Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Lỗ đen, lỗ sâu đục và cỗ máy thời gian (Phần 46) pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.82 KB, 3 trang )

Lỗ đen, lỗ sâu đục và cỗ máy thời gian
(Phần 46)
Tính hai mặt của ánh sáng
Tôi đã trình bày những tính chất kì lạ của ánh sáng lúc bắt đầu
Chương 4 để giới thiệu về các lỗ đen. Lúc này tôi cần trở lại với
đề tài ánh sáng, không phải chỉ vì nó “hữu ích” mà vì nó là cơ sở
của toàn bộ thuyết tương đối đặc biệt.
Vào cuối thế kỉ thứ 19, Thomas Young (người Anh đã chứng
minh Newton sai khi nói ánh sáng là gồm những dòng hạt) và
James Clerk Maxwell (người Scotland đã khám phá ra ánh sáng
là sóng điện từ) đã vượt qua mọi nghi ngờ chứng minh rằng ánh
sáng hành xử kiểu sóng. Ngày nay, có vô số thí nghiệm bộc lộ rõ
ràng và đẹp đẽ bản chất sóng của ánh sáng. Đúng là cơ học
lượng tử đã chứng minh rằng ánh sáng, trong những trường hợp
nhất định, cũng có thể hành xử giống như một dòng hạt, trong
phần sau đây, chúng ta cần đến bản chất sóng của nó.
Một tính chất quan trọng của sóng là chúng cần một cái gì đó để
truyền; một môi trường qua đó các dao động có thể truyền đi.
Khi bạn nói chuyện với ai đó đang đứng gần bạn, thì sóng âm đi
từ miệng của bạn đến tai của anh ta cần không khí ở giữa để
truyền. Tương tự như vậy, sóng nước trên mặt biển cần có nước,
và “chỗ lồi” truyền dọc theo chiều dài sợi dây khi nó bị khều
nhẹ ở một đầu thì cần có sợi dây. Rõ ràng không có môi trường
mang sóng đi thì sẽ không có sóng. Đây là nguyên do thuyết
phục các nhà vật lí thế kỉ 19 rằng ánh sáng, đã được chứng minh
là sóng, cũng cần một môi trường truyền. Và vì không ai từng
nhìn thấy một môi trường như vậy, nên họ phải nghĩ ra một cách
chứng minh sự tồn tại của nó.
Môi trường đó được gọi là ether truyền sáng - không nên nhầm
lẫn với chất hữu cơ thường dùng làm thuốc tê – và cuộc săn tìm
nó bắt đầu. Nếu như nó tồn tại thì nó phải có những tính chất


nhất định. Trước tiên, nó phải thấm đẫm toàn bộ không gian để
ánh sáng phát ra từ các ngôi sao có thể đi tới chúng ta. Nó phải
tồn tại ở mọi nơi, kể cả trong không gian trống rỗng bên trong
các nguyên tử. Một tính chất quan trọng của ether là nó không
thể tương tác với các đối tượng vật chất và do đó không thể bị
kéo theo cùng với chúng khi chúng chuyển động. Điều này đã
được xác nhận tận hồi năm 1729 do một tính chất của ánh sáng
gọi là quang sai.
Người ta chẳng biết thêm gì khác về ether. Người ta hi vọng mọi
thứ sẽ rõ ràng hơn với những tiến bộ đạt được trong lĩnh vực
nghiên cứu quang học. Tuy nhiên, chưa ai sẵn sàng cho cái sắp
xảy ra cả.
Vào năm 1907, A A Michelson trở thành người Mĩ đầu tiên
giành giải Nobel vật lí cho một thí nghiệm ông đã thực hiện hồi
thập niên 1880 cùng với E W Morley. Có lẽ đó là thí nghiệm nổi
tiếng nhất trong lịch sử vật lí. Michelson đã phát minh ra một
dụng cụ gọi là giao thoa kế hoạt động dựa trên bản chất sóng của
ánh sáng để đo thời gian cần thiết cho một chùm ánh sáng đi hết
một quãng đường nhất định. Bằng cách sử dụng khéo léo giao
thoa kế của ông để đo xem những chùm ánh sáng chuyển động
nhanh như thế nào, ông đã chứng minh không một chút nghi ngờ
rằng ether không hề tồn tại!
Một thực tế trong vật lí học là mọi sóng truyền đi ở một tốc độ
không phụ thuộc vào tốc độ của nguồn sóng. Hãy nghĩ tới âm
thanh của một chiếc xe hơi đang chạy nhanh đến gần. Sóng âm
sẽ đi tới tai bạn trước chiếc xe vì chúng truyền đi nhanh hơn,
nhưng tốc độ của chúng liên quan đến các phân tử không khí có
thể truyền chúng đang dao động bao nhanh. Chúng không đi tới
tai bạn nhanh hơn vì bị chiếc xe đang chuyển động “đẩy tới”.
Thay vậy, cái xảy ra là sóng âm bị nén đến tần số cao hơn và

bước sóng ngắn hơn ở phía trước xe (hiệu ứng Doppler) nhưng
tốc độ của âm thanh thì không thay đổi.
1

Sóng âm truyền trong không khí ở tốc độ 1200 km/h. Tốc độ
này độc lập với chuyện chiếc xe đang chuyển động bao nhanh.
Nếu chiếc xe đang chạy 100 km/h thì người tài xế sẽ thấy sóng
âm (giả sử sóng âm có thể nhìn thấy) ở phía trước anh ta với tốc
độ chỉ 1100 km/h (1200 trừ 100). Chiếc xe chạy càng nhanh thì
tốc độ tương đối của sóng âm mà người tài xế nhìn thấy sẽ càng
nhỏ. Nhưng với một người quan sát đứng yên đang nhìn chiếc
xe đang chạy tới, thì sóng âm luôn luôn truyền đi ở tốc độ 1200
km/h cho dù chiếc xe đó đang chạy bao nhanh. Nếu người tài xế
và người quan sát đứng yên nêu ra lập luận về tốc độ của âm
thanh, thì người tài xế sẽ phải thừa nhận rằng tốc độ mà anh ta
thấy sóng âm đang di chuyển không phải là tốc độ thật sự của
chúng vì anh ta cũng đang chuyển động so với các phân tử
không khí

×