CHAU A
- THAI BINH DUONG (2010 -2014)
NHUNG VAN DE NOI TROI
(Quyén 1 / 10 tài liệu)
Mục lục
TT
|Ma
Tên tài liệu
I|TN011- 3+4
Chưa hăn là thế kỷ của Châu Á
2|TN011 - 65
Châu Á vẽ lại bản đồ phát triển
3|TNOLO - 62
Chau A nam ngang
4/TNO10 -36+37
|Châu Á trỗi dậy
5ÌTN012 - 99 + 100
Các nước phương Đơng ở đầu thê kỷ XXI: những tìm tịi
các khái quát lý luận mới
6|TN013 - 95
Khủng hoảng tiếp theo ở Đông Nam Á?
7|TN0I11-35+36_
|Địa vị của ASEAN ở Đông Á: từ góc nhìn trị lý khu vực
sÌTN012
Khơng tử và những thủng phiêu bau cu vi sao
châu A” không cản trở dân chủ
- 84
9|TN013 - 92+93_
10ÌTN010
- 60 + 61
"Cac gia tri
|Trung Quốc - đề chế vơ tình hình thành
Trung Quốc bảnh trướng: Băc Kinh có thê vươn xa dén dau
ở trên bộ và trên biên
VIỆN THÔNG TIN KHOA HỌC XÃ HỘI
26 Lý Thường Kiệt, Hà Nội * Tel: 38253074 - 38264243
TÀI LIỆU
PHỤC VỤ NGHIÊN CỨU
(LƯU HÀNH NỘI BỘ )
số:
- 2011
HÀ NỘI
TN2011-3&1
CHUA HAN LA THẾ KY CUA CHAU A
JOSHUA
KURLANTZICK*.
The
Asean
Century? Not Quite Yet. Current History -A
Journal
of
Contemporary
World
Affairs.
January 2011.
Nhìn chung, súc mạnh kinh tế của châu A, vé tong
thé, van con rất nghèo so uới Hoa Kỳ. Nếu có thể
bắt bịp Hoa
Kỳ,
khu
uực này sẽ phải
mất
hịng
thập kỷ.
* Biên tập viên cộng tác Tạp chí Lịch sử Đương đại, thành viên Hội đồng Đối ngoại và là tác
gia cua cuén Charm Offensive: How China’s Soft Power Is Transforming the World (tạm
dịch: Sắc đẹp có gai: Quyền lực mềm của Trung Quốc đang biến đối thế giới như thế nào?
Nxb Đại học Yale, 2008)
2
TN2011-3&4
ùa hè vừa rồi, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã đưa ra lời
cảnh báo đanh thép chưa từng có trong lịch sử đối với Hoa
Kỳ rằng quốc gia này nên tránh xa mọi xung đột liên quan
đến Biển Đông. Các quan chức Trung Quốc cũng tạm thời đóng băng mọi
quan hệ quân sự với Mỹ và từ chối chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng
Hoa Kỳ Robert Gates tới nước này. Một quan chức Hoa Kỳ có nhiều năm
nghiên cứu châu Á nhận xét: “Đây là động thái hiếu chiến nhất, công khai
khoe khoang sức mạnh của Trung Quốc mà tôi từng gặp”.
Thật dễ hiểu, một số nhà quan sát coi thái độ gần đây của các quan
chức Trung Quốc là dấu hiệu của sự thay đổi địa chính trị đang lan rộng.
Họ tuyên
bố rằng Trung
Quốc
và cả châu
Á nói chung
đã sẵn sàng để
thống trị thương mại toàn cầu và an ninh quốc tế. Xét cho cùng, châu Á
đang sở hữu những
động lực của kinh tế toàn cầu như Ấn Độ và Trung
Quốc cũng như các quốc gia đang có tốc độ phát triển nhanh như Việt Nam
và Indonesia. Phần lớn dân số thế giới tập trung ở khu vực này. Những
cường quốc dẫn đầu của châu lục này đang xây dựng lực lượng quân sự
tương xứng với sức mạnh kinh tế của họ. Theo Viện Nghiên cứu Chiến lược
Quốc tế, đơn cử như chi phí cho quốc phịng của Ấn
Độ hàng năm
đang
tăng lên gấp đôi.
Người ta cho rằng Trung Quốc đang đầu tư vào các chính sách có hiệu
quả kinh tế do Nhà nước chỉ đạo, cơ sở hạ tầng, công nghệ và khoa học. Điều
này sẽ đưa lại những ưu thế bất khả đánh bại trong các ngành cơng nghiệp
mới như năng lượng có thể tái tạo được. Tình hình này diễn ra khi hệ thống
chính trị của Hoa Kỳ dường như ngày càng “méo mó”, đặc biệt là hệ lụy của
thất bại mà chính đảng của Tổng thống Barack Obama phải gánh chịu trong
đợt bầu cử giữa nhiệm kỳ tháng 11 năm 2010.
Giới học giả tin tưởng chắc chắn vào xu thế lớn mạnh của châu Á.
Thomas Friedman - cây bút xã luận của tờ New York Times — người ln dự
đốn những xu thế tồn cầu, đã chỉ trích chính quyền Washington vì đã tụt
hậu đáng kể so với những đối thủ châu Á. Trong bài báo so sánh thách thức
của Trung Quốc với sự kiện Liên Xơ phóng vệ tinh Sputnik nam
1957 va tang
bốc cách thức quản lý tập trung của Trung Quốc (với cách quản lý này, dĩ
TN2011-3&4
3
nhiên, người ta ban hành luật mà không cần phải thông qua một quốc hội
đúng nghĩa), Friedman đã cảnh báo: “Chúng ta khơng chỉ mua những món đồ
chơi của chúng ta từ Trung Quốc. Chúng ta sẽ phải mua xe hơi chạy điện thế
hệ mới, những tấm lưới năng lượng mặt trời, các loại pin và phần mềm tiết
kiệm năng lượng cũng ở Trung Quốc”.
Thế nhưng, có thể là quá sớm để hùa vào ca tụng cho thế kỷ châu Á và
đồng nhất Hoa Kỳ với những đế quốc khổng lồ vang bóng một thời như Anh
quốc ở giữa thế kỷ XX. Hẳn là vậy, những tác động của cuộc khủng hoảng tài
chính năm 2008, kể cả những khoản thâm hụt ngân sách ngày càng lớn do
gói cứu trợ của Tổng thống Obama, sẽ tiếp tục là phép thử đối với sức mạnh
và tính linh hoạt của nền kinh tế Hoa Kỳ. Tám năm “miệt thị” khoa học và
công nghệ dưới “triều đại” George W. Bush đã làm tổn thương quá trình đổi
mới của Hoa Kỳ. Quá mạnh tay trong những năm đầu của cuộc chiến chống
chủ nghĩa khúng bố đã làm suy giảm sức mạnh mềm của Hoa Kỳ trên tồn
thế giới.
Dù vậy, nhìn chung, sức mạnh kinh tế của châu Á, về tổng thể, vẫn
còn rất nghèo so với Hoa Kỳ. Nếu có thể bắt kịp Hoa Ky, khu vực này sẽ phải
mất hàng thập kỷ. Châu Á đang đối mặt với những thử thách khá lớn về dân
f
n là khu vực này có tính liên kết kém
5ï khu vực đang gia tăng, tuy nhiên châu
Á còn lâu mới xây dựng được Kiểu liên kết hệ thống chung như Liên minh
châu Âu. Thực tế là những cường quốc châu Á như Ấn Độ, Trung Quốc hay
Nhật Bản vẫn muốn gây chiến với nhau hơn là cùng hợp tác để tạo ra những
định chế chung.
Dù báo giới đã tốn nhiều giấy mực
để viết về sự bá chủ công nghệ
trong tương lai của châu Á nhưng khu vực này vẫn còn thiếu những nhà đổi
mới — những người đã khiến Hoa Kỳ trở thành ơng hồng của những ngành
cơng nghiệp tiên tiến. Mặc dù Trung Quốc và những quốc gia châu Á khác
thành công về kinh tế, những cường quốc của khu vực này vẫn chưa truyền
được cảm hứng sang các nước khác bằng sức mạnh ý tưởng của mình — một
yếu tố then chốt tạo nên sức hấp dẫn vĩnh cửu của Hoa Kỳ. Quả vậy, chính
quyền Obama đã bắt đầu một chính sách khắc nghiệt với Trung Quốc và các
TN2011-3&4
4
cường quốc châu Á khác phần nào là do Nhà trắng ý thức được sức mạnh
trường tổn của Hoa Kỳ.
Thách thức về kinh tế
Những dự báo về suy
Như ky gia James Fallows
“khúc ai oán” hay đánh giá
- là chuyện thường xảy ra
hoặc nhà tư tưởng hàng đầu
thoái của Hoa Kỳ hồn tồn khơng
da ghi nhan trong té The Atlantic
thảm hại về thực trạng đau xót của
ở Hoa Kỳ. Cứ vài thập kỷ, những
lại bàn cãi liệu Hoa Kỳ có đang rơi
có gì mới mẻ.
héi đầu năm,
quốc gia này
chính trị gia
vào suy thoái
— du báo này nhằm làm sống dậy lời hiệu triệu người dân Mỹ tái dựng xây
quốc gia của mình.
Nhưng nỗi ám ảnh ngày nay dường như đã khác. Dù Hoa Kỳ đã phải
trải qua nhiều âu lo trong kỷ nguyên Sputnik nhưng thời đó quốc gia này vẫn
thống trị nền kinh tế toàn cầu. Chủ nghĩa cộng sản đã áp đặt thách thức hệ
tư tưởng lên những nền tảng của kinh tế Hoa Kỳ, tuy nhiên, hiếm có nhà
kinh tế nào tin rằng Liên Xơ có thể bắt kịp sức mạnh của hệ thống kinh tế
Mỹ. Cuối những năm 1980, cả châu Âu và Nhật Bản gần như đã sẵn sàng trở
thành đối thủ của Hoa Kỳ. Nhưng chẳng ai lo ngại các đối thủ về kinh tế của
Mỹ lại có thể trở thành mối đe dọa về quân sự.
Mọi chuyện giờ đã khác. Khủng hoảng tài chính và nạn thất nghiệp
dai dẳng ở Hoa Kỳ đã xuyên thủng lịng tin trong chính chủ nghĩa tư bản
thị trường tự do. Ngay
cả những
dự báo lạc quan
nhất cũng cho rằng Hoa
Kỳ sẽ phải gánh chịu mức thâm hụt hơn 1,4 nghìn tỷ đơ la trong năm tới.
Nếu thế giới khơng sử dụng đôla làm đồng tiền dự trữ như một số quan
chức tài chính Trung Quốc và châu Âu dự đốn thì nền tảng tài chính Mỹ
thậm chí cịn sụp đổ.
Ngược
lại, nhiều
cường
quốc châu Á đã trụ vững
trong cơn khủng
hoảng tài chính năm 2008 lại gần như bình an vơ sự. Những người cổ xúy cho
châu Á lập luận châu lục này đã trụ vững trên diện rộng là vì các chính phủ
đã áp dụng biện pháp can thiệp mạnh vào nền kinh tế, rót các nguồn lực nhà
nước vào những khu vực kinh tế chiến lược, giám sát và chỉ đạo các khoản
vay của ngân hàng và duy trì mối quan hệ tối mật thiết giữa chính phủ và
lãnh đạo doanh nghiệp. Hàn Quốc đã từng áp dụng chiến lược này để tạo nên
5
TN2011-3&4
những cơng ty gia đình (chaebol) khéng 16 nhu Samsung; Trung Quốc đã can
thiệp vào nền kinh tế để dựng nên những công ty khổng lồ như PetroChina,
từng một thời là cơng ty có giá trị vốn hóa thị trường lớn nhất thế giới.
Ở một số quốc gia châu Á như Trung Quốc hay Singapore chẳng hạn,
mơ hình này cịn vươn rộng sang cả địa hạt chính trị. Các chính phủ đã kết
hợp từng bước tự do hóa kinh tế và kiểm soát của nhà nước đối với những
ngành trọng điểm với thắt chặt kiểm sốt chính trị. Sự kiểm sốt này nhằm
ngăn chặn cạnh tranh chính trị phức tạp vốn gắn liền với tiến trình lập pháp
ở Hoa Kỳ và được coi là nguyên nhân cần trở công tác hoạch định các ưu tiên
quốc gia như tái kiến thiết cơ sở vật chất của nước này.
Các nhà lãnh đạo châu Á ngày càng tự tin và mạnh
dạn quảng bá cho
mơ hình can thiệp của mình cũng như chỉ trích các mơ hình của những nước
khác. Hàng năm, Trung Quốc đào tạo khoảng 15.000 quan chức nước ngoài
hầu hết là của các nước đang phát triển. Những quan chức này học hỏi các
ngun lý cơ bản trong mơ hình kinh tế và chính trị của Trung Quốc. Giới
tỉnh hoa quốc tế dường như đang nghe ngóng xem các nhà lãnh đạo từ Syria
tới Nga và Cuba
rao giảng phương thức họ sao chép và vận dụng “mơ hình
phát triển của Trung Quốc” vào nước mình.
Đồng thời, các cường quốc châu Á đã bắt đầu thử vận may ở khắp
nơi trên thế giới. Giờ đây, Ấn Độ và Trung Quốc đang thống trị đầu tư tại
nhiều khu vực ở châu Phi. Trung Quốc đã trở thành chủ nợ lớn nhất hành
tỉnh, qua mặt cả các quốc gia châu Âu và các định chế như Ngân hàng Thế
giới. Trong khi đó, các cơng ty khổng lô của Ấn Độ, Hàn Quốc, Singapore
và Trung Quốc đang hăm hở triệt hạ những tài sản hữu hình của phương
Tây bằng giá cả bèo bọt. Năm 2008, hãng ôtô khổng lỗ Tata Motors của Ấn
Độ đã mua lại Jaguar —- một công ty con của Ford; mới đây, hãng sản xuất
ôtô Geely của Trung Quốc cũng đã “nuốt chửng” Volvo — cũng thuộc sở hữu
của Ford. Quỹ đầu tư quốc gia Singapore đã rót tiền cho cơng ty đầu tư
Merrill Lynch.
Trong thực tế, châu Á hiện là động lực duy nhất của nền kinh tế thế
giới đang trong giai đoạn “thở hắt ra”. Quỹ Tiền tệ Quốc tế nhận định:
“Những nền kinh tế nổi đình nổi đám và chủ chốt của châu Á đang dẫn dắt
6
TN2011-3&4
q trình phục hồi tồn cầu”. Nếu giữ ngun lộ trình tăng trưởng, đến năm
2025, Trung Quốc sẽ qua mặt Hoa Kỳ và trở thành nền kinh tế lớn nhất thế
giới, kế đó là Ấn Độ,
Xét về phương diện nào đó, các cường quốc châu Á chỉ đang giành lại
những gì thuộc về mình. Ấn Độ, Trung Quốc và Việt Nam
nhiều Hoa Kỳ của một thời quá vãng. Nguồn nhân lực của họ
đổi dào, được đào tạo tốt và có giá rẻ (vì quy mơ lực lượng lao
tiền cơng của nam, nữ công nhân đều giảm). Đây là sự kết hợp
bại”. Một nguyên
nhân
mạnh mẽ hơn
có đặc điểm là
động làm cho
“bất khả chiến
nữa đó là một số “tay cơ” châu Á vân còn chưa giàu
mạnh (so với phương Tây), họ vẫn cịn đất để trỗi dậy chứ khơng giống một
nền kinh tế phát triển như Hoa Kỳ.
Những
người cổ xúy cho học thuyết một “châu Á đang lên” nhận thấy
các cường quốc của khu vực này cũng đã bắt đầu hợp lực cùng nhau. Được
dựng xây trên cơ sở thành công của Hiệp hội các Quốc gia châu Á (ASEAN),
châu Á đã khởi táo những định chế tương tự như Liên minh châu Âu thuở sơ
khai: các hội nghị cấp cao về tài chính trên tồn khu vực, các thỏa thuận tự
do hóa thương mại và nhóm
an ninh mới hình thành.
10 quốc gia Đông Nam
Á đã ký kết thỏa thuận với Trung Quốc nhằm tạo ra một khu vực mậu dịch
tự do lớn nhất thế giới và Đông Nam Á cũng đang trong tiến trình ký kết một
hiệp định tương tự với Ấn Độ.
Tương
quan
sức mạnh
quân
sự ở châu Á cũng đang thay đổi, những
đối thủ về kinh tế của Hoa Kỳ ngày càng được nhiều người đánh giá là đối
thủ cả trong lĩnh vực an ninh. Trung Quốc bắt đầu thách thức quân đội Hoa
Kỳ bằng việc gửi tàu ngầm tấn công để tuần tra quanh các chiến hạm Hoa
Kỳ và thử nghiệm phóng tên lửa tiêu diệt vệ tỉnh —- một nguy cơ qn sự hóa
khơng gian.
Chính quyền Bắc Kinh đang xây dựng nhiều cảng vụ từ Pakistan đến
Myanmar
nhằm
tạo ra một đội qn viễn dương có khả năng tác chiến rộng
ngồi biên giới của mình. Người ta cịn cho rằng Trung Quốc đã phát triển
năng lực tấn công tin học quy mô lớn nhằm làm tê liệt các hệ thống máy tính
của Lầu Năm Góc. Ngay cả các quốc gia nhỏ hơn ở châu Á cũng gia tăng sức
TN2011-3&4
7
mạnh vũ trang của mình — khu vực này đã sốn ngơi thị trường bn bán vũ
khí sơi động nhất thế giới của Vịnh Pécxích.
Bất ổn trong tương lai
Dẫu vậy, dự báo tương lai là một trò chơi nguy hiểm, đặc biệt là đối với
những nước đang thay đổi rất nhanh như Trung Quốc, Ấn Độ và Indonesia.
Có nhiều lý do để tin rằng các cường quốc châu Á không thể tránh khỏi bất
ổn chính trị. Bất ổn chính trị có thể dễ dàng chặn đứng đà phát triển của các
quốc gia này. Dân số Trung Quốc hiện đang bị già đi, hệ lụy của chính sách
“một con” đã kéo dài trong 30 năm, tình hình ấy khiến nước này phải đương
đầu với gánh nặng xã hội khủng khiếp trước khi đủ giàu để tạo ra hệ thống
phúc lợi xã hội trên quy mô lớn như Hệ thống An sinh Xã hội của Hoa Kỳ.
Do lực lượng lao động của Trung Quốc đang bị thu hẹp so với tổng dân
số nên mức lương sẽ tăng lên, do đó nó sẽ làm giảm đáng kể lợi thế cạnh
tranh về kinh tế của nước này. Người cao niên Trung Quốc sẽ nghỉ hưu mà
chỉ có một người con độc nhất phụng dưỡng. Điều này sẽ ảnh hưởng mạnh
đến những khoản tiết kiệm gia đình, trước sau gì chính quyền Bắc Kinh cũng
phải phát động những chương trình phúc lợi xã hội làm kiệt quệ ngân khố
quốc gia. Theo một nghiên cứu của Trung tâm Chiến lược và Nghiên cứu
Quốc tế, đến 2040, Trung Quốc sẽ có ít nhất 400 triệu người cao tuổi và hầu
hết đều khơng có lương hưu.
Các cường quốc châu Á khác cũng đang phải đối mặt với những rào cản
xã hội. Nhật Bản, quốc gia có nợ cơng vượt GDP tới 200%, cũng đang gặp
phải tình trạng dân số già tương tự như Trung Quốc. Tại Ấn Độ, Trung Quốc
và Việt Nam, do tập quán chuộng con trai và tình trạng siêu âm, phá thai để
sinh con theo ý muốn
lượng nam thanh niên
quá nhiều đàn ông độc
lớn nam giới độc thân
rất phổ biến nên tỷ lệ giới tính bị mất cân bằng, số
lớn hơn rất nhiều lần nữ thanh niên. Như đã biết, có
thân có thể làm cho tình hình vơ cùng nan giải: phần
sẽ làm phát sinh tội phạm hoặc bất ổn chính trị, hoặc
đơn giản là họ sẽ rời bỏ quê hương.
Những bóng đen bất ổn về chính trị đang che phủ khắp châu Á. Tình
trạng mất cân đối đang gia tăng với tốc độ tên lửa. Trung Quốc hiện đang
phải hứng chịu tình trạng mất cân bằng về thu nhập tổi tệ nhất Đông Á:
TN2011-3&4
8
nông dân sinh sống tại khu vực nông thôn của nước này có thu nhập dưới 300
USD/năäm, dường như ở một thế giới khác hẳn so với những đô thị hào
nhống phía Đơng và vùng dun hải phía Nam,
nơi có thu nhập bình qn
đầu người có thể đạt đỉnh 7.000 USD. Tình trạng mất cân bằng thu nhập
đang gia tăng cùng với sự xuống cấp về môi trường - hậu quả của phát triển
q nóng và hầu như khơng có kiểm sốt. Vì những chính sách “thiên vị đơ
thị” của Trung Quốc, các khu vực nông thôn đã phải hứng chịu
họa nặng nề về mơi trường. Tình trạng thiếu nước ngày càng trở
Hiện nay, đa phần vựa lúa mì ở miền Bắc Trung Quốc đang bị
dọa. Theo Ngân hàng Thế giới, nước này có 20 trong tổng số 30
những thảm
nên gay gắt.
hạn hán đe
thành phố ô
nhiễm nhất thế giới, chủ yếu là do sử dụng than đá ở quy mô lớn.
Theo thống kê do Cục An ninh Công cộng Trung Quốc tiến hành, hậu
quả
của
tình
trạng
mất
cân
bằng,
tham
nhũng
trong
chính
quyền
và các
thẩm họa sinh thái đã khiến nước này phải hứng chịu mỗi năm hàng chục
nghìn cuộc “tụ tập đơng người” (mà thực chất là biểu tình phản đối). Hầu hết
những cuộc biểu tình này đều diễn ra ở khu vực nông thôn. Trong những
năm gần đây, các cuộc biểu tình có tính bạo lực ngày càng tăng, những người
biểu tình đã tấn cơng các cơ quan của Đảng Cộng sản bằng gậy gộc, búa rìu
và bom.
Các cường quốc châu Á khác cũng gặp phải tình hình tương tự. 6 Ấn
Độ. những người nổi dậy theo chủ nghĩa Mao Trạch Đơng cịn được gọi là lực
lượng Naxalite đã tấn công các chủ đất lớn và những nhân vật của tầng lớp
thượng lưu và gây nhiều bất ổn cho khu vực phía Đơng của nước này. Chủ
nghĩa khủng bố Hồi giáo vẫn còn là mối đe dọa đáng kể cho thấy một tương
lai tiểm
ẩn
nhiều
bất ổn
sẽ lan rộng
khắp
tiểu lục địa này.
Năm
nay,
Malaysia, từng được coi là quốc gia Hồi giáo ơn hịa kiểu mẫu có số lượng các
tộc người thiểu số không theo đạo Hồi khá đông, đã phải chứng kiến hàng
loạt cuộc tấn công (kể cả bằng bom xăng) vào các nhà thờ. Do mất cân bằng,
Việt Nam và Campuchia cũng phải hứng chịu bất ổn.
Những điểm yếu về chính trị
Chế độ độc tài, cho dù ở quốc gia nào cũng hồn tồn khơng có khả
năng kiểm sốt các cuộc khủng hoảng mơi trường hoặc bất ổn chính trị. Giải
quyết thấu đáo những bất bình của dân chúng về các vấn đề môi trường và
9.
TN2011-3&4
sử dụng đất đai phải có phân quyền chính trị. Có như vậy, những người dân
địa phương mới có tiếng nói quyết định về mảnh đất của họ. Những dự án
quy mô lớn của các nhà cầm quyền châu Á như Đập Tam Hiệp của Trung
Quốc cũng đã dẫn đến sự chuyển dịch chỗ ở của hàng triệu người, thường là
họ cứ di cư mà
khơng có sự trợ giúp của địa phương — day là nguy
cơ làm
bùng phát nỗi tức giận cho nhiều thế hệ.
Những người cổ xúy cho châu Á đã tâng bốc thái quá các chế độ độc tài
của khu vực về ổn định và tăng trưởng kinh tế. Chẳng có gì chứng tổ những
kẻ chun quyền châu Á lại “giác ngộ” hơn những kẻ chuyên quyền ở những
nơi khác: nếu có một Trung Quốc, nơi cơng tác lãnh đạo thời hậu Mao Trạch
Đơng có vẻ khá ổn định và thơng minh thì cũng có một Myanmar
với chế độ
quản lý nền kinh tế từng được cho là có triển vọng nhất.
Tệ hơn, để duy trì quyền lực mà không tổ chức bầu cử theo dúng
nghĩa, nhiều quốc gia độc tài đã viện tới chủ nghĩa dân tộc đại chúng, điệu
này chỉ làm châu Á bị chia rẽ và gây bất ổn trong khu vực. Tại Trung
Quốc, chính quyền đã đề cao chủ nghĩa dân tộc bằng việc sử dụng sách
giáo khoa nói xấu Nhật Bản và phương Tây. Ở Campuchia, chính quyền đã
khích lệ tinh thần dân tộc bằng cách miệt thị người lao động nhập cư, các
nhà đầu tư và doanh nghiệp Thái Lan. Một phần hệ quả của tình trạng
này là các cuộc thăm
nay có thái độ hết sức
Penh thì tấn cơng và
xun. Chủ nghĩa dân
dị dư luận cho thấy thường dân Trung Quốc ngày
tiêu cực với Nhật Bản, còn dân Campuchia ở Phnom
phá hoại các doanh nghiệp Thái Lan khá thường
tộc kiểu này có thể dẫn đến đe dọa vũ trang hoạc
những tình trạng tơi tệ hơn.
Dù có những nỗ lực mới trong hội nhập khu vực, châu Á vẫn cịn trong
tình trạng bị chia rẽ nhiều hơn là thống nhất và hẳn là còn xa mới xây dựng
được mơ hình đồng nhất hiện có của châu Âu. Dẫu thương mại xuyên biên
giới có tăng, nhưng trong năm qua, Trung Quốc và Ấn Độ vẫn gia tăng căng
thẳng tại những khu vực tranh chấp giáp Tây Tạng. Cả hai bên đang tăng
cường lực lượng quân sự của mình ở dãy Himalaya, đồng thời xây dựng nhiều
căn cứ do thám tại các cảng thuộc Ấn Độ Dương để theo dõi các động thái của
hải quân phía bên kia. Trong khi đó, Trung Quốc và Việt Nam vẫn đụng độ lẻ
10
TN2011-3&4
tẻ ở khu vực tranh chấp trên biển Đơng cịn Bắc Triều Tiên, quốc gia theo chủ
nghĩa dân tộc cực đoan, đã tấn công tàu biển của Hàn Quốc và khơi mào đấu
pháo với quốc gia phía nam này.
Sự thực là hiếm có quốc gia châu Á nào lại hoanh nghênh người nhập
cư (Singapore là trường hợp đặc biệt ngoại lệ). Những quốc gia này cũng hậu
thuẫn chủ nghĩa dân tộc và kìm hãm khơng cho các nền kinh tế châu Á năng
động và đổi mới như Hoa Kỳ. Khác với các quốc gia phương Tây, người nước
ngoài gần như không thể nhập tịch tại Trung Quốc, Nhật Bản, Indonesia hay
Hàn Quốc. Theo lời ông Shintaro Ishihara — thị trưởng nổi tiếng của Tokyo,
một người cánh tả cực lực bài ngoại - Nhật Bản là một trong những nước
chống nhập cư và bài ngoại mạnh nhất thế giới.
Phần vì ác cảm với dòng người nhập cư, yếu tố làm hạn chế những
luồng ý tưởng mới và vốn đầu tư, phần vì sự kiểm sốt chặt chẽ của nhà
nước đối với nền kinh tế nên ngồi Nhật Bản, châu Á khơng có nhiều cơng
ty dẫn đầu thế giới, thậm chí những cơng ty có cơng nghệ mới đột phá cịn
ít hơn. Nhiều doanh nghiệp lớn nhất khu vực như hãng dầu Trung Quốc
CNOOC đều là doanh nghiệp nhà nước, được các chính sách của chính phủ
hậu thuẫn. Nhiều doanh nghiệp khác chỉ đơn giản là “gạch lát đường” cho
nền sản xuất giá rẻ đối với các hãng đa quốc gia. Chính các công ty Mỹ,
chứ không phải các đối thủ châu Á của họ, vẫn độc chiếm các bằng sáng
chế được cấp tại Hoa Kỳ, một quốc gia có nền bảo hộ bằng sáng chế uy tín
nhất thế giới.
Khơng phải mọi yếu tố phát triển của châu Á đều đe dọa Hoa Kỳ.
Một số cường quốc đang phát triển của châu Á như Ấn Độ và Indonesia có
thể trỏ thành đối tác thân thiết về thương mại, hợp tác an ninh và các
nguyên
tắc chính trị của Mỹ.
Do đang phát triển, châu
Á sẽ ít phụ thuộc
hơn vào mơ hình tăng trưởng trọng thương vốn dựa vào xuất khẩu sang
phương Tây (trong trường hợp của Trung Quốc là dựa vào giá trị thấp giả
tạo của đồng nội tệ). Bước chuyển mình đối với một nền kinh tế châu Á
dựa chủ yếu vào tiêu dùng nội địa sẽ tạo ra cơ hội cho các nhà xuất khẩu
Mỹ và làm cho cán cân thương mại giữa Hoa
bằng hơn.
Kỳ và khu vực này được cân
1
‘
TN2011-3&4
Lợi thế của Mỹ
Đến lúc này, Hoa Kỳ vẫn mặc nhiên là siêu cường của thế giới. Kinh tế
Mỹ có giá trị hơn gấp 3 lần nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Trong “Báo cáo
về tính cạnh tranh toàn cầu” - bảng xếp hạng thường niên của Diễn đàn
Kinh tế Thế giới đối với các quốc gia có thái độ cởi mở và thân thiện với doanh
nghiệp, Hoa Kỳ được xếp hạng thứ hai chỉ sau một Thụy 5ï tí hon. Mỹ cũng
vẫn là nước có năng lực huy động sức mạnh quân sự ngoài biên giới quốc gia
tốt nhất. Thực vậy, nguyên nhân chủ yếu khiến Bắc Kinh nâng cao khả năng
tấn công bằng công nghệ thông tin từ nhiều thập kỷ chính là để ngăn chặn sự
thống trị của quân đội Hoa Kỳ. Trong trường hợp có xung đột, Trung Quốc sẽ
phải viện đến chiến lược chiến tranh “bất tương quan”.
Dù nhiều học giả như Friedman cịn đang quan ngại, Hoa Kỳ hiện vẫn
là cái nơi sáng tạo của tồn cầu, thống trị những ngành cơng nghiệp mới như
cơng nghệ sinh học và năng lượng có thể tái tạo. Tình hình nhập cư của cháu
Á và thiên hướng chú trọng các chính sách cơng nghiệp có sự chỉ đạo của nhà
nước khiến các doanh nhân khởi nghiệp hoặc mở rộng các cơng ty đầu tư mạo
hiểm
gặp
nhiều
khó
khăn
hơn:
các hãng
đầu
tư mạo
hiểm
của Ấn
Độ
và
Trung Quốc thường có quy mơ nhỏ và hoạt động dè dặt, còn các quốc gia châu
Á khác như Indonesia và Thái Lan thì đều khơng có cơng ty đầu tư mạo hiểm
đúng nghĩa nào.
Ngược lại, theo một nghiên cứu của AnnaLee
Saxenian, Trường Đại
học California, phân hiệu Berkeley, những người nhập cư Trung Quốc và Ấn
Độ đã sáng lập gần một phần tư số công ty ở Thung lũng Silicon. Những rào
cần lớn của châu Á đối với người nhập cư không chỉ ngăn cản luồng ý tưởng
mới trong giới doanh nghiệp mà còn làm suy giảm những nỗ lực xây dựng các
trường đại học đẳng cấp thế giới trong khu vực này nhằm thúc đẩy di cư và
tự do trao đổi. Trong bảng xếp hạng các trường đại học tồn cầu có uy tín
nhất do Đại học Giao thông Thượng Hải liệt kê, các trường của Mỹ do dân
nhập cư đầu tư và hậu thuẫn đều thống trị “top 100”. Châu Á khơng có
trường nào lọt vào “top 10”.
Hoa Kỳ cũng vẫn dé xuất áp dụng những ý tưởng mới - những ý
tưởng về nhân quyển toàn cầu, một xã hội công bằng hơn và tự do thực thụ
12
TN2011-3&4
về kinh tế và chính trị. Khơng một cường quốc châu Á nào kể cả Trung
Quốc có thể đưa ra một tầm nhìn hồn thiện như vậy về chính trị và kinh
tế. Có thể khơng phải lúc nào nước Mỹ cũng tuân thủ những ý tưởng của
mình nhưng những ý tưởng đó vẫn thu hút được sự quan tâm. Đó là
nguyên
nhân
tai sao
các
nhà
hoạt
động
nhân
quyền
của
Myanmar,
Sri
Lanka, Uzbekistan và nhiều quốc gia châu Á khác vẫn hướng các phong
trào của họ tới cái đích đầu tiên là Washington. Nó cũng giải thích tại sao,
trong lúc các cuộc biểu tình đang
lại kêu gọi Hoa Kỳ quan
của họ. Những người biểu
vậy một số vẫn hô hào
nhằm ghi nhận sự hỗ trợ
diễn ra tại Iran, những
người tham
gia
tâm và các phản ứng đối với những hành động
tình khơng kêu gọi sự quan tâm Trung Quốc, dù `
“Theo Trung Quốc đến cùng” (Death to China)
của chính quyền Bắc Kinh đối với chính phủ hà
khắc Iran.
Có lẽ, điều quan trọng nhất là, sau hết thảy lỗi lầm của quốc gia
này,
khác.
lợi ích
thống
thế giới vẫn cịn
Chỉ Washington
chung tồn cầu:
thương mại tự
tin tưởng Hoa Kỳ hơn
là hội đủ cả khát khao
an ninh quốc tế, nhân
do và nhiều mục đích
bất kỳ một siêu cường nào
và tiềm lực để hành động vì
quyền, an tồn biển khơi, hệ
chung khác. Trung Quốc từ
chối đảm nhận vai trò bảo vệ lợi ích tồn cầu; Ấn Độ, Nhật Bản và tất cả
các cường quốc châu Á đều từ chối. Khi phát sinh những cơ hội dẫn dắt thế
giới trong các vấn đề thương mại, thay đổi khí hậu, vấn đề Iran hay Hàn
Quốc, hoặc gần đây hơn là tranh chấp chủ quyền tại biển Đơng - chính
quyền Bắc Kinh ln tuyên bố rằng nước này vẫn còn khá nghèo và do đó
khơng thể giữ vị trí chủ đạo. Trung Quốc thích chú tâm hơn đến lợi ích
quốc gia hep hoi.
Cách tiếp cận của Obama
Duy
trì thế thượng
phong của Mỹ tất nhiên là điều không
hề chắc
chắn. Tuy nhiên, Obama đã lãnh đạo đất nước đi đúng đường sau khi quốc
gia này bị trật ra khỏi quỹ đạo dưới sự dẫn đắt của người tiền nhiệm. Obama
đã tiến hành những bước đi quan trọng nhằm giải quyết khủng hoảng tài
chính quốc gia trong khi cố chứng minh trên thị trường toàn câu, điểm tựa
cho lịng tin vào đồng đơla và trái phiếu Hoa Kỳ, rằng ơng khơng có ý định
cho phép mức thâm hụt vượt quá kiểm soát.
TN2011-3&4
13
Tổng thống cũng bắt đầu xây dựng lại quyền lực mềm của Mỹ, phần
trọng yếu trong uy lực lâu dài của Hoa Kỳ, bằng cách tái đầu tư vào các định
chế quốc tế và khắc phục một số sai lầm của chính quyền Bush. Việc chấm
dứt sự có mặt của quân
đội Hoa
Kỳ tại Afghanistan
cộng với việc rút quân
khỏi Iraq cho phép Lầu Năm Góc phục hồi sức mạnh và tập trung vào những
đối thủ tiềm tàng khác. Điều này cũng tăng cường sức mạnh mềm của Mỹ bởi
vì Washington khơng còn bị cho là kẻ xâm chiếm đất đai của Hồi giáo.
Sau một thời “sao lãng” Trung Quốc và các cường quốc châu Á, Nhà
Trắng của Obama bắt đầu nhận ra và quả quyết rằng Hoa Kỳ sẽ duy trì sức
mạnh chủ yếu ở châu Á trong vài thập kỷ tới và sự hiện diện của quốc gia
này ở châu Á là nguyện vọng của nhiều nước. Hè vừa rồi, tại Diễn đàn Khu
vực ASEAN, Ngoại trưởng Hillary Clinton đã tuyên
ngại về những tuyên bố gây tranh chấp chủ quyền biển
Kỳ ủng hộ một tiến trình ngoại giao, hợp tác quốc tế
tranh chấp này — đó là lời chỉ trích đối với Trung Quốc,
quyền đối với vùng biển này.
Ngay sau đó, Washington
hạt nhân với Việt Nam.
bố Washington quan
Đơng và cho hay Hoa
nhằm giải quyết các
quốc gia tuyên bố chu
đã tiến hành một chương trình hợp tác về
Chính quyền Obama
đang chú trọng vào quan hệ an
ninh ngày càng gần gũi với Việt Nam, ở một chừng mực nào đó là đối trọng
với sức mạnh của Trung Quốc. Hơn nữa, Nhà Trắng đã nhấn mạnh tại nhiều
diễn đàn công khai và diễn đàn kín là các quốc gia Đơng Nam Á mong muốn
quân đội Mỹ tiếp tục hiện diện trong khu vực và đánh giá Hoa Kỳ là người
trung gian “trung thực” hơn Trung Quốc trong giải quyết các vấn đề tranh
chấp của khu vực.
Thậm chí, sau một năm điều hành quốc gia, chính quyền Obama đã tỏ
ra ít “nể
Obama
nang”
hơn
trong
quan
hệ trực
tiếp
với
khơng nhận được sự hợp tác như mong
Bắc
muốn
Kinh.
Chính
quyển:
từ phía Trung Quốc
trong các vấn đề như biến đổi khí hậu hay vấn đề Iran. Nhà Trắng ngày càng
nhận ra vị thế toàn cầu của Mỹ khơng hề yếu kém như họ hình dung.
Trong năm đầu điều hành đất nước, chính quyền Obama đã để các
quan chức Trung Quốc chủ động sắp lịch làm việc của Tổng thống trong
chuyến thăm Trung Quốc vào hổi mùa thu năm
2009 và chịu nhượng bộ
14
TN2011-3&4
trước áp lực của Bắc Kinh, không gặp gỡ đức Dalai Lama
Tây Tạng này có mặt ở Washington. Tuy nhiên, năm
khi nhà lãnh đạo
2010, chính quyền Hoa
Kỳ đã tiến hành sáng kiến mới nhằm thúc đẩy tự do internet với chủ định là
nhắm tới Trung Quốc (và những người Trung Quốc bày tỏ chính kiến bất
đồng trên mạng). Washington dè chừng Trung Quốc trên biển Đơng. Cuối
cùng, chính quyền Obama cũng gặp gỡ Dalai Lama. Tiếp theo là thương vụ
bán khí tài qn sự trị giá 6 tỷ đơ la cho Đài Loan,
điều này làm
Bắc Kinh
phải điên đầu. Trong chuyến công du châu Á tháng 11 năm 2010, Obama đã
không đến Trung Quốc mà lại thăm các quốc gia dân chủ khác, đây là một
hành động đối đầu với Bắc Kinh.
Một số quan chức Trung Quốc đã kín đáo cảnh báo rằng, để tình trạng
căng thẳng như vậy xảy ra, Washington sẽ tự làm hại mình trong dài hạn vì
Trung Quốc, khi trở nên hùng mạnh hơn, sẽ không bao giờ quên một cường
quốc mới nổi đã từng bị đối xử ra sao. Nhưng giờ đây, Trung Quốc đang thiếu
đồng mỉnh thực sự tại châu Á, ngay cả khi Mỹ yếu thế. Tình hình ấy đã ghìm
thế thượng phong của cường quốc châu Á này.
Người dịch: TƠN QUANG HỊA
VIỆN THÔNG TIN KHOA HỌC XÃ HỘI
26 Lý Thường Kiệt, Hà Nội * Tel: 38253074 - 38264243
TÀI LIỆU
PHỤC VỤ NGHIÊN CỨU
(LƯU HÀNH NỘI BỘ )
số:
TN 2011 — 65
HÀ NỘI - 2011
CHAU A VE LAI BAN Đ PHÁT TRIỂN
JOERGEN OERSTROEM MOELLER’. Asia
Redraws
The Map
of Progress. The
Futurist, Sep/Oct 2010.
C
án cân quyền lực kinh tế, nếu khơng nói là chính trị, đang dich
chuyển từ Tây sang Đông. Một nhà ngoại giao kiêm học giả cho rằng,
nếu châu Á trỗi dậy trước những thách thức mà sự chuyển
dịch sức
mạnh này mang lại, nó sẽ khơng phải cạnh tranh với những giá trị mang
tính hủy hoại và thực dụng hơn của xã hội cơng nghiệp hóa.
Trong 30 năm qua, các cơ hội hiếm có để tăng trưởng kinh tế cao và
liên tục đã đến với châu Á và các nhà hoạch định chính sách đón nhận triệt
* Joergen Oerstroem Moeller là cựu đại sứ Đan Mạch tại Singapore, Brunei Darussalam,
Australia và New Zealand. Hiện ông là nghiên cứu viên cao cấp tại Viện Nghiên cứu Đông
Nam Á, Singapore; giáo sư trợ giảng ở trường Đại học Quản lý Singapore và Copenhagen
Business School; và thành viên của Hội đồng Tư vấn Toàn cầu thuộc Hiệp hội World Future.
www.oerstroemmoeller.com; E-mail:
2
TN2011-65
để những cơ hội này. Tăng trưởng toàn cầu cao, giá cả hàng hóa thấp, và
Trung Quốc trở thành nhà sản xuất hàng đầu thế giới nhờ lực lượng lao động
đang tăng lên. Trong khi đó, khơng có nhiều sức ép để phải lưu ý tới những
cảnh báo về môi trường. Thách thức chính sách đối với các nhà lãnh đạo
chính trị châu Á chủ yếu là quản lý tăng trưởng kinh tế.
Tất cả điều đó đang thay đổi. Tăng trưởng tồn cầu đang chậm lại, giá
cả hàng hóa được dự đoán tiếp tục tăng và các nguồn cung dầu mỏ đang
giảm. Các nguồn năng lượng thay thế rất sẵn nhưng phụ thuộc vào giá cả.
Bắt đầu từ năm 2015, lực lượng lao động ở Trung Quốc sẽ thu hẹp nhưng lại
tiếp tục tăng lên ở Nam Á. Các vấn đề về mơi trường địi hỏi phải có thêm
nhiều nguồn lực và nước Mỹ có thể khơng cịn được xem như một cường quốc
ổn định. Thực tế, nguy cơ từ những căng thẳng giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ
đang đẩy cỗ máy tăng trưởng và thương mại Thái Bình Dương vào tình trạng
rắc rối. Bởi vậy, việc tạo ra các điều kiện cho tăng trưởng kinh tế trở thành
một thách thức chính sách - và đó là một tình huống hồn tồn mới.
Châu Á khơng thể làm gì khi thiếu tăng trưởng kinh tế. Trong vài
thập kỷ trước đó, một phần lớn dân số đã trở nên quen với mức sống tăng lên
gần như thường xuyên, vốn được xem là một loại quyền theo lệ định. Nhiều
chế độ chính trị nhận thấy rằng tính chính thống của họ trong cách nhìn
nhận của người dân nước họ phụ thuộc vào sự thịnh vượng không ngừng tăng
lên. Nhưng thành phần nhân khẩu học đang thay đổi, với ngày càng có nhiều
người cao tuổi đòi hỏi thêm chế độ phúc lợi, lương hưu cao hơn, chăm sóc y tế
tốt hơn. Các khoản đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng là cần thiết, nhưng lại hồn
tồn khơng có ở Nam Á, khu vực được dự tính sẽ thay thế Trung Quốc trở
thành 'xưởng sản xuất sử dụng nhiều lao động với chi phí thấp tiếp theo.
Trong khi đó, đầu tư cho nghiên cứu và công nghệ đang trở nên tốn kém hơn
khi châu Á chuyển từ bắt kịp phương Tây sang tìm kiếm những đột phá mới
— một công việc tốn kém và nhọc nhằn hơn so với việc chỉ đơn thuần là cải
tiến cơng nghệ hiện có.
Các ngun tắc cơ bản yếu hơn sẽ buộc châu Á phải tìm kiếm một mơ
hình tăng trưởng khác thay cho mơ hình tiêu thụ đại trà của nước Mỹ và
châu Âu. Nếu mơ hình này thành cơng thì sẽ dẫn đến sự bùng nổ của các xã
TN2011-65
3
hội châu Á khi các nguồn tài nguyên thiên nhiên khơng cịn sẵn có nữa. Mơ
hình tiêu thụ đại trà cho vài trăm triệu dân ở phương Tây không thể cố mở
rộng cho khoảng 1 đến 2 tỷ người được. Cần phải tìm ra một giải pháp, và đó
chính là nhận thức về tăng trưởng kinh tế, điều sẽ giúp người dân cảm thấy
mức sống của họ đang được cải thiện.
Trong vòng 200 năm qua, thế giới đã sống và sống tốt với những gì có
thể được gọi là chủ nghĩa tư bản kiểu Mỹ, mơ hình phát huy ưu thế tối đa
trong thế kỷ XX. Đây là sự kết hợp giữa các yếu tố kinh tế và chính trị 'ăn
khóp' với nhau một cách tuyệt vời. Châm
ngơn của Adam
Smith, rằng việc
mưu cầu thịnh vượng của các cá nhân hợp lại thành sự phồn thịnh cao hơn
của toàn xã hội, bởi sự phồn thịnh của xã hội là quá trình tích lũy thịnh
vượng của các cá nhân, đã được chứng minh là rất đúng.
Việc dễ dàng tiếp cận các nguồn tài nguyên thiên nhiên tạo ấn tượng
rằng chúng là vô hạn. Giao thông vận tải mở ra các thị trường mới, cho phép
tiếp cận các nguyên liệu thô mà cho đến nay vẫn nằm ngồi tầm với. Cơng
nghệ giúp nâng cao năng suất, giữ lạm phát trong tầm kiểm soát. Tăng dân
số thúc đẩy nền kinh tế. Mơ hình quốc gia-dân tộc (nation-state) có vai trị
như khn khổ và cơ chế chính trị cho việc phân phối và như cơ sở hạ tầng
hành chính cho tăng trưởng cơng nghiệp.
Châu Á chấp nhận thế giới quan này ở đỉnh cao uy thế của nó trong
suốt nửa sau thế kỷ XX. Sự vươn lên của các nền kinh tế châu Á chủ yếu dựa
vào việc sử dụng mơ hình phương Tây này như một kim chỉ nam hướng tới
tăng trưởng.
Khơng gì ấn tượng hơn sự nhảy vọt của châu Á trong hệ thống kinh tế
chính trị tồn cầu được hình thành sau năm
1945. Hệ thống này khơng thực
sự mang tính tồn cầu, mà là một cơ cấu mang tính thể chế được vạch ra để
thúc đẩy ưu thế vượt trội của Mỹ và bảo đảm những lợi ích của Mỹ trên tồn
cầu. Hệ thống này hoạt động bởi mơ hình nước Mỹ được cho là hấp dẫn và,
trong cách nhìn nhận của đại đa số, đã tự chứng minh cho chính nó. Khơng
có gì lạ rằng sự “đồng thuận Washington” gắn với mơ hình kinh tế thị trường
tự do kiểu Mỹ đã được hình thành vào cuối thế kỷ XX và được hai thể chế
kinh tế toàn cầu hàng đầu là Quỹ tiền tệ Quốc tế ME) và Ngân hàng Thế
giới (WB) chấp nhận.
TN2011-65
4
Hiện nay, khi châu Á đang dần trở thành tổ chức quyền lực về kinh
tế mang tính tồn cầu, người ta bắt đầu nhận ra rằng, mơ hình này đã và
đang là một mơ hình phương Tây, phù hợp với châu Âu và Hoa Kỳ, nhưng
khơng
có khả
nhiều
thành
năng
tựu
duy
bằng
trì sự phát
cách
ganh
triển tồn
đua
với mơ
cầu.
Châu
Á đã
hình
ấy và
vay
đạt được
mượn
các
ngun tắc của nó. Tuy nhiên hiện nay, cần phải giải quyết những thách
thức ghê gớm không hề ghi lại trong sách giáo khoa về chủ nghĩa tư bản
kiểu Mỹ. Tóm lại, châu Á phải tìm kiếm và phát triển con đường riêng cịn
ở phía trước của mình; châu lục này phải phát minh ra một mơ hình kinh
tế- xã hội mới.
Nhân khẩu học châu Á và mơ hình kinh tế mới
Trong 25 năm
tới, các yếu tố nhân khẩu học sẽ mang
lại những thay
đổi mạnh mẽ và những thách thức to lớn cho toàn châu Á.
Trước tiên là ba nhóm quốc gia nổi lên: (1) các nước với dân số giảm
xuống, bao gồm Nhật Bản (vẫn là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới), Hàn Quốc
và một vài nước khác; (2) các nước với dân số giảm dần và giữ nguyên (nhất
là Trung Quốc); và (3) các nước với dân số đang tăng, bao gồm Ấn Độ,
Pakistan, Bangladesh, Việt Nam, Indonesia và Philippines.
Sự khác biệt về nhân khẩu học không phải là công thức cho sự ổn
định. Về kinh tế, nó gần như chắc chắn đã bắt đầu q trình chuyển giao
sản xuất với chỉ phí thấp, sử dụng nhiều lao động từ Trung Quốc sang các
quốc gia có dân số tăng lên đang kêu gọi đầu tư để cung cấp trang thiết bị
và cơ sở cho các ngành công nghiệp mới; Trung Quốc sẽ trải qua bước hốn
chuyển từ sản xuất với chỉ phí thấp sang sản xuất với giá trị gia tăng, gây
ra những căng thẳng cho hệ thống giáo dục. Trên hết, có một câu hỏi nhạy
cảm được đặt ra là liệu những cơng nhân có tay nghề có được phép di cư
sang các nước nơi họ được trả mức lương cao nhất hay không. Nếu được
phép, năng suất sẽ tăng lên; nếu khơng, năng suất sẽ bị kìm hãm, và những
hận thù từ nhân tố sắc tộc và/hoặc tơn giáo có thể bùng phát. Chỉ ít lâu nữa
sẽ thấy điểm báo đầu tiên của những vấn đề này, khi lực lượng lao động
Trung Quốc bắt đầu thu hẹp vào năm 2015 và tiếp đó là quy mơ tổng dân số
trong giai đoạn 2025 và 2030.
5
TN2011-65
Thứ hai, số người trong độ tuổi trên 65 sẽ tăng đáng kế ở Trung
Quốc. Tình trạng số người già tăng lên nhanh chóng, điều đã từng xảy ra
tại Nhật
Bản,
sẽ tạo áp lực lớn lên xã hội và đòi hỏi có các dịch vụ hiện
chưa được cung cấp ở hệ thống xã hội hiện tại. Ngày nay, xã hội Trung
Quốc mặc định là gia đình chăm sóc những người lớn tuổi. Sự sắp xếp này
vận hành ổn thỏa trong một thời gian đài, nhưng hiện nay với mơ hình gia
đình hạt nhân nhỏ hơn và nhiều người độc thân hơn, thế hệ trẻ khơng cịn
sẵn sàng gánh vác gánh nặng này nữa. Trên thực tế, tỷ lệ tiết kiệm ở
Trung Quốc tiếp tục đạt hơn 40% cho thấy người dân mong muốn tự chỉ
trả cho phúc lợi xã hội. Tuy nhiên, vấn đề cịn sâu xa hơn: người dân có thể
thanh tốn được các khoản dịch vụ, nhưng phải có ai đó cung ứng các dịch
vụ - là khu vực công hay các tổ chức tư nhân.
Việc đáp ứng yêu cầu này
đòi hỏi những khoản đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng và đào tạo nhân lực để
vận hành
các nhiệm
vụ chăm
sóc đó. Cho đến nay, những
cơng tác chuẩn
bị đó chỉ mới chớm bắt đầu.
Thứ ba, sự khác biệt về khả năng sinh sản giữa các nhóm sắc tộc và
tơn giáo sẽ thay đổi cơ cấu dân số châu Á. Trong vịng 2ð năm tới, người
Trung Quốc sẽ ít hơn, nhưng lại có nhiều người Ấn và Mã Lai hơn. Sẽ có
nhiều người Hồi giáo và Ấn giáo hơn, và một phần nhỏ hơn là những tôn giáo
và triết lý bắt nguồn từ nền văn hoá Trung Quốc. Bộ phận người Hồi giáo sẽ
có bước phát triển đáng kể nhất. Trên toàn cầu, người Hồi giáo đã tăng từ
16,5% năm
1980 lên 19,2% năm 2000 và được dự báo sẽ tăng lên tới 30% vào
năm 2025. Bởi có 69% người Hồi giáo trên thế giới sống ở châu Á, nên chắc
chắn có thể kết luận rằng bộ phận người Hồi giáo sẽ tăng lên. Tác động có thể
thấy rõ nhất ở Ấn Độ, nơi 13,4% dân số hiện nay theo đạo Hồi, nhưng tập
trung ở phía Bắc nước này. Có thể hiểu được rằng, vào một thời điểm nào đó
từ nay đến năm 2040, một hoặc một số bang của Ấn Độ sẽ có đa số người Hồi
giáo và do người Hồi giáo điều hành.
Điều này không nhất thiết đồng nghĩa rằng nhiều vấn đề sẽ nảy
sinh, nhưng nếu vẫn tiếp tục xu hướng các tôn giáo áp đặt sự kiểm sốt
mạnh mẽ hơn đối với các khn mẫu hành vi thì những căng thẳng giữa
các nhóm sắc tộc trong lịng quốc gia và giữa các quốc gia có thể sâu sắc
hơn.