sóc trong sinh hoạt cá nhân đặc biệt là những người bệnh bị di chứng sau các
bệnh tim mạch, tai nạn, các hoạt động giao tiếp trong xã hội và tự chăm sóc y tế.
Bên cạnh việc được quản lý sức khỏe và chăm sóc sức khỏe ngay tại
tuyển xã, người cao tuổi được ưu tiên trong khám chữa bệnh ở tuyến trên. Cụ
thể: NCT được ưu tiên khám, chữa bệnh, được hướng dẫn phương pháp rèn
luyện thân thể, nghỉ ngơi và giải trí để phịng, chống các bệnh người giả ( Điều
14 Luật bảo vệ sức khoẻ nhân dân 1989, Điều 13 Pháp lệnh người cao tuổi
2000; Nghị định số 30/ CP 2002; Thông tư số 02/ 2004/ TT - BYT ); Các cơ sở
khám, chữa bệnh phải thực hiện việc ưu tiên khám trước cho người bệnh cao
tuổi - sau trường hợp cấp cứu (Thông tư 02/2004 /TT - BYT). Luật người cao
tuổi, khoản 1, Điều 12 con qui định rõ “Người tử 80 tuổi trở lên được ưu tiên
khám bệnh trước người bệnh khác trừ trường hợp cấp cứu, trẻ em dưới 6 tuổi,
người khuyết tật nặng”.
- Về chi phí khám chữa bệnh cho NCT, người có nghĩa vụ phụng dưỡng
phải chu cấp chi phí điều trị khi người cao tuổi ốm đau (khoản 2 Điều 10 Pháp
lệnh người cao tuổi). NCT không nơi nương tựa, khơng có nguồn thu nhập được
khám chữa bệnh miễn phí (Khoản 2, Điều 12 Pháp lệnh người cao tuổi). NCT
từ đủ 90 tuổi trở lên được cấp miễn phí thẻ bảo hiểm y tế với mệnh giá 50.000
đồng/người/năm hoặc khám chữa bệnh miễn phí theo cơ chế thực thanh, thực
chi tại các cơ sở y tế quy định tại Điều 1 của Quyết định số 139/2002/QĐ - TTg
của Thủ tướng chính phủ ngày 15/10/2002 về việc khám chữa bệnh cho người
nghèo (Thông tư số 24/2003/TT -BLĐTBXH). Năm 2002, theo Nghị định số
30/2002/NĐ-CP, người cao tuổi trên 100 tuổi được cấp BHYT miễn phí .
-Việc truyền thơng về các nội dung chăm sóc sức khỏe cho NCT cũng
như tổ chức các câu lạc bộ sinh hoạt cho NCT được Nhà nước chú trọng. Mục
1, phần II, Thông tư 02/2004/TT - BYT quy định “Tổ chức tuyên truyền, phổ
biến các nội dung rèn luyện thân thể, tăng cường sức khỏe và phòng bệnh nhất
là các bệnh thường gặp ở người cao tuổi để NCT tự phòng bệnh”. “Tổ chức các
câu lạc bộ NCT như: Câu lạc bộ dưỡng sinh, câu lạc bộ sức khỏe ngoài trời.
Tùy điều kiện và yêu cầu của người cao tuổi, từng địa phương có thể tổ chức
các câu lạc bộ của những người mắc bệnh mãn tính như bệnh tiểu đường, hen,
tăng huyết áp, bệnh tim mạch, bệnh thận, tiết niệu, đục thủy tinh thể” ( Mc 3,
phần II, Thông tư 02/2004 /TT - BYT).
- Nhà nước cũng có chính sách hình thành và phát triển mạng lưới y tế
chuyên sâu chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi. Điều 15 Pháp lệnh người cao
tuổi “Các bệnh viện của Nhà nước phải có khoa lão khoa hoặc đành một sổ
giường để điều trị bệnh nhân là người cao tuổi và tổ chức nghiên cứu về chuyên
môn , kỹ thuật điều trị cho người cao tuổi”. Thông tư số 02/ 2004/ TT BYT quy
định rõ về tổ chức mạng lưới khám, chữa bệnh cho người cao tuổi.
Ngồi những nội dung liên quan đến chăm sóc sức khỏe, khám chữa
bệnh cho NCT, các chính sách cũng chú ý đến việc nghiêm cấm tình trạng bóc
lột sức lao động của NCT, cũng như tình trạng bạo lực đối với NCT. Luật Lao
động quy định tại Điều 124: “Người sử dụng lao động có trách nhiệm quan tâm
chăm sóc sức khỏe người lao động cao tuổi, không được sử dụng người lao
động cao tuổi làm việc nặng nhọc, nguy hiểm... ảnh hưởng sức khoẻ” . Điều
151 của Bộ luật hình sự quy định : “Tội ngược đãi hoặc hành hạ ơng bà, cha
mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng minh” và Điều 152 quy
định “Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng”. Ngoài ra, người cao
tuổi còn được hưởng một số các chế độ ưu tiên, ưu đãi khác như miễn các
khoản đóng góp xã hội (Theo Thông tư số 16/2002/TT - BLĐTBXH ngày
09/12/2002 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 30/ 2002/ NĐ CP ngày 26/3/2002 quy định và hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh
Người cao tuổi, người cao tuổi được miễn các khoản đóng góp các hoạt động
xã hội).
Như vậy, về mặt chính sách, NCT được tạo điều kiện để tham gia vào
các hoạt động chăm sóc sức khỏe của bản thân. Nhìn chung, sự ra đời Luật
người cao tuổi năm 2009 là bước đi quan trọng trong việc xây dựng khung
chính sách phụng dưỡng và phát huy vai trò NCT.
1.4. Khái lược về địa bàn nghiên cứu
1.4.1. Điều kiện tự nhiên
Xã có diện tích 34,58 km², năm 1999 mật độ dân số đạt 191 người/km².
Xã Tiến Xuân là một xã dân tộc, miền núi thuộc Huyện Thạch Thất cách thị
trấn huyện 17 km. Nhìn chung địa hình thấp từ Tây sang Đơng, chia thành hai
dạng địa hình bán sơn địa, đồi gị và địa hình đồng bằng.
1.4.2. Điều kiện kinh tế - xã hội