Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

Luận văn thạc sĩ đổi mới phong cách làm việc của giảng viên trường đại học công nghệ giao thông vận tải hiện nay theo phong cách hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.2 MB, 120 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................5
Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHONG CÁCH LÀM VIỆC.....
12
1.1. Các khái niệm cơ bản

12

1.2. Quan niệm cơ bản Hồ Chí Minh về phong cách làm việc 25
1.3. Giá trị lý luận - thực tiễn phong cách làm việc Hồ Chí Minh 38
Chương 2: VẬN DỤNG PHONG CÁCH LÀM VIỆC HỒ CHÍ MINH VÀO
ĐỔI MỚI PHONG CÁCH LÀM VIỆC CỦA GIẢNG VIÊN TRƯỜNG ĐẠI
HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THƠNG VẬN TẢI HIỆN NAY.......................44
2.1.Trường Đại học Cơng nghệ Giao thông vận tải - Những nhân tố tác động
và sự cần thiết đổi mới phong cách làm việc của giảng viên

44

2.2.Thực trạng đổi mới phong cách làm việc của giảng viên Trường Đại
học Công nghệ Giao thông vận tải hiện nay theo phong cách làm việc Hồ
Chí Minh giai đoạn 2011 – 2017

58

2.3. Một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới phong cách làm việc của giảng
viên Trường Đại học Công nghệ Giao thông vận tải hiện nay theo phong
cách làm việc Hồ Chí Minh 72
KẾT LUẬN..................................................................................................101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................104
TÓM TẮT LUẬN VĂN..............................................................................118



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CNH - HĐH: Cơng nghiệp hóa – Hiện đại hóa
CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

CBLĐQL

: Cán bộ lãnh đạo quản lý

PC

: Phong cách

LLCT

: Lý luận chính trị

GTVT

: Giao thơng vận tải

KH - CN


: Khoa học – Công nghệ


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam. Sau
nhiều năm bơn ba tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, từ chủ nghĩa u
nước chân chính, Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin . Hồ Chí
Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn
cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn
cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và tiến lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc, đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân
thế giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Những đóng
góp quan trọng về nhiều mặt của Người trên các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và
nghệ thuật chính là sự kết tinh của truyền thống văn hóa hàng ngàn năm của
dân tộc Việt Nam, đã góp phần quan trọng và việc tăng cường sự hiểu biết lẫn
nhau giữa các dân tộc. Với ý nghĩa lớn lao đó, Đại Hội đồng UNESCO khóa
họp lần thứ 24 tại Paris đã thông qua Nghị quyết số 24 C/1865 tơn vinh Hồ
Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc - nhà văn hóa kiệt xuất”. Cuộc
đời, sự nghiệp cách mạng vẻ vang và những cống hiến vĩ đại của Hồ Chí
Minh khơng những là tấm gương sáng ngời về tư tưởng, đạo đức, lối sống, trí
tuệ, tài năng , nhân cách mà còn là tấm gương về phong cách làm việc. Qua
hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý
nghĩa lịch sử. Thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín
quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan
trọng để thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc thực hiện dân
chủ trong Đảng và trong xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân có

nhiều tiến bộ… Đa số cán bộ, đảng viên phát huy được vai trò tiên phong,
gương mẫu, năng động, sáng tạo trong công tác, rèn luyện phẩm chất, năng


2

lực, đóng vai trị nịng cốt trong cơng cuộc đổi mới. Tuy nhiên, trong Đảng và
trong xã hội ta hiện nay đã xuất hiện tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống. Báo cáo Chính trị tại Đại hội XII của Đảng đã nhận định:
“Tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận cịn
diễn biến phức tạp hơn; một số rất ít cán bộ, đảng viên bị phần tử xấu lợi
dụng, lơi kéo, kích động, xúi giục, mua chuộc đã có tư tưởng, việc làm chống
đối Đảng, Nhà nước” [16, tr.1.85].
Nguyên nhân của tình trạng trên có cả khách quan và chủ quan.
Về khách quan, trước hết do tác động tiêu cực của cơ chế thị trường,
đặc biệt là khả năng kích thích lối sống thực dụng của cơ chế này; sự tác động
của đạo đức, lối sống tư sản, hưởng thụ phương Tây vào nước ta. Trong điều
kiện tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế và bùng nổ mạng thơng tin tồn cầu, các
thế lực thù địch, phản động đã chủ động khuyến khích lối sống ích kỷ, hưởng
thụ, thực dụng trong cán bộ, đảng viên, nhất là trong cán bộ lãnh đạo và gia
đình, trong giới trẻ, coi đó là một trong những biện pháp thực hiện “diễn biến
hịa bình”.
Về ngun nhân chủ quan, do chúng ta chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc
vai trò nền tảng của đạo đức trong ổn định, phát triển xã hội và tác động của
cơ chế kinh tế thị trường đến đạo đức xã hội… Tình trạng suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống nêu trên đã tác động lớn đến sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Nó đang làm thay đổi, lệch lạc những
chuẩn mực, thang bậc giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp và cách mạng, có
tác hại đến sự trường tồn của dân tộc và sự phát triển của đất nước.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, ngày 15/5/2016, chỉ thị 05 – CT/TW
Bộ Chính trị khóa XII đã ban hành về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” u cầu tồn Đảng, tồn dân, tồn
qn tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong


3

cách Hồ Chí Minh, là một giải pháp quan trọng, vừa mang tính cấp bách, vừa
mang tính lâu dài nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành
động trong Đảng, hệ thống chính trị và nhân dân.
Phong cách làm việc Hồ Chí Minh là một bộ phận vơ cùng quan trọng,
q giá trong tồn bộ di sản mà Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc và nhân
loại. Đó là phong cách của người Việt Nam, phong cách của một con người
với cái tâm trong sáng, cái đức cao đẹp, cái trí minh mẫn, cái hành mực
thước; phong cách của một lãnh tụ, một vĩ nhân, một chiến sĩ cộng sản chân
chính, của người cơng dân số một Việt Nam. Phong cách làm việc Hồ Chí
Minh không phải để cho người đời ca ngợi, sùng bái mà để mọi người noi
theo và học tập. Được hình thành từ những ngày đầu bơn ba đi tìm đường cứu
nước và phát triển trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, phong cách làm
việc Hồ Chí Minh đã trở thành tấm gương, bài học quý giá, là chuẩn mực cho
việc xây dựng phong cách làm việc cho mỗi một con người nói chung và
người giảng viên Trường Đại học Cơng nghệ Giao thơng vận tải nói riêng
hiện nay.
Đội ngũ giảng viên Trường Đại học Công nghệ Giao thông vận tải hiện
nay là những người tiêu biểu về trình độ, nghiệp vụ sư phạm vững vàng, đạo
đức và nhân cách sống. Đội ngũ giảng viên ảnh hưởng trực tiếp đến chất
lượng đào tạo lớp cử nhân kinh tế, kỹ sư tương lai. Bởi thế, ngoài việc trang
bị đầy đủ tri thức khoa học, đội ngũ giảng viên Trường Đại học Cơng nghệ
Giao thơng vận tải hiện nay cần có phong cách làm việc khoa học , hiệu quả.

Cho nên, việc đổi mới phong cách làm việc theo phong cách Hồ Chí Minh
trong cơng tác giảng dạy của đội ngũ giảng viên là một việc làm có ý nghĩa
thiết thực, bổ ích, là một trong những nhân tố trực tiếp góp phần củng cố, phát
triển toàn diện, hoàn thiện phẩm chất, năng lực của người giảng viên, qua đó
quyết định đến chất lượng, hiệu quả công tác của mỗi giảng viên, đồng thời,


4

thực hiện có chất lượng và hiệu quả Chỉ thị 05 CT/TW của Bộ Chính trị về
“Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
Hiện nay, nhiều yếu tố tác động, khách quan, chủ quan. Do vậy, việc
đổi mới phong cách làm việc của Hồ Chí Minh cho đội ngũ giảng viên
Trường Đại học Công nghệ Giao thông vận tải bên cạnh những kết quả đã đạt
được, vẫn còn hạn chế và những vấn đề đặt ra cần được nhận thức và khắc
phục. Các chủ thể tham gia quá trình đổi mới phong cách làm việc của đội
ngũ giảng viên cịn có hạn chế nhất định về sự phối hợp, kết hợp và phát huy
trên các mặt, việc xây dựng phong cách làm việc Hồ Chí Minh cịn những khó
khăn về cách thức, biện pháp và các điều kiện cụ thể. Trong từng trường hợp,
nhiệm vụ giữa các giảng viên với các phòng, ban, khoa; giữa Nhà trường với
giảng viên còn thiếu nhịp nhàng, khoa học, hiệu quả.
Từ những lý do trên, tác giả mạnh dạn lựa chọn đề tài nghiên cứu:“Đổi
mới phong cách làm việc của giảng viên Trường Đại học Công nghệ Giao
thông vận tải hiện nay theo phong cách Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn
thạc sĩ ngành Hồ Chí Minh học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Phong cách làm việc Hồ Chí Minh ln là vấn đề có ý nghĩa quan trọng
trong mọi thời điểm. Việc đổi mới phong cách làm việc của đội ngũ giảng
viên nói chung và của giảng viên Trường Đại học Cơng nghệ Giao thơng vận
tải hiện nay nói riêng theo phong cách Hồ Chí Minh là việc làm hết sức cần

thiết. Bởi vậy, vấn đề đổi mới phong cách làm việc của Hồ Chí Minh đã và
đang được nhiều tổ chức, cá nhân nhà khoa học quan tâm nghiên cứu trên
nhiều góc độ khác nhau.
2.1. Sách của tác giả nước ngoài
- F.F Aunapa, J.J Cribbin, G.A Lessebis (1974), Bàn về phong cách
lãnh đạo và quản lý, Nxb Bộ Giao thông vận tải, Hà Nội.


5

Những nội dung mà luận văn có thể tham khảo, vận dụng, kế thừa:
phong cách lãnh đạo là phương pháp vận dụng rõ ràng và sắc nét những
nguyên tắc, phương thức và phương tiện để quản lý lãnh đạo; những ảnh
hưởng bên ngoài tác động đến phong cách lãnh đạo bao gồm những trào lưu
tư tưởng chung và lý luận về tổ chức (tượng trưng cho giai đoạn phát triển của
khoa học quản lý), chế độ xã hội, đặc điểm dân tộc, tính chất sản xuất, những
đặc điểm của cương vị cơng tác…những ảnh hưởng này hình thành những
phong cách lãnh đạo chung mà ở nhiều cán bộ lãnh đạo đều có; nhóm ảnh
hưởng thứ hai xuất xứ từ những bản sắc riêng của người cán bộ lãnh đạo như
đức tính, trình độ, năng lực chun mơn và sự trưởng thành về chính trị, những
ảnh hưởng này hình thành những phong cách lãnh đạo riêng mà có thể ở mỗi
người cán bộ lãnh đạo biểu hiện khác nhau.
- M.M.Va-xe-rơ (1985), Phong cách làm việc kiểu V.I.Lênin trong
công tác và sự lãnh đạo của Đảng, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội.
Trong cuốn sách, tác giả đã luận giải những nội dung phong cách làm
việc kiểu V.I.Lênin, đó là: quan điểm khoa học; liên hệ với quần chúng, quan
tâm tới mọi người; sự lãnh đạo tập thể chân chính và trách nhiệm cá nhân đối
với công việc được giao; sự thống nhất giữa lời nói và việc làm; sự vững vàng
về tư tưởng và tính ngun tắc của Đảng; đầu óc thiết thực; óc sáng kiến,
quan điểm sáng tạo đối với cơng việc; kỷ luật, phê bình và tự phê bình, tính

khơng khoan nhượng đối với những thiếu sót. Đây là những nội dung mà luận
án có thể tham khảo, vận dụng, kế thừa.
- Dominique Chalvin (1993), Các phong cách quản lý, Nxb Khoa học
và kỹ thuật, Hà Nội.
Những nội dung luận văn có thể tham khảo, vận dụng, kế thừa: phong
cách = cá tính x mơi trường, cá tính là cái khơng thay đổi, nhất là ở độ chín
muồi, cịn mơi trường và tình huống là cái mà người chung quanh có thể tác
động; năm phong cách hiệu quả, phong cách G: người tổ chức, phong cách P:


6

người tham gia, phong cách T: người mạnh dạn, phong cách R: người thực tế,
phong cách M: người cực đại chủ nghĩa; năm phong cách vô hiệu quả, phong
cách G': người quan liêu, phong cách P': người có đầu óc gia trưởng và mỵ
dân, phong cách T': sính kỹ thuật và chuyên chế, phong cách R': người cơ hội,
phong cách M': người khơng tưởng, sính hiện đại.
2.2. Một số cơng trình nghiên cứu, sách bàn về phong cách làm việc
của Hồ Chí Minh
- Trần Đình Quảng, PGS.TS. Nguyễn Quốc Bảo (1997), “Phong cách
làm việc V.I.Lênin, phong cách Hồ Chí Minh với cán bộ cơng đồn”, Nxb
Lao động, Hà Nội. Trong cuốn sách này đã khai thác và đưa ra những nhận
định cơ bản nhất về phong cách làm việc của V.I.Lênin, những nội dung cơ
bản về phong cách làm việc Hồ Chí Minh, và yêu cầu đổi mới phong cách
làm việc trong cán bộ cơng đồn. Trên cơ sở phân tích những nội dung phong
cách làm việc của Hồ Chí Minh, tác giả đã đưa ra nhận định “Hồ Chí Minh –
tấm gương sáng ngời về phong cách làm việc”.
- GS. Đặng Xuân Kỳ (1997), “Phương pháp và phong cách Hồ Chí
Minh”, Nxb Chính trị quốc Gia, Hà Nội: tác giả nghiên cứu, phân tích và chỉ
ra bản chất của phong cách Hồ Chí Minh là hệ thống chỉnh thể, khoa học,

phát triển tuần tự theo logic đi từ suy nghĩ (phong cách tư duy), đến nói, viết
(phong cách diễn đạt) và biểu hiện qua phong cách làm việc, phong cách ứng
xử, phong cách sinh hoạt hàng ngày. Trong phong cách Hồ Chí Minh, khơng
phải chỉ có những gì thuộc về dân tộc, khơng phải chỉ có truyền thống mà cịn
có cả hiện đại; khơng phải chỉ có q khứ, mà cịn có cả tương lai.
- Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ, Viện khoa học tổ chức Nhà nước, TS.
Thang Văn Phúc (1998), “Đạo đức, phong cách, lề lối làm việc của cán bộ,
công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đây
là cuốn sách tập hợp các bài tham luận Hội thảo khoa học nhân kỷ niệm 50
năm Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”. Cuốn sách


7

đã phân tích luận giải những nội dung cơ bản về tiêu chuẩn, nội dung, yêu cầu
cần học tập, rèn luyện về đạo đức, phong cách, lề lối làm việc của cán bộ
công chức hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
-Trần Văn Phịng (2001), Học tập phong cách tư duy Hồ Chí Minh,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách là kết quả nghiên cứu của đề tài
khoa học "Phong cách tư duy Hồ Chí Minh với việc xây dựng phong cách tư
duy cho cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay". Phần một, trình bày
bản chất, đặc trưng phong cách tư duy Hồ Chí Minh; phần hai, xây dựng
phong cách tư duy cho CBLĐQL theo phong cách tư duy Hồ Chí Minh.
Phong cách tư duy Hồ Chí Minh là phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng
tạo, thiết thực gắn với thực tiễn đất nước và thời đại. Một số giải pháp cơ bản
nhằm từng bước xây dựng phong cách tư duy cho CBLĐQL theo phong cách
tư duy Hồ Chí Minh: nắm vững và trau dồi phương pháp tư duy biện chứng
duy vật Mácxít; học tập cách thức vận dụng phương pháp tư duy biện chứng
duy vật của Hồ Chí Minh; học tập việc quán triệt sự thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn ở Hồ Chí Minh; học tập tinh thần học tập khơng mệt mỏi của Hồ

Chí Minh.
- GS. Hồng Chí Bảo (2002), “Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh”,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, đã nghiên cứu một cách cơ bản có hệ thống
những nội dung của phương pháp Hồ Chí Minh. Trong đó, tác giả đã chỉ ra
đặc trưng cốt lõi nhất của phương pháp Hồ Chí Minh, từ đó làm sáng tỏ
phương pháp khoa học của Người và những giá trị trong phương pháp và tác
phong của Người.
- PGS. TS. Bùi Đình Phong (2006), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
và cơng tác cán bộ”, Nxb Lao Động, Hà Nội. Ở chương 2 “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về cán bộ”, tại điểm 4: Phong cách của người cán bộ cách mạng, tác giả
đã đề cập đến những vấn đề cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về cách lãnh
đạo, cách công tác, cách dân chủ, tác phong độc lập suy nghĩ, nói đi đơi với


8

làm… Những nội dung trên mới chỉ đề cập ở góc độ là những tiêu chí của
người cán bộ lãnh đạo theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
- PGS. TS. Nguyễn Thế Thắng (2010), “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh vào xây dựng phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước
ta hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, đã nghiên cứu và đưa ra quan
niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo,
quản lý; khảo sát, đánh giá thực trạng phong cách làm việc của cán bộ lãnh
đạo, quản lý hơn 20 năm đổi mới. Từ đó, tác giả đưa ra mục tiêu, phương
hướng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc vào xây dựng
phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay.
2.3. Một số bài đăng tạp chí về phong cách làm việc trong tư tưởng
Hồ Chí Minh
- Nguyễn Khánh Bật, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục – đào tạo”,
Tạp chí giáo dục, số 4 tháng 5/2001.

- Phan Xuân Khanh, “Học tập phong cách làm việc Hồ Chí Minh”, Tạp
chí Khoa học, số 5/2006, tr.22-25.
- Nguyễn Anh Minh, “Học tập tác phong làm việc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh”, Tạp chí Cộng sản, số 2/2007.
- Đỗ Xuân Đô, “Phương pháp tự học của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Tạp
chí Văn hóa qn sự, tháng 10/2010.
- Trịnh Đình Tùng, Lê Đình Năm, “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục, đào tạo ở nước ta hiện nay là sự kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục – đào tạo”, Đặc san Hồ Chí Minh học, số 1/2014…
2.4. Một số luận văn thạc sĩ bàn về giáo dục và phương pháp giáo
dục của Hồ Chí Minh
- Lê Thị Thanh Hoa, “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vào
việc đổi mới giáo dục cao đẳng ở Nghệ An trong giai đoạn hiện nay”, Luận
văn thạc sĩ khoa học, 2008.


9

- Lê Trung Kiên, “Vận dụng phương pháp giáo dục Hồ Chí Minh
nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy các môn LLCT ở trường Đại học PCCC
hiện nay”, Luận văn thạc sĩ, 2012.
- Trịnh Thị Nha Trang, “Quan điểm Hồ Chí Minh về phương pháp
giáo dục với việc đổi mới phương pháp giáo dục ở trường Cao đẳng Thống
kê hiện nay”. Luận văn thạc sĩ, 2014.
Đây là những cơ sở lý luận quan trọng và trực tiếp để đưa ra những
quan niệm về phong cách làm việc của Hồ Chí Minh và việc đổi mới phong
cách làm việc trong công tác giảng dạy của đội ngũ giảng viên Trường Đại
học Công nghệ Giao thông vận tải hiện nay. Những kết quả nghiên cứu trên
là nguồn tài liệu rất quan trọng, là cơ sở để tác giả tiếp thu, kế thừa, bổ
sung và phát triển trong q trình hồn thành luận văn này.

3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
- Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về đổi mới
phong cách làm việc của giảng viên Trường Đại học Công nghệ Giao
thông vận tải.
- Luận văn đề xuất một số giải pháp cơ bản về đổi mới phong cách
làm việc của giảng viên Trường Đại học Công nghệ Giao thông vận tải
hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ khái niệm, nội dung cơ bản về phong cách làm việc Hồ Chí Minh.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng đổi mới phong cách làm việc của đội
ngũ giảng viên Trường Đại học Công nghệ Giao thông vận tải hiện nay (từ
năm 2011 đến nay).
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản về đổi mới phong cách làm việc của
giảng viên Trường Đại học Công nghệ Giao thông vận tải hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn


10

4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về phong cách làm việc.
- Vận dụng phong cách làm việc Hồ Chí Minh vào đổi mới phong cách
làm việc của giảng viên Trường Đại học Công nghệ Giao thông vận tải hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Các vấn đề liên quan đến hoạt động đổi mới phong cách làm việc Hồ
Chí Minh của đội ngũ giảng viên hiện đang giảng dạy tại Trường Đại học
Công nghệ Giao thông vận tải (từ năm 2011 đến nay).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phong cách,
phong cách làm việc.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó chú trọng các phương pháp: phân tích tổng hợp, lịch sử - logic, quy nạp- diễn dịch, khảo sát, tổng kết thực tiễn, so
sánh và phương pháp chuyên gia.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ những nội dung quan điểm Hồ Chí Minh
về phong cách làm việc.
- Đánh giá thực trạng về phong cách làm việc của đội ngũ giảng viên
Trường Đại học Công nghệ Giao thông vận tải.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới phong cách làm việc
cho đội ngũ giảng viên Trường Đại học Công nghệ Giao thông vận tải hiện
nay theo quan điểm Hồ Chí Minh.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
7.1. Ý nghĩa lý luận


11

Luận văn góp phần làm rõ quan điểm cơ bản Hồ Chí Minh về phong
cách làm việc. Qua đó khẳng định tính cách mạng và khoa học, tồn diện và
sâu sắc của Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách nói chung và phong cách
làm việc nói riêng.
- Luận văn chỉ rõ sự cần thiết phải vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh
về phong cách làm việc vào đổi mới phong cách làm việc cho đội ngũ giảng
viên Trường Đại học Công nghệ Giao thông vận tải hiện nay.
7. 2.Ý nghĩa thực tiễn
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,

giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách nói chung và phong cách làm
việc nói riêng.
- Giải pháp cơ bản của luận văn mà tác giả đưa ra có thể làm tài liệu
tham khảo cho việc đổi mới phong cách làm việc của giảng viên Trường Đại
học Công nghệ Giao thông vận tải hiện nay.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn
gồm 2 chương, 6 tiết.


12

Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHONG CÁCH LÀM VIỆC
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm về phong cách
Khái niệm “phong cách” từ lâu đã được bàn đến cả ở phương Đơng và
phương Tây. Hiện nay, cịn có nhiều ý kiến khác nhau bàn về khái niệm
phong cách. Tùy theo góc độ nghiên cứu mà mỗi tác giả có khái niệm riêng
về phong cách. Các từ điển: Từ điển Triết học do Nhà xuất bản Tiến bộ
Mátxcơva ấn hành; từ điển tiếng Nga do Nhà xuất bản tiếng Nga ấn hành; đại
từ điển tiếng Việt do Nhà xuất bản văn hóa- thơng tin ấn hành, đều có các
định nghĩa riêng về phong cách. Song, cũng có những điểm chung: đã đề cập
đến phong cách trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật, là nét riêng để phân biệt
người này với người khác, là cách thức thực hiện những biện pháp mang vẻ
riêng, là nét riêng trong lối sống, làm việc của cá nhân hay một nhóm người
nhất định. Tuy nhiên, các định nghĩa trên còn hạn hẹp về những chủ yếu của
phong cách và phạm vi.
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam “Phong cách là những đặc điểm
riêng, độc đáo, thể hiện cách thức của từng nhà văn trong việc sử dụng ngôn

ngữ văn học. Phong cách của cá nhân nhà văn có tác dụng thể hiện tính tư
tưởng và nghệ thuật của tác phẩm” [24, tr.474]. Từ điển Tiếng Việt của Viện
Ngôn ngữ học “Phong cách là những lối, những cung cách sinh hoạt, làm việc,
hoạt động, xử sự tạo nên cái riêng của một con người, một loại người nào
đó” [ 61, tr.782]. Hoặc có thể xác định: Phong cách là vẻ riêng trong lối sống,
làm việc của một người, hay hạng người nào đó. Phong cách được thể hiện cụ
thể qua vẻ riêng trong lối sống của chủ thể: Phong cách tuy duy, phong cách
lãnh đạo, phong cách làm việc, phong cách diễn đạt, phong cách nói đi đơi với
làm, phong cách ứng xử, phong cách sinh hoạt…


13

Nhà tâm lý học người Nga E.A. Klimov cho rằng: "Phong cách là hệ
thống các dấu hiệu đặc trưng trong hoạt động của một con người cụ thể, được
quy định bởi các đặc điểm nhân cách của chính cá nhân đó" [25, tr.195]. Khái
niệm của Klimov đã chỉ ra những phẩm chất tâm lý, nhân cách cá nhân có ảnh
hưởng đến phong cách của cá nhân. Tuy nhiên, khái niệm cũng chỉ dừng lại đề
cập đến phong cách cá nhân.
Tiến sĩ tâm lý học Vũ Duy Yên cho rằng: "Phong cách là hệ thống các
phương pháp, biện pháp làm việc tương đối ổn định, cùng với hệ thống hành vi
đặc trưng cho mỗi cá nhân nhằm đạt được kết quả cơng việc trong những hồn
cảnh nhất định" [65, tr.37]. Tác giả đã kết hợp hai trường phái định nghĩa về
phong cách, đó là trường phái cho phong cách là hệ thống biện pháp, phương
pháp và trường phái cho phong cách là mẫu hành vi. Tuy nhiên, tác giả chỉ dừng
lại ở phong cách làm việc và kết hợp cả hai kiểu định nghĩa về phong cách đã
dẫn đến sự trùng lặp về nội hàm. Chủ thể lựa chọn mẫu hành vi nào thì đồng thời
đã thể hiện những biện pháp, phương pháp tương ứng.
Theo Giáo sư Đặng Xuân Kỳ "Phương pháp và phong cách Hồ Chí
Minh" cho rằng, phong cách không chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp, giới hạn

trong văn học, nghệ thuật, mà: “Còn được hiểu theo nghĩa rộng tức là lề lối,
cung cách, cách thức, phong thái, phong độ và phẩm cách đã trở thành nền
nếp ổn định của một người hoặc của một lớp người, được thể hiện trong tất cả
các mặt hoạt động như lao động, học tập, sinh hoạt, ứng xử, diễn đạt (nói và
viết) tạo nên những giá trị, những nét riêng biệt của chủ thể đó” [28, tr.130].
Theo đó, phong cách có thể được hiểu theo nghĩa hẹp chỉ giới hạn trong
văn học, nghệ thuật và theo nghĩa rộng được thể hiện trên tất cả các mặt hoạt
động của con người. Có thể nói đến phong cách của bất cứ người nào, từ
người bình thường đến một lãnh tụ, một vĩ nhân, cũng như của giảng viên…
Với cách định nghĩa này, những điểm cơ bản và phạm vi của phong cách đã
được mở rộng, điểm đáng lưu ý là có một số từ, cụm từ còn trùng lặp, dễ dẫn


14

đến cách hiểu chưa thật tường minh. Chẳng hạn, phong thái là những đặc trưng,
vẻ dáng bề ngoài, biểu hiện phong cách, thái độ tốt đẹp của con người; phong độ là
vẻ dáng bề ngoài, biểu hiện phong cách và thái độ tốt đẹp của con người.
Từ những định nghĩa nêu trên về phong cách, kế thừa những giá trị hợp lý,
nhất là định nghĩa của tác giả cuốn sách "Phương pháp và phong cách Hồ Chí
Minh", có thể rút ra những điểm cơ bản của phong cách: Một là, phong cách của
một con người phải được xem xét trên tất cả các lĩnh vực hoạt động xã hội đa
dạng mà người đó tham gia. Hai là, chủ thể của phong cách có thể là cá nhân,
nhóm người, tổ chức… Ba là, phong cách là cái riêng, cái độc đáo, tiêu biểu nhờ
đó có thể phân biệt chủ thể này với chủ thể khác. Bốn là, phong cách là những vấn
đề có tính hệ thống và tương đối ổn định, nền nếp của chủ thể. Năm là, phong
cách không chỉ là cách thể hiện bên ngồi thơng qua những cách thức, biện pháp,
phương pháp mà còn bao hàm những giá trị bên trong của chủ thể, tức những
thuộc tính tâm lý của chủ thể.
Từ phân tích trên đi đến khái niệm phong cách: phong cách là lề lối,

phẩm cách, cách thức và cách sử dụng các biện pháp, phương pháp được chủ
thể thể hiện một cách nền nếp, ổn định trong tất cả các mặt hoạt động của
chủ thể, tạo nên những giá trị, những nét riêng biệt của chủ thể đó.
Để tránh cách hiểu nhầm, đồng nhất phong cách với phương pháp và
tác phong, cần thiết phải phân biệt phong cách với phương pháp và tác phong.
Phương pháp là hệ thống các nguyên tắc xuất phát từ các quy luật vận động
và tồn tại của sự vật, hiện tượng đã được nhận thức để định hướng và điều
chỉnh hoạt động nhận thức và thực tiễn nhằm cải tạo sự vật, hiện tượng theo
mục đích đã xác định. Phong cách có quan hệ mật thiết với phương pháp,
nhưng chúng khơng đồng nhất với nhau. Phong cách của chủ thể luôn được
thể hiện thông qua các phương pháp mà chủ thể sử dụng. Trong từng phương
pháp đều phản ánh phong cách của chủ thể. Việc sử dụng phương pháp như
thế nào lại tùy thuộc trình độ, phẩm chất, năng lực của chủ thể, có thể có


15

nhiều phong cách khác nhau ở những chủ thể khác nhau, mặc dù ở họ có cùng
một phương pháp. Cả phong cách và phương pháp vừa có tính chủ quan, vừa
có tính khách quan, song phong cách thể hiện những thuộc tính, đặc điểm tâm
lý chủ quan nhiều hơn. Phương pháp là cái chung, việc sử dụng phương pháp
như thế nào dần dần sẽ hình thành những đặc trưng của chủ thể - phong cách.
Tác phong là lối làm việc và cách sống riêng của mỗi người, đặc trưng
sinh hoạt của một số nghề nghiệp, tổ chức. Tùy vào từng lĩnh vực mà phong
cách và tác phong có những điểm tương đồng, đơi khi trùng khít. Cả phong
cách và tác phong, đều thể hiện hành vi, lề lối, phương pháp của chủ thể, đều
bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi những thuộc tính, đặc điểm tâm lý của chủ thể.
Nếu hiểu tác phong là phong cách làm việc thì tác phong là một bộ phận của
phong cách. Phong cách mang tính xã hội rộng hơn tác phong. Phong cách
của chủ thể có sự biến đổi cho phù hợp với tình huống, cịn tác phong thì ít

biến đổi hơn. Phong cách thấm đượm bản chất bên trong của chủ thể, còn tác
phong có thiên hướng biểu hiện bề ngồi nhiều hơn.
Từ khái niệm phong cách, có thể hiểu: Phong cách người giảng viên
là lề lối, phẩm cách và cách thức sử dụng các biện pháp, phương pháp
được người giảng viên thể hiện thành nền nếp, ổn định trong tất cả các
mặt hoạt động của họ, tạo nên những giá trị, những nét riêng biệt của
giảng viên.
Từ việc nghiên cứu về phong cách chung, đi đến phong cách cụ thể của
một người, ta có:
Phong cách Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa tư tưởng và hành động,
được thể hiện trong mọi lĩnh vực sống và hoạt động của Hồ Chí Minh, tạo thành
một chỉnh thể nhất quán, có giá trị khoa học, đạo đức và thẩm mỹ, gắn bó chặt
chẽ với nhau, phát triển theo lơgích đi từ suy nghĩ (phong cách tư duy) đến nói,
viết (phong cách diễn đạt) và biểu hiện qua phong cách làm việc, phong cách
ứng xử, phong cách sinh hoạt hàng ngày.


16

Là một con người, trước hết, phong cách Hồ Chí Minh cũng có những đặc
điểm chung của phong cách con người, phong cách của người Việt Nam. Mỗi
con người là một cái riêng, cái đơn nhất trong mối quan hệ với cái chung của cả
lồi người. Phong cách Hồ Chí Minh, do đó, cũng có những đặc điểm riêng biệt,
độc đáo.
Hồ Chí Minh là một người đã đi và sinh sống ở nhiều nơi, hoạt động trên
nhiều lĩnh vực, đảm nhiệm nhiều cương vị, chức vụ khác nhau nên đặc điểm nổi
bật trong phong cách của Hồ Chí Minh là phong cách luôn đi cùng với những
hoạt động hết sức đa dạng và phong phú. Đó là phong cách của một người thầy
vĩ đại của cách mạng Việt Nam, một lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta,
một chiến sĩ lỗi lạc trong phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế. Phong cách

của Hồ Chí Minh cịn là phong cách của một nhà chính trị, một nhà ngoại giao,
một trí thức un bác… Nhưng bên cạnh đó, chúng ta lại bắt gặp ở Hồ Chí Minh
một phong cách hết sức bình dị, như một người nơng dân trên đồng ruộng, một
người công nhân trong nhà máy, như một chiến sỹ trên mặt trận, như một ông
Ké ở Việt Bắc, như một người cha, người anh trong gia đình. Đây là nét đặc sắc
trong phong cách Hồ Chí Minh.
Phong cách của Hồ Chí Minh là sự kết hợp Đơng - Tây, nó khơng chỉ bao
hàm cả truyền thống mà cả hiện đại, khơng chỉ có q khứ và hiện tại mà cịn có
cả tương lai. Vì vậy, khi tiếp xúc với Hồ Chí Minh, dù là người phương Đông
hay người phương Tây đều cảm thấy gần gũi. Phong cách Hồ Chí Minh, dù
mang tính cách của người phương Đơng, phương Tây, mang tính nhân loại
nhưng lại rất Việt Nam - phong cách ấy cũng có những điểm giống với
V.I.Lênin, Găng – đi nhưng lại rất Hồ Chí Minh.
Phong cách Hồ Chí Minh phản ánh phẩm chất cao đẹp của người chiến sỹ
yêu nước và quốc tế lỗi lạc, thủy chung. Hồ Chí Minh đã cống hiến trọn cuộc
đời cho cách mạng, cho lợi ích giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại.
Chính từ phẩm chất cao đẹp đó, Hồ Chí Minh đã tự xây cho mình một phong


17

cách làm việc mà Đảng và nhân dân ta hết sức trân trọng và đưa phong cách Hồ
chí Minh làm mẫu mực, là ngọn đuốc soi sáng cho các thế hệ noi theo. Hồ Chí
Minh đã ra đi nhưng phong cách của Người vẫn là ngọn đuốc sáng và cần được
thắp sáng hơn trong mọi hoạt động và hành trang của mỗi con người Việt Nam
nói chung, mỗi giảng viên Trường Đại học Cơng nghệ Giao thơng vận tải nói
riêng.
* Đặc trưng phong cách làm việc của người giảng viên
Một là, tính khoa học.
Người giảng viên cần có thói quen làm việc theo kế hoạch. Họ phải

hình dung được kế hoạch tổng thể của nhà trường, lĩnh vực mình phụ trách;
lập ra mục tiêu, nhiệm vụ cần hoàn thành trong từng năm, từng quý, từng
tháng, từng tuần; biết phân chia khối lượng cơng việc, đảm bảo hồn thành
phần lớn cơng việc; thường xuyên cập nhật thông tin, dự kiến các tình huống.
Đối với mỗi mục tiêu, nhiệm vụ, phải có trách nhiệm rõ ràng nhiệm vụ mà
minh được đảm nhiệm, mỗi nhiệm vụ đề ra đều phải có biện pháp thực hiện
cụ thể, tỷ mỷ, nếu khơng thì người giảng viên sẽ khó thực thi nhiệm vụ, bởi lẽ
trình độ, năng lực của một số người giảng viên còn hạn chế. Do đó, người
giảng viên phải dự kiến quỹ thời gian dự phịng để giải quyết các cơng việc sự
vụ phát sinh, nhiều cơng việc phải giải quyết ngồi giờ hành chính. Phong
cách làm việc khoa học cịn thể hiện ở chỗ, khi một tình huống nảy sinh thì
người giảng viên phải nhận thức được đúng bản chất, có thể tự mình ra quyết
định một cách độc lập để giải quyết tình huống hay phải tổ chức bàn bạc, thảo
luận rồi mới đi đến quyết định.
Hai là, tính thiết thực, cụ thể, sâu sát.
Người giảng viên cần phải am hiểu sâu sắc chức năng, nhiệm vụ, vai
trị của mình, nắm vững những công việc cụ thể cần phải thực hiện, trách
nhiệm, thẩm quyền của bản thân, trực tiếp nghiên cứu văn bản, điều tra nắm
tình hình thực tế liên quan đến cơng việc của bản thân, tránh tình trạng chung


18

chung, hời hợt. Giảng viên cần phải nắm rõ đặc điểm của ngành giáo dục nói
chung và nhà trường nói riêng, hiểu được những điều kiện khách quan, chủ
quan, những thuận lợi, khó khăn để từ đó đề ra những mục tiêu dài hạn, ngắn
hạn phù hợp. Khi đã có những mục tiêu đúng đắn, sát thực thì giảng viên nên
lượng hóa sức mình, khoảng thời gian cần thực hiện; nắm rõ tình hình, tiến độ
thực hiện nhiệm vụ và nắm rõ cả thái độ, tâm trạng của những người trực tiếp
thực hiện nhiệm vụ, cũng như tâm tư, nguyện vọng của sinh viên. Người

giảng viên phải luôn gần gũi với đồng nghiệp và sinh viên, khuyến khích, tơn
trọng, lắng nghe ý kiến của đồng nghiệp và sinh viên. Xây dựng kế hoạch làm
việc đảm bảo hàng tuần đều phải kiểm tra.
Ba là, phương pháp dân chủ.
Những vấn đề quan trọng của nhà trường phải được đưa ra bàn bạc
dưới hình thức dân chủ trực tiếp hoặc dân chủ đại diện. Quyết định cuối cùng
phải được đa số đồng ý. Nếu quyết định của đa số vì lý do nào đó cũng khơng
phải là quyết định đúng đắn thì giảng viên phải cân nhắc, xem xét, xin ý kiến
chỉ đạo của cấp trên chứ không thể cứ nhắm mắt làm sai rồi đổ lỗi tại tập thể.
Những vấn đề quan trọng phải xin ý kiến của khoa và nhà trường. Thực tế cho
thấy, đội ngũ giảng viên vừa phải mở rộng dân chủ, vừa phải thể hiện tính
quyết đốn cao.
Bốn là, tính năng động, sáng tạo.
Trong giai đoạn hiện nay, người giảng viên không chỉ thực hiện chuyên
môn đơn thuần mà còn thực hiện vai trò lãnh đạo quản lý các mặt đời sống
của sinh viên. Bởi vậy, đòi hỏi giảng phải thực sự là người năng động, sáng
tạo trong mọi hoạt động. Họ phải chủ động cùng sinh viên tìm cách tháo gỡ
những khó khăn vướng mắc trong q trình học tập, rèn luyện tại nhà trường.
Ngồi sự nỗ lực của sinh viên, sự hỗ trợ của nhà trường, giảng viên cần phải
tích cực, chủ động tìm kiếm sự giúp đỡ của các đồng nghiệp nhằm tạo ra sức
mạnh tổng hợp để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.



×