Tải bản đầy đủ (.pdf) (162 trang)

Luận văn lễ hội dân gian và phát triển du lịch tại thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.05 MB, 162 trang )

1

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU…… ....................................................................................................................... 4
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................... 4
2. Mục đích nghiên cứu..................................................................................................... 5
3. Tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................................................... 6
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 8
5. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................................... 9
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn..................................................................................... 12
7. Bố cục luận văn ........................................................................................................... 12
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ KHAI THÁC ....................................... 13
LỄ HỘI DÂN GIAN CHO MỤC ĐÍCH DU LỊCH .......................................... 13
1.1. Các khái niệm và quan niệm: ........................................................................................ 13
1.1.1.

Lễ hội dân gian: ................................................................................................. 13

1.1.2.

Tổ chức lễ hội: ................................................................................................... 15

1.1.3.

Khai thác lễ hội cho mục đích du lịch: .............................................................. 16

1.1.4.

Du lịch: .............................................................................................................. 18


1.1.5.

Tài nguyên du lịch: ............................................................................................ 19

1.1.6.

Sản phẩm du lịch: .............................................................................................. 20

1.2.

Một số vấn đề lý luận về tổ chức và khai thác lễ hội dân gian cho mục đích du
lịch: ................................................................................................................... 21

1.2.1.

Vai trị, chức năng của lễ hội dân gian: ............................................................. 21

1.2.2.

Các giá trị văn hóa của lễ hội dân gian:............................................................. 24

1.2.3.

Cơng tác tổ chức, khai thác và quản lý lễ hội dân gian phục vụ cho mục đích du
lịch: ................................................................................................................... 26

1.2.4.

Du lịch lễ hội: .................................................................................................... 27


1.2.5.

Mối quan hệ giữa lễ hội và du lịch: ................................................................... 31

1.2.6.

Quản lý lễ hội trong phát triển du lịch:.............................................................. 33

Tiểu kết chƣơng 1 ................................................................................................................ 36


2

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ KHAI THÁC LỄ HỘI DÂN GIAN TRONG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 20052013................................................................................................................... 37
Khái quát về TP. Hồ Chí Minh: ........................................................................ 37

2.1.
2.1.1.

Lịch sử hình thành: ............................................................................................ 37

2.1.2.

Khái quát về tự nhiên: ....................................................................................... 39

2.1.3.

Khái quát về kinh tế - xã hội: ............................................................................ 41
Thực trạng tổ chức và khai thác các lễ hội dân gian chủ yếu trong phát triển du


2.2.

lịch ở TP. Hồ Chí Minh: ................................................................................... 44
2.2.1.

Khái quát về lễ hội dân gian ở TP. Hồ Chí Minh: ............................................. 44

2.2.2.

Thực trạng tổ chức và khai thác một số lễ hội dân gian chủ yếu trong hoạt động
du lịch ở TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2005-2013: ............................................ 48

2.2.3.

Tác động của du lịch đến các lễ hội dân gian : .................................................. 74

2.2.4.

Đánh giá chung về thực trạng tổ chức và khai thác lễ hội dân gian trong phát
triển du lịch ở TP. Hồ Chí Minh: ...................................................................... 76

Tiểu kết chƣơng 2 ................................................................................................................ 79
Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG TỔ CHỨC, KHAI THÁC LỄ HỘI DÂN GIAN TRONG ...... 80
PHÁT TRIỂN DU LỊCH Ở TP. HỒ CHÍ MINH ĐẾN NĂM 2020 VÀ CÁC
GIẢI PHÁP THỰC HIỆN .................................................................................. 80
3.1.

Định hƣớng tổ chức và khai thác lễ hội dân gian trong phát triển du lịch ở TP.
Hồ Chí Minh: .................................................................................................... 80


3.1.1.

Cơ sở đề xuất định hƣớng:.............................................................................. 80

3.1.2.

Định hƣớng: .................................................................................................... 83

3.2.

Các giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức, khai thác lễ hội dân gian để phát triển
du lịch tại TP. Hồ Chí Minh: ............................................................................ 86

3.2.1.

Nhóm giải pháp về tổ chức, quản lý: .............................................................. 86

3.2.2.

Nhóm giải pháp về đầu tƣ: ............................................................................. 89

3.2.3.

Nhóm giải pháp về đa dạng hóa và nâng cao chất lƣợng sản phẩm du lịch: .. 91

3.2.4.

Nhóm giải pháp về tuyên truyền quảng bá và xúc tiến du lịch: ..................... 92


3.2.5.

Nhóm giải pháp về thanh, kiểm tra: ............................................................... 93

Tiểu kết chƣơng 3 ................................................................................................................ 95


3

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ............................................................................................. 96
1. Kết luận : ..................................................................................................................... 96
2. Kiến nghị: .................................................................................................................... 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 100
PHỤ LỤC...........................................................................................................................105


4

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nền Văn hóa Việt Nam đƣợc hình thành và phát triển gắn liền với lịch sử
dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc. Nền văn hóa đó là sản phẩm của sự sáng tạo,
quy tụ những giá trị tinh túy có sức sống trƣờng tồn và bền vững cùng thời gian của
bao thế hệ ngƣời Việt. Việt Nam có một nền văn hóa phong phú và đa dạng từ
phong tục, tín ngƣỡng, tơn giáo đến lễ hội, ngôn ngữ, văn học, nghệ thuật đặc trƣng
của từng vùng miền, tộc ngƣời khác nhau trên khắp cả nƣớc, trong đó lễ hội là một
trong các loại hình di sản văn hóa phi vật thể, là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch
sử, văn hóa, khoa học; là kho tàng phong phú về đời sống tinh thần, phản ánh quá
trình lao động, chiến đấu bảo vệ đất nƣớc và những sự kiện lịch sử trọng đại. Lễ hội
ln hƣớng tới đối tƣợng thiêng, là hình ảnh hội tụ những phẩm chất cao đẹp trong

việc xây dựng, chống ngoại xâm, trong sự nghiệp giáo dục, truyền nghề, chống các
thế lực xấu, chữa bệnh, cứu ngƣời... giúp con ngƣời tạo dựng cuộc sống vui vẻ, ấm
no và hạnh phúc.
Lễ hội dân gian là một loại hình sinh hoạt văn hóa mang tính cộng đồng cao,
là nơi lƣu giữ những tín ngƣỡng, tơn giáo, nơi phản ánh tâm thức con ngƣời Việt
Nam trong quá trình dựng nƣớc và giữ nƣớc, q trình thích ứng với mơi trƣờng
sinh hoạt và giao lƣu văn hóa. Những giá trị văn hóa đó biểu hiện trong lễ hội làng
qua tín ngƣỡng thờ cúng thần Thành hoàng, thờ cúng tổ tiên, thờ cúng tổ nghề...
mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Bên cạnh đó, lễ hội dân gian cịn lƣu giữ nhiều
sinh hoạt văn hố, văn nghệ đặc sắc có sức lơi cuốn đông đảo tầng lớp nhân dân
tham gia, và trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tinh thần và tình cảm
của ngƣời Việt.
Trong các dạng tài nguyên nhân văn, lễ hội dân gian là tài nguyên có giá trị
phục vụ du lịch rất lớn. Lễ hội dân gian là một hình thức sinh hoạt tổng hợp bao
gồm các mặt tinh thần và vật chất, tơn giáo tín ngƣỡng và văn hoá nghệ thuật, linh
thiêng và đời thƣờng… là một sinh hoạt có sức hút một số lƣợng lớn những hiện


5

tƣợng của đời sống xã hội. Ngày nay, du lịch ngày càng chú trọng khai thác nguồn
tài nguyên quý giá này để tạo ra những sản phẩm du lịch đặc thù của mỗi vùng
miền, mỗi quốc gia.
Lễ hội dân gian tại Thành phố Hồ Chí Minh (TP. Hồ Chí Minh) diễn ra
quanh năm, thu hút một lƣợng lớn du khách và ngƣời dân địa phƣơng tham dự. Các
lễ hội này đƣợc xem là một sản phẩm văn hoá đặc biệt và là nguồn tài nguyên du
lịch quý giá bên cạnh hệ thống các di tích cách mạng, bảo tàng, nhà hát, các cơng
trình kiến trúc cổ,... là những điểm đến quen thuộc đƣợc du khách u thích. Vì vậy,
việc tổ chức các hoạt động du lịch dựa vào những sản phẩm văn hóa, phong tục tập
qn, tín ngƣỡng,... nhằm giới thiệu hình ảnh về đất nƣớc, con ngƣời Việt Nam,

giới thiệu các giá trị về văn hố, tín ngƣỡng của lễ hội, tính dân tộc và tính phổ quát
của lễ hội, là một hƣớng đi hiệu quả nhằm tạo sức hút đối với du khách trong và
ngồi nƣớc, góp phần phát triển bền vững ngành du lịch của Thành phố.
Trong xu thế hội nhập quốc tế và tốc độ đô thị hóa ngày càng cao thì lễ hội
nói chung và lễ hội dân gian nói riêng đang đặt ra nhiều thách thức cho cơng tác gìn
giữ, bảo tồn tín ngƣỡng, sinh hoạt văn hóa dân gian trong lễ hội, đồng thời phát huy
đƣợc giá trị của văn hóa dân gian để phát triển du lịch trên cả nƣớc nói chung và ở
TP. Hồ Chí Minh nói riêng. Trong bối cảnh đó, tơi chọn đề tài “Lễ hội dân gian và
phát triển du lịch tại TP. Hồ Chí Minh hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp Cao học
của mình với hy vọng góp phần nhất định vào việc phát huy giá trị văn hóa của lễ
hội dân gian đối với sự phát triển du lịch của TP. Hồ Chí Minh trong những năm
tới.
2. Mục đích nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng công tác tổ chức và khai thác lễ hội dân
gian trong hoạt động du lịch tại TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2005-2013, đề xuất định
hƣớng và các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả công tác tổ chức và khai
thác lễ hội dân gian để phát triển du lịch trên địa bàn Thành phố từ nay đến năm
2020.


6

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt đƣợc mục tiêu trên, đề tài tập trung thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Tổng quan cơ sở lý luận về lễ hội dân gian và khai thác lễ hội dân gian
trong hoạt động du lịch.
- Đánh giá giá trị văn hóa của các lễ hội dân gian chủ yếu ở TP. Hồ Chí Minh
cho mục đích du lịch.
- Phân tích thực trạng tổ chức và khai thác lễ hội dân gian trong hoạt động du

lịch trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2005-2013.
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức và khai thác
các lễ hội dân gian cho mục đích du lịch ở TP. Hồ Chí Minh đến năm 2020 và các
biện pháp thực hiện.
3. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Lễ hội là một sinh hoạt văn hóa tổng hợp bao gồm các mặt vật chất và tinh
thần, tơn giáo tín ngƣỡng và văn hóa nghệ thuật, thiêng liêng và đời thƣờng. Lễ hội
là sinh hoạt có quy mơ lớn về tầm vóc, có sức cuốn hút đông đảo công chúng và là
những hiện tƣợng nổi bật trong xã hội.
Trong những năm qua, có nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề
nghiên cứu. Có thể kể đến một số cơng trình sau:
- “Lễ hội trong đời sống xã hội hiện đại ở Thành phố Hồ Chí Minh” của Lê
Văn Thanh Tâm (1997), Luận văn thạc sĩ, Trƣờng Đại học Văn hóa Hà Nội.
Luận văn nghiên cứu tổng thể về hoạt động lễ hội ở TP. Hồ Chí Minh với
các loại hình cụ thể diễn ra trong đời sống hiện đại, trong đó tác giả đi sâu nghiên
cứu về các lễ hội hiện đại trong thời kỳ đổi mới hiện nay của đất nƣớc.
- “Di sản văn hóa với hoạt động du lịch - Trường hợp Thành phố Hồ Chí
Minh” của Trần Thị Vui (2005), Luận văn thạc sĩ, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh.
Luận văn đã nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về di sản văn hóa, mối
quan hệ giữa di sản văn hóa với hoạt động du lịch, vai trị của di sản văn hóa với
hoạt động du lịch và nghiên cứu cụ thể trƣờng hợp điển hình tại TP. Hồ Chí Minh


7

từ năm 1975 đến 2005. Luận văn không nghiên cứu cụ thể về các di sản văn hóa phi
vật thể.
- “Di tích lịch sử - văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh” của Cao Tự Thanh
(2007), Nxb Tổng hợp, Tp. Hồ Chí Minh:

Tài liệu đƣợc trình bày dƣới dạng hỏi - đáp tìm hiểu tổng quan về di tích lịch
sử, di tích kiến trúc lịch sử, di tích kiến trúc nghệ thuật của TP. Hồ Chí Minh, phần
trả lời tập trung vào lịch sử, quá trình hình thành và giá trị của di tích. Tài liệu cũng
nêu đặc điểm của các di tích lịch sử - văn hóa ở TP. Hồ Chí Minh, tầm quan trọng
của việc bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa này. Tài liệu khơng đề
cập đến nội dung lễ hội diễn ra tại các di tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn nghiên
cứu.
- “Khai thác lễ hội và các sự kiện góp phần phát triển du lịch tại Thành phố
Hồ Chí Minh” của Huỳnh Quốc Thắng (2007), Nxb Trẻ, Hà Nội.
Tác giả tập trung nghiên cứu về công tác khai thác các sự kiện và các loại
hình lễ hội gắn với phát triển du lịch tại TP. Hồ Chí Minh nói riêng và phát triển du
lịch Việt Nam nói chung, trong đó có loại hình lễ hội dân gian. Đây là cơng trình
đầu tiên của thành phố nghiên cứu về vấn đề khai thác lễ hội góp phần phát triển du
lịch.
- “Đình ở Thành phố Hồ Chí Minh” của Hồ Tƣờng (2005), Nxb Trẻ, Tp. Hồ
Chí Minh:
Nội dung cuốn sách là tập hợp những kiến thức thực tế cũng nhƣ từ thƣ tịch,
nhằm giới thiệu những thơng điệp ẩn chứa trong các ngơi đình qua kiến trúc, tín
ngƣỡng,... đƣợc xem là bản sắc văn hóa độc đáo của các ngơi đình trên địa bàn
Thành phố. Tài liệu cũng nghiên cứu cụ thể về nghi lễ trong Lễ hội Kỳ yên và một
số nghi lễ cúng khác tại Đình, đồng thời trình bày sự tác động của Đình trong đời
sống văn hóa ở TP. Hồ Chí Minh.
- “Tiềm năng văn hóa du lịch Thành phố Hồ Chí Minh” của Nguyễn Văn
Quế. (1998), Luận văn thạc sĩ, Trƣờng Đại học Văn hóa Hà Nội.


8

Luận văn nghiên cứu đặc điểm văn hóa lịch sử Tp. Hồ Chí Minh, tiềm năng
du lịch cũng nhƣ vấn đề khai thác các giá trị văn hóa của Tp. Hồ Chí Minh phục vụ

phát triển du lịch, khơng nghiên cứu sâu về loại hình lễ hội dân gian.
- “Giáo trình quản lý di sản văn hóa với phát triển du lịch” của Lê Hồng Lý
chủ biên (2010), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
Tác giả nhìn từ góc độ văn hóa lý luận chung để nghiên cứu sản phẩm du
lịch, xác định và nội dung quản lý di sản văn hóa với phát triển du lịch, cũng nhƣ
quy trình tổ chức và quản lý di sản văn hóa với phát triển du lịch, trong đó có lại
hình lễ hội nhƣng nghiên cứu sâu về loại hình lễ hội dân gian với phát triển du lịch.
- “Giáo trình quản lý lễ hội và sự kiện” của Cao Đức Hải chủ biên (2009),
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
Giáo trình đề cập những vấn đề cơ bản liên quan đến quản lý nhà nƣớc đối
với hoạt động lễ hội và sự kiện, đặc biệt tập trung phân tích các khía cạnh của việc
quản lý lễ hội phù hợp với chính sách văn hóa Việt Nam; quy trình quản lý một dự
án tổ chức lễ hội và sự kiện.
Nhìn chung, các cơng trình trên đều nghiên cứu về các di tích hoặc lễ hội cụ
thể, khơng nghiên cứu khái quát về lễ hội dân gian tại TP. Hồ Chí Minh. Vì vậy, tác
giả đã chọn đề tài “Lễ hội dân gian và phát triển du lịch tại Thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay” để nghiên cứu về lễ hội dân gian ở TP. Hồ Chí Minh nói chung và
việc tổ chức và khai thác loại hình lễ hội này phục vụ phát triển du lịch trên địa bàn
Thành phố.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Các lễ hội dân gian chủ yếu ở TP. Hồ Chí Minh và thực trạng tổ chức khai
thác, quản lý các lễ hội này trong hoạt động du lịch trên địa bàn Thành phố.
4.1. Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: Các lễ hội dân gian chủ yếu trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh.
- Về thời gian:


9


+ Phân tích thực trạng lễ hội dân gian tại TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 20052013.
+ Đề xuất định hƣớng và các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tổ chức và
khai thác lễ hội dân gian cho mục đích du lịch ở TP. Hồ Chí Minh đến năm 2020.
- Về nội dung: đề tài tập trung nghiên cứu việc tổ chức và khai thác lễ hội
dân gian trong hoạt động du lịch, không mở rộng sang các lễ hội hiện đại cũng nhƣ
không nghiên cứu sâu về cơng tác quản lý di sản văn hóa nói chung và quản lý lễ
hội nói riêng.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Quan điểm nghiên cứu:
5.1.1. Quan điểm tổng hợp:
Trong nghiên cứu lễ hội nói chung và lễ hội dân gian phục vụ phát triển du
lịch nói riêng, việc vận dụng quan điểm tổng hợp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Các sự vật hiện tƣợng của thế giới khách quan luôn có quan hệ mật thiết với nhau
bằng các mối quan hệ tác động, ảnh hƣởng, liên kết, chuyển hoá, thúc đẩy lẫn nhau
rất phức tạp. Các lễ hội dân gian ở TP. Hồ Chí Minh rất phong phú, đa dạng và có
q trình hình thành, phát triển trong mối quan hệ đa chiều. Vì vậy, ngƣời nghiên
cứu phải xem xét các sự vật hiện tƣợng đƣợc nghiên cứu trong mối quan hệ tác
động qua lại giữa chúng, tránh tách rời hoặc xem xét chúng một cách riêng lẻ.
5.1.2. Quan điểm lịch sử:
Vận dụng quan điểm lịch sử trong nghiên cứu cho phép đánh giá chính xác
q trình vận động của sự vật hiện tƣợng từ quá khứ đến hiện tại để từ đó dự báo về
tƣơng lai của chúng. Quan điểm này đòi hỏi khi nghiên cứu sự vật hiện tƣợng phải
đặt chúng trong một không gian và thời gian cụ thể để xem xét theo một trình tự
liên tục và nhiều mặt, làm rõ điều kiện và đặc điểm phát sinh, phát triển của chúng,
đồng thời làm sáng tỏ các mối liên hệ đa chiều với các sự vật, hiện tƣợng khác trong
suốt quá trình phát triển của chúng.


10


5.1.3. Quan điểm phát triển bền vững:
Phát triển bền vững đã trở thành xu hƣớng và mục tiêu phát triển của tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội hiện nay. Đối với việc nghiên cứu các hiện tƣợng
kinh tế xã hội, phát triển bền vững có thể đƣợc coi vừa là quan điểm, vừa là mục
tiêu nghiên cứu. Lễ hội dân gian là một sản phẩm văn hóa, là tiền đề khách quan để
phát triển du lịch lễ hội - một loại hình du lịch đặc sắc, mang đậm tính nhân văn và
có sức hấp dẫn lớn đối với du khách. Du lịch lễ hội muốn phát triển bền vững, trƣớc
hết cần phải bảo tồn, phát triển các lễ hội dân gian và khai thác chúng một cách hợp
lý theo các nguyên tắc của phát triển bền vững.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
5.2.1. Phương pháp thu thập và xử lý tư liệu:
Đây là phƣơng pháp truyền thống đƣợc sử dụng phổ biến trong công tác
nghiên cứu. Khoa học không thể phát triển đƣợc nếu thiếu tính kế thừa, thiếu sự tích
lũy những thành tựu của quá khứ. Nguồn tài liệu cần thu thập rất đa dạng, phong
phú, bao gồm các văn bản pháp quy, các cơng trình khoa học, sách, báo – tạp chí và
cả tài liệu trên mạng internet,… Đây là cơ sở dữ liệu quan trọng để thực hiện đề tài,
đồng thời tạo điều kiện cho việc thực hiện các phƣơng pháp nghiên cứu khác đạt
hiệu quả cao.
5.2.2. Phương pháp điền dã:
Thực hiện phƣơng pháp này để thu thập dữ liệu, quan sát, phỏng vấn, chụp
ảnh,.... nhằm tạo thêm nguồn tài liệu sơ cấp có liên quan đến đề tài, đồng thời kiểm
chứng tính xác thực của thực tế so với nguồn tƣ liệu thứ cấp đã thu thập đƣợc. Từ
đó, tác giả có cái nhìn tồn diện và xác thực hơn từ thực tế. Trong quá trình thực
hiện đề tài, tác giả đã đi điền dã tại một số lễ hội nhƣ: Lễ Giỗ tổ Hùng Vƣơng, lễ
hội Nghinh Ơng Cần Giờ, Lễ hội đình Thơng Tây Hội, lễ hội đình Phú Nhuận,...
5.2.3. Phương pháp điều tra xã hội học:
Đây là phƣơng pháp nghiên cứu cần thiết để thu thập thông tin thực tế sát
thực và tổng hợp về các vấn đề liên quan đến đề tài trên địa bàn nghiên cứu. Trong
qúa trình thực hiện đề tài, tác giả đã sử dụng phƣơng pháp điều tra bằng bảng hỏi để



11

thu thập thơng tin, và từ đó xử lý dữ liệu để rút ra những nhận định làm cơ sở quan
trọng tạo nên kết quả nghiên cứu của luận văn. Tác giả đã thực hiện khảo sát 300
khách du lịch (cả khách nội địa và quốc tế) tại các lễ hội.
5.2.4. Phương pháp so sánh lịch đại và đồng đại:
Khi nghiên cứu các sự vật hiện tƣợng cần phải nghiên cứu lịch sử hình thành,
đặc điểm và các giai đoạn phát triển để nhận thức chúng một cách khách quan, hiểu
rõ hơn về hồn cảnh và q trình phát triển theo từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Đồng
thời phƣơng pháp này cho phép tác giả có thể so sánh các sự vật hiện tƣợng ở các
không gian khác nhau nhƣng xảy ra trong cùng thời điểm, nhằm nhận thức bao qt
đƣợc tồn vẹn và đầy đủ q trình lịch sử về sự vật, hiện tƣợng. Sự kết hợp lịch đại
và đồng đại trong nghiên cứu sự phát triển của một sự vật hiện tƣợng trở nên cần
thiết một cách khách quan đối với đối tƣợng đƣợc nghiên cứu.
5.2.5. Phương pháp phân tích, tổng hợp:
Sau khi thu thập đƣợc nguồn thơng tin, số liệu từ các cơng trình nghiên cứu,
từ thực tiễn, ngƣời nghiên cứu phải xử lý chúng theo mục tiêu nghiên cứu đã đặt ra
của đề tài. Trong quá trình xử lý tài liệu, hàng loạt phƣơng pháp truyền thống đƣợc
sử dụng nhƣ: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh,... Việc sử dụng phƣơng pháp
phân tích và tổng hợp có ý nghĩa quan trọng trong xử lý thông tin, đặc biệt là số liệu
để phù hợp với thực tế khách quan, vì trong quá trình thu thập chắc chắn có sự khác
biệt nhất định về thơng tin, cần phải xử lý để rút ra nhận định phù hợp với logic
nghiên cứu. Từ đó biến chúng thành cơ sở cho những nhận định hoặc kết luận khoa
học cho cơng trình nghiên cứu của mình.
5.2.6. Phương pháp nghiên cứu liên ngành:
Đề tài nghiên cứu liên quan đến nhiều lĩnh vực, nên luận văn cũng chú trọng
sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành: khoa học quản lý văn hóa, văn hóa
học, du lịch học, dân tộc học, giáo dục học, tâm lý học, xã hội học và lịch sử,... để
hiểu sâu về từng lĩnh vực khoa học, sự liên hệ chặc chẽ giữa các ngành khoa học, từ

đó kế thừa và khai thác thế mạnh của các ngành khoa học làm cơ sở vững chắc để
phát triển đề tài.


12

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa lễ hội và phát
triển du lịch.
- Đánh giá thực trạng công tác quản lý và phát huy giá trị của lễ hội dân gian ở
TP. Hồ Chí Minh trong giáo dục, tuyên truyền giữ gìn bản sắc văn hóa cũng nhƣ
góp phần phát triển kinh tế từ hoạt động du lịch thông qua các lễ hội dân gian tại
Thành phố trong giai đoạn 2005 - 2013.
- Đề xuất định hƣớng và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng và hiệu
quả của việc tổ chức lễ hội dân gian trong hoạt động du lịch ở TP. Hồ Chí Minh đến
năm 2020.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là tài liệu tham khảo hữu ích cho các
cơ quan quản lý về lĩnh vực văn hóa và du lịch ở TP. Hồ Chí Minh cũng nhƣ các
giảng viên, sinh viên ngành quản lý văn hóa, ngành du lịch và cán bộ làm công tác
quản lý văn hóa nói chung.
7. Bố cục luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận và phụ lục, nội dung chính của đề tài đƣợc cấu
trúc thành 3 chƣơng sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức và khai thác lễ hội dân gian cho mục đích
du lịch.
Chương 2: Thực trạng tổ chức và khai thác lễ hội dân gian trong phát triển du
lịch ở Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2005 - 2013.
Chương 3: Định hƣớng tổ chức, khai thác lễ hội dân gian trong phát triển du
lịch ở Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020 và các giải pháp thực hiện.



13

Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ KHAI THÁC
LỄ HỘI DÂN GIAN CHO MỤC ĐÍCH DU LỊCH
1.1. Các khái niệm và quan niệm
1.1.1. Lễ hội dân gian
Về tên gọi, hiện tƣợng lễ hội xuất phát từ hội làng – là đám đông dân làng hội
tụ - để thực hiện nghi lễ, cúng tế ở đình làng. Cùng với cuộc cúng tế, đám đình diễn
ra vui vẻ náo nhiệt đƣợc gọi chung là “hội hè đình đám” - “lễ hội” ngày nay.
Lễ hội là một sinh hoạt văn hóa dân gian nguyên hợp mang tính cộng đồng,
diễn ra trong chu kỳ không gian và thời gian nhất định để tiến hành các nghi thức
mang tính biểu trƣng về sự kiện của nhân vật đƣợc thờ cúng, là dịp để biểu hiện
cách ứng xử văn hóa của con ngƣời với thiên nhiên, thần thánh và con ngƣời trong
xã hội nhằm thể hiện ƣớc vọng của con ngƣời, để vui chơi và giải trí.
Lễ hội là những hoạt động, những sinh hoạt văn hóa mà ở đó có sự gắn kết
khơng thể tách rời của cả nội dung và hình thức của hai thành tố cơ bản là lễ và hội.
Lễ nhằm biểu thị sự kính trọng thể hiện trong những mối quan hệ xã hội giữa
ngƣời và ngƣời, giữa ngƣời và thế giới tự nhiên. Về mặt hình thái, lễ là hệ thống
những hành vi, nghi thức có tính chất phổ biến, đƣợc quy định một cách nghiêm
nghặt nhằm biểu hiện sự tơn kính của con ngƣời với thần linh, tạ ơn thần thánh đã
phù hộ và cầu xin tiếp tục phù hộ, đồng thời phản ánh những ƣớc mơ chính đáng
của con ngƣời trƣớc cuộc sống mà bản thân họ chƣa có khả năng thực hiện. Đây là
phần thiêng, là gốc rễ, là chủ đạo mang nặng yếu tố tâm linh, và có tính ổn định.
Hội là cuộc vui, là sinh hoạt văn hóa nghệ thuật bắt nguồn từ nhu cầu vui chơi
giải trí để giải tỏa về tinh thần và thể xác của con ngƣời nông nghiệp sau những
ngày lao động mệt nhọc, và lòng khao khát đƣợc sự đồng cảm với cộng đồng. Hội
thiêng về đời thƣờng, vui chơi, giải trí để chúc mừng thần linh và hƣởng thụ ân lộc
của thần linh ban tặng nên Hội bao giờ cũng sôi động, vui vẻ. Hội là phần phái sinh,

khơng ổn định và có thể thay đổi nhƣ chính sự sơi động vốn có của đời thƣờng.


14

Hai yếu tố lễ và hội không tách rời nhau, hòa quyện vào nhau thành một thể
thống nhất làm nên hiện tƣợng “lễ hội”. Ngồi ra trong lễ hội cịn có các thành tố
khác nhƣ hệ thống các tục hèm, các trị diễn dân gian... Các thành tố này ln gắn
kết, hỗ trợ lẫn nhau và luôn vận hành quanh trục trung tâm để đạt đƣợc mục tiêu
nhất định nhằm phục vụ lợi ích của cả cộng đồng.
Theo Quy chế tổ chức lễ hội năm 2001, các lễ hội đƣợc chia ra các loại: lễ hội
dân gian, lễ hội lịch sử cách mạng, lễ hội tôn giáo và lễ hội du nhập từ nƣớc ngoài
vào Việt Nam. Đến năm 2009, cách phân loại lễ hội và định nghĩa các loại hình lễ
hội của các cơ quan quản lý nhà nƣớc đã có sự điều chỉnh tại Thơng tƣ số
04/2009/TT-BVHTTDL ngày 16/12/2009. Theo đó, lễ hội bao gồm các loại: lễ hội
dân gian, lễ hội lịch sử - cách mạng, lễ hội văn hoá - thể thao - du lịch, lễ hội có
nguồn gốc từ nƣớc ngồi tổ chức tại Việt Nam. Tuy cách phân loại lễ hội qua thời
gian có khác nhau nhƣng đều xác định rõ loại hình lễ hội dân gian. Đây là loại hình
lễ hội đóng vai trò quan trọng đối với việc bảo lƣu và phát triển văn hóa truyền
thống của dân tộc. Theo thơng tƣ trên, lễ hội dân gian “là lễ hội đƣợc tổ chức nhằm
tơn vinh ngƣời có cơng với nƣớc, với cộng đồng; thờ cúng thần thánh, biểu tƣợng
có tính truyền thống và các hoạt động tín ngƣỡng dân gian khác tiêu biểu cho những
giá trị tốt đẹp về truyền thống lịch sử, văn hoá, đạo đức xã hội”. [7]
Tác giả Dƣơng Văn Sáu cho rằng, những lễ hội có từ trƣớc năm 1945 đƣợc gọi
bằng nhiều tên gọi khác nhau nhƣ: lễ hội cổ truyền, lễ hội dân gian, lễ hội truyền
thống, lễ hội dân gian truyền thống... còn những lễ hội ra đời sau năm 1945 đƣợc
gọi là lễ hội hiện đại.[23]
Theo tác giả Huỳnh Quốc Thắng, lễ hội dân gian là một thuật ngữ dùng để chỉ
một loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian phổ biến có thể tổng hợp nhiều loại hình
văn hóa dân gian khác nhau qua hình thức cảnh diễn hóa (spectaculariser) tại một

địa điểm, một thời gian nhất định bằng những nghi thức, nghi vật, nghi trƣợng đặc
trƣng xoay quanh hai nội dung cơ bản, đó là lễ và hội. Lễ hội dân gian tồn tại và
phát triển theo xu hƣớng truyền thống hóa (lễ hội dân gian truyền thống hoặc lễ hội
truyền thống), cổ điển hóa (lễ hội cổ truyền) hoặc hiện đại hóa (lễ hội mới,


15

festival...). Và theo cấp độ tổ chức và quy mô xã hội có thể phân loại lễ hội dân gian
thành lễ hội gia đình, lễ hội làng và vùng, lễ hội quốc gia - dân tộc, trong đó lễ hội
làng là loại hình lễ hội điển hình và có vị trí chủ đạo trong hệ thống lễ hội cổ truyền
ở nƣớc ta .[28]
Tác giả Cao Đức Hải lại cho rằng, lễ hội truyền thống có thể đƣợc hiểu nhƣ lễ
hội cổ truyền. Lễ hội cổ truyền (hay lễ hội dân gian cổ truyền) là những lễ hội đƣợc
hình thành trong lịch sử từ xa xƣa truyền lại trong các cộng đồng nông nghiệp với
tƣ cách một phong tục. Lễ hội dân gian chỉ những lễ hội đƣợc sáng tạo và đƣợc lƣu
truyền theo phƣơng thức dân gian, và do lễ hội cổ truyền ở nƣớc ta chủ yếu là lễ hội
dân gian nên cụm từ lễ hội dân gian và lễ hội cổ truyền đƣợc sử dụng với cách hiểu
tƣơng đƣơng. [11]
Nhƣ vậy, lễ hội dân gian hay lễ hội cổ truyền, lễ hội truyền thống, lễ hội dân
gian truyền thống là lễ hội gắn với tín ngƣỡng dân gian Việt Nam, đƣợc tổ chức
trong không gian và thời gian xác định nhằm tôn vinh, tƣởng nhớ công lao của thần
thánh, tổ tiên, tổ nghề, những ngƣời có cơng với nƣớc, với làng và với cộng đồng
dân tộc. Lễ hội đƣợc cộng đồng tự giác thực hiện các nghi lễ và là ngày vui chung
của cả cộng đồng, thể hiện đạo lý uống nƣớc nhớ nguồn, cách ứng xử của cộng
đồng với thần thánh, tổ tiên và những anh hùng của nƣớc, của làng.
Nếu lễ tết phân bổ theo thời gian thì lễ hội phân bố theo khơng gian. Khơng
gian tổ chức lễ hội dân gian là không gian của các khu di tích, đình, đền, chùa,... ở
khắp các vùng miền trên cả nƣớc. Đây là không gian thiêng của lễ hội. Di tích là
dấu hiệu và truyền thống đƣợc đọng lại ở dạng cứng, còn lễ hội ở di tích là cái hồn,

chuyển tải truyền thống ở dạng mềm. Di tích lịch sử và văn hóa là những dấu ấn của
một thời đại, là những tấm gƣơng của lịch sử, phản ảnh trình độ phát triển kinh tế,
văn hóa của thời đại.
1.1.2. Tổ chức lễ hội
Công tác tổ chức lễ hội đƣợc hiểu nhƣ sự huy động các nguồn lực và tổ chức,
điều hành các nguồn lực tạo ra lễ hội nhằm “Tƣởng nhớ công đức các anh hùng dân
tộc, danh nhân văn hoá, các liệt sỹ, các bậc tiền bối đã có cơng xây dựng và bảo vệ


16

Tổ quốc; Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá tinh thần của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam; Đáp ứng nhu cầu văn hố, tín ngƣỡng, tham quan các di tích lịch sử văn hố, danh lam thắng cảnh, cơng trình kiến trúc nghệ thuật, cảnh quan thiên
nhiên và các nhu cầu chính đáng khác của nhân dân” [8]. Đây đƣợc xem là một loại
công việc, một công nghệ hay một phƣơng pháp bao gồm cả quá trình nhƣ: xác định
mục đích, quy mơ tổ chức lễ hội; lập kế hoạch tổ chức; tổ chức, dàn dựng lễ hội; và
giai đoạn kết thúc lễ hội. Công tác này do tổ chức có đầy đủ tƣ cách pháp nhân
đƣợc cấp phép tổ chức lễ hội.
Công tác tổ chức lễ hội đòi hỏi tổ chức, cá nhân - đƣợc giao trách nhiệm chính
trong việc huy động - kết nối - tổ chức và điều hành các nguồn lực để tổ chức lễ hội
bởi mục tiêu đã đƣợc xác định trƣớc - cần có kiến thức tổng hợp về lĩnh vực quản
lý, kinh tế, truyền thông, xã hội và văn hóa,... đồng thời phải có năng lực tổ chức và
điều hành, năng động, có khả năng thiết lập mối quan hệ tốt, kỹ năng làm việc
nhóm, kỹ năng xử lý tình huống...
Những lễ hội đƣợc đầu tƣ, chú trọng trong công tác tổ chức từ khâu đầu tiên
đến khâu kết thúc, lƣu ý đến các giải pháp quy định rõ trách nhiệm của ngƣời quản
lý, tổ chức lễ hội, xác định đúng mức về quy mô, tuyên truyền về ý thức của ngƣời
tham gia lễ hội, đặc biệt là thái độ và hành vi ứng xử văn hóa khi tham dự lễ hội,
hạn chế các hiện tƣợng tiêu cực nhƣ mê tín dị đoan, cảnh quan mơi trƣờng, an ninh
trật tự,...sẽ đáp ứng nhu cầu hƣởng thụ văn hóa tín ngƣỡng của nhân dân địa phƣơng

và du khách thập phƣơng, khẳng định giá trị truyền thống văn hóa địa phƣơng, góp
phần quan trọng vào việc bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa của lễ hội, nâng cao đời
sống tinh thần của nhân dân, thúc đẩy phát triển các ngành dịch vụ, du lịch.
1.1.3. Khai thác lễ hội cho mục đích du lịch:
Cùng với tài nguyên tự nhiên, tài nguyên nhân văn là một trong những điều
kiện đặc trƣng cho việc phát triển du lịch của một quốc gia, một vùng, một địa
phƣơng. Lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hóa tập thể của cộng đồng sau thời gian
lao động vất vả, là loại hình văn hóa có sức lôi cuốn và trở thành nhu cầu trong đời
sống tinh thần không thể thiếu của nhân dân, là tài nguyên du lịch nhân văn hấp dẫn


17

du khách và là đối tƣợng cho du khách khám phá, thƣởng thức, cho du lịch khai
thác và sử dụng. Vì vậy, việc tổ chức lễ hội khơng chỉ là dịp để địa phƣơng giới
thiệu, quảng bá hình ảnh mà còn là dịp để nhân dân địa phƣơng và du khách trong,
ngoài nƣớc thoả mãn nhu cầu tinh thần đa dạng của mình.
Để lễ hội phản ánh đúng bản chất tốt đẹp truyền thống, địa phƣơng tổ chức lễ
hội cần lấy yếu tố truyền tải bản sắc văn hóa riêng biệt của vùng, thực hành trung
thực, sinh động phong tục tập quán cổ truyền nhằm gây ấn tƣợng cho những ngƣời
cùng tham gia lễ hội. Các lễ hội dân gian thƣờng đƣợc tổ chức với các nghi lễ trang
trọng, nêu bật đƣợc công đức của các bậc tiền nhân, các anh hùng dân tộc, đồng thời
tổ chức các trò chơi dân gian, các hoạt động văn hóa, thể thao quần chúng. Vì vậy,
để tổ chức lễ hội dân gian vừa giữ đƣợc bản sắc văn hóa dân tộc vừa phục vụ phát
triển du lịch, lễ hội cần phải xác định đƣợc các giá trị tích cực, giá trị tín ngƣỡng
văn hóa dân gian vốn có, xác định rõ những yếu tố lai tạp, vay mƣợn, mê tín dị
đoan,... từ đó mới có thể lựa chọn và khai thác các giá trị của lễ hội, cái nào có thể
khai thác để tạo ra sản phẩm du lịch, phục vụ đối tƣợng khách nào, vào thời điểm
nào, ở đâu và nhƣ thế nào?
Việc khai thác du lịch hợp lý dựa vào giá trị văn hóa của các lễ hội là cơng

việc hết sức quan trọng. Bởi với lễ hội dân gian không thể khơng tính đến giá trị
tinh thần khi khai thác cho mục đích du lịch. Ở đó có tâm linh, tín ngƣỡng, có
những hoạt động, những khu vực khơng thể thƣơng mại hóa mà cần phải đƣợc tơn
trọng tuyệt đối từ những ngƣời tổ chức và tham dự lễ hội. Bên cạnh đó, phục vụ
khách du lịch cũng là một hoạt động quan trọng để khai thác giá trị của lễ hội vì
điều đó sẽ làm cho du khách có thể yên tâm khi tham gia lễ hội. Công tác đảm bảo
an ninh, an toàn cho du khách, các dịch vụ ăn uống – nghỉ ngơi - giải trí quanh khu
vực tổ chức lễ hội, cơ sở hạ tầng, đƣờng giao thơng,... phải đƣợc tính tốn đầy đủ để
phục vụ du khách một cách thuận lợi nhất. Bên cạnh đó, cần chú trọng đến công tác
quản lý, khai thác nguồn lực của tồn xã hội cho việc giữ gìn và phát huy giá trị của
lễ hội. Đây là biện pháp tốt để khai thác toàn diện mọi mặt của lễ hội đáp ứng nhu
cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phƣơng.


18

1.1.4. Du lịch
Du lịch là một hoạt động phổ biến, là nhu cầu khơng thể thiếu trong đời sống
văn hóa – xã hội của mỗi quốc gia. Cho đến nay đã tồn tại rất nhiều định nghĩa về
du lịch. Trong quá trình phát triển của du lịch thế giới, nội hàm của “Du lịch” ngày
càng đƣợc mở rộng và các loại hình du lịch ngày càng phong phú nhƣ: du lịch tơn
giáo, du lịch nghỉ dƣỡng, du lịch văn hóa, du lịch lễ hội,...
Theo Liên hiệp quốc tế các tổ chức lữ hành chính thức (IUOTO): “Du lịch
đƣợc hiểu là hành động du hành đến một nơi khác với địa điểm cƣ trú thƣờng xun
cuả mình nhằm mục đích khơng phải để làm ăn, tức không phải để làm một nghề
hay một việc kiếm tiền sinh sống”. [32]
Tại hội nghị Liên Hợp Quốc về du lịch họp tại Roma - Italia (21/8 – 5/9/1963),
các chuyên gia đã đƣa ra định nghĩa về du lịch: “Du lịch là tổng hợp các mối quan
hệ, hiện tƣợng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lƣu trú
của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thƣờng xun của họ hay ngồi nƣớc họ

với mục đích hồ bình. Nơi họ đến lƣu trú khơng phải là nơi làm việc của họ”. [32]
Theo I.I Pirôgionic (1985), “Du lịch là một dạng hoạt động của dân cƣ trong
thời gian rỗi liên quan với sự di chuyển và lƣu lại tạm thời bên ngoài nơi cƣ trú
thƣờng xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao
trình độ nhận thức văn hố hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự
nhiên, kinh tế và văn hoá”. [32]
Tại Việt Nam cũng có rất nhiều định nghĩa về du lịch. Theo PGS.TS Trần Đức
Thanh, du lịch có thể đƣợc hiểu “là sự di chuyển và lƣu trú qua đêm tạm thời trong
thời gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cƣ trú nhằm xác định mục đích
phục hồi sức khỏe, nâng cao tại chỗ nhận thức về thế giới xung quanh, có hoặc
khơng kèm theo việc tiêu thụ một số giá trị tự nhiên, kinh tế, văn hóa và dịch vụ do
các cơ sở chuyên nghiệp cung ứng; là một lĩnh vực kinh doanh các dịch vụ nhằm
thỏa mãn nhu cầu nảy sinh trong quá trình di chuyển và lƣu trú qua đêm tạm thời
trong thời gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cƣ trú với mục đích phục
hồi sức khỏe, nâng cao nhận thức tại chỗ về thế giới xung quanh”. [25]


19

Theo Luật Du lịch Việt Nam (2005), tại Điều 4, chƣơng I: “Du lịch là các hoạt
động có liên quan đến chuyến đi của con ngƣời ngoài nơi cƣ trú thƣờng xuyên của
mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dƣỡng trong một
khoảng thời gian nhất định”.
1.1.5. Tài nguyên du lịch
Theo I.I Pirôgionic (1985): “Tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên, văn hóa –
lịch sử và những thành phần của chúng giúp cho việc phục hồi, phát triển thể lực,
tinh lực, khả năng lao động và sức khỏe của con ngƣời mà chúng đƣợc sử dụng trực
tiếp hoặc gián tiếp để tạo ra dịch vụ du lịch gắn liền với nhu cầu ở thời điểm hiện tại
hay tƣơng lai và trong điều kiện kinh tế - kỹ thuật cho phép”. [33]
Ngô Tất Hổ (2000) thì cho rằng: “Tất cả giới tự nhiên và xã hội lồi ngƣời có

sức hấp dẫn khách du lịch, có thể sử dụng cho ngành du lịch, có thể sản sinh ra hiệu
quả kinh tế - xã hội và mơi trƣờng đều có thể gọi là tài ngun du lịch”. [33]
Theo Nguyễn Minh Tuệ (2012): “Tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên, văn
hóa – lịch sử cùng với những thành phần của chúng có sức hấp dẫn với du khách;
đã, đang và sẽ đƣợc khai thác, cũng nhƣ bảo vệ nhằm đáp ứng nhu cầu của du lịch
một cách hiệu quả và bền vững”. [33]
Theo luật Du lịch Việt Nam (2005): “Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên
nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử - văn hố, cơng trình lao động sáng tạo của
con ngƣời và các giá trị nhân văn khác có thể đƣợc sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu
du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch,
đô thị du lịch”. [16]
Tài nguyên du lịch đƣợc phân loại dựa vào nguồn gốc hình thành bao gồm tài
nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn.
Theo Điều 13, Chƣơng II, Luật du lịch Việt Nam (2005):
- “Tài nguyên du lịch tự nhiên gồm các yếu tố địa chất, địa hình, địa mạo, khí
hậu, thủy văn, hệ sinh thái, cảnh quan tự nhiên đang đƣợc khai thác hoặc có thể
đƣợc sử dụng phục vụ mục đích du lịch”.


20

- “Tài nguyên du lịch nhân văn bao gồm truyền thống văn hóa, các yếu tố văn
hóa, văn nghệ dân gian, di tích lịch sử, cách mạng, khảo cổ, kiến trúc, các cơng
trình lao động sáng tạo của con ngƣời và các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể khác
có thể đƣợc sử dụng phục vụ mục đích du lịch”.
Theo Luật Di sản Văn hóa của Việt Nam (2003), tài nguyên du lịch nhân văn
đƣợc chia thành hai loại: Di sản văn hóa vật thể (bao gồm: di sản văn hóa thế giới
vật thể; các di tích lịch sử văn hóa, danh thắng cấp quốc gia và địa phƣơng; các cổ
vật và bảo vật quốc gia,...), và Di sản văn hóa phi vật thể (bao gồm: di sản văn hóa
thế giới truyền miệng và phi vật thể; các lễ hội truyền thống; văn hóa ẩm thực;

phong tục tập quán,...).
Tài nguyên du lịch đƣợc xem nhƣ tiền đề để phát triển du lịch. Thực tế cho
thấy, tài nguyên du lịch càng phong phú, càng đặc sắc thì càng có sức hấp dẫn và
hiệu quả đối với hoạt động du lịch. Tài nguyên du lịch nhân văn thƣờng là những
giá trị văn hóa tiêu biểu, đặc sắc của mỗi quốc gia, mỗi địa phƣơng. Trong các dạng
tài nguyên nhân văn, lễ hội truyền thống là tài nguyên có giá trị du lịch rất lớn, là
điều kiện tiên quyết để phát triển loại hình du lịch lễ hội.
1.1.6. Sản phẩm du lịch
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về sản phẩm du lịch:
Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thoả mãn nhu cầu của
khách du lịch trong chuyến đi du lịch.
Sản phẩm du lịch là một tổng thể phức tạp bao gồm nhiều thành phần khơng
đồng nhất tạo thành, đó là tài ngun tự nhiên, tài nguyên nhân văn, cơ sở vật chất
kỹ thuật, cơ sở hạ tầng dịch vụ du lịch và đội ngũ cán bộ, nhân viên du lịch.
Theo Tiến sĩ Thu Trang Công Thị Nghĩa: “Sản phẩm du lịch là một loại sản
phẩm tiêu dùng đáp ứng cho nhu cầu của du khách, nó bao gồm di chuyển, ăn ở và
giải trí”. [32]
Theo Luật Du lịch Việt Nam (2005): “Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ
cần thiết để thoả mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến đi du lịch”. [16]


21

Nhƣ vậy, sản phẩm du lịch bao gồm những yếu tố hữu hình (hàng hóa) và
những yếu tố vơ hình (dịch vụ) để cung cấp cho du khách hay nó bao gồm các hàng
hóa, các dịch vụ và tiện nghi phục vụ khách du lịch.
Sản phẩm du lịch có thể là sản phẩm đơn lẻ hoặc sản phẩm hoàn chỉnh do một
đơn vị cung ứng trọn gói hoặc do nhiều đơn vị kinh doanh cùng tham gia cung ứng.
Tuy nhiên, sản phẩm du lịch cần đƣợc hiểu theo nghĩa là sản phẩm hồn chỉnh,
khơng phải là các sản phẩm du lịch riêng lẻ.

Sản phẩm du lịch bao gồm các thành phần chính:
- Những thành phần tạo sức hút (lực hấp dẫn đối với du khách): bao gồm các
điểm du lịch, các di sản văn hóa, cơng trình kiến trúc, lễ hội truyền thống, phong tục
tập quán ...
- Cơ sở du lịch (điều kiện vật chất để phát triển ngành du lịch): bao gồm mạng
lƣới cơ sở lƣu trú nhƣ khách sạn, nhà nghỉ, làng du lịch; các dịch vụ ăn uống, cơ sở
vật chất phục vụ nhu cầu vui chơi giải trí cho du khách; hệ thống các phƣơng tiện
vận chuyển nhằm phục vụ việc đi lại cho du khách.
- Giá cả của hàng hóa và của dịch vụ điểm đến.
Tuy nhiên cần phải xem xét những mặt nào của sản phẩm văn hóa vật thể (di
tích khảo cổ, di tích lịch sử, di tích kiến trúc văn hóa, bảo tàng...) và phi vật thể (lễ
hội dân gian, các phong tục -nghi lễ liên quan đến vòng đời ngƣời, đời sống văn hóa
của bản làng, văn hóa ẩm thực...) có thể khai thác tạo thành sản phẩm du lịch, bởi vì
khơng phải bất kỳ sản phẩm văn hóa nào cũng có thể trở thành sản phẩm du lịch.
1.2.

Một số vấn đề lý luận về tổ chức và khai thác lễ hội dân gian cho

mục đích du lịch
1.2.1. Vai trị, chức năng của lễ hội dân gian
Lễ hội dân gian có một vị thế quan trọng trong đời sống tâm linh của mỗi cộng
đồng nhằm thỏa mãn nhu cầu về tín ngƣỡng – tôn giáo, thể hiện những mong muốn,
những khát vọng thẩm mỹ trong đời sống cộng đồng và của mỗi cá nhân.
- Lễ hội dân gian là sự kiện tưởng nhớ, tỏ lịng tri ân cơng đức của các vị thần
đối với cộng đồng, dân tộc:


22

Lễ hội dân gian tơn vinh những hình tƣợng thiêng hội tụ những phẩm chất cao

đẹp của con ngƣời, đƣợc định danh là những vị “Thần” - những ngƣời có thật trong
lịch sử dân tộc hay huyền thoại. Đó là những anh hùng chống giặc ngoại xâm;
những ngƣời khai phá vùng đất mới, tạo dựng nghề nghiệp; những ngƣời chống
chọi với thiên tai, trừ ác thú; những ngƣời chữa bệnh cứu ngƣời; những nhân vật
truyền thuyết đã chi phối cuộc sống nơi trần gian, giúp con ngƣời hƣớng thiện, giữ
gìn cuộc sống hạnh phúc.
- Lễ hội dân gian giúp con người có ý thức cộng đồng:
Lễ hội thể hiện sức mạnh cộng đồng làng xã, địa phƣơng hay rộng hơn là quốc
gia dân tộc, họ thờ chung vị thần, có chung mục tiêu là đoàn kết để vƣợt qua gian khó,
dành cuộc sống ấm no, hạnh phúc; kéo con ngƣời ra khỏi tính cá nhân chủ nghĩa, từ đó
nghĩ đến cộng đồng, tìm đƣợc vinh quang trong sự đóng góp cho cộng đồng. Mỗi
ngƣời phải soi rọi trong cộng đồng để điều chỉnh hành vi của cá nhân phù hợp với mục
tiêu chung của cộng đồng, hòa nhập với cộng đồng. Từ đó tăng thêm mối cộng cảm, sự
gắn bó với cộng đồng, làng xóm.
- Lễ hội dân gian giúp con người ý thức về cội nguồn dân tộc:
Lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hóa tinh thần của con ngƣời. Bắt nguồn từ tín
ngƣỡng thờ cúng tổ tiên, con ngƣời khơng bao giờ qn cội nguồn, trọng tình nghĩa.
Vì vậy, các lễ hội dân gian thƣờng hƣớng về nguồn - là nguồn cội tự nhiên mà con
ngƣời vốn từ đó sinh ra, nguồn cội cộng đồng nhƣ dân tộc, đất nƣớc, xóm làng, tổ
tiên, nguồn cội văn hố,... Hƣớng về nguồn đã trở thành tâm thức của con ngƣời
Việt Nam - “uống nƣớc nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ ngƣời trồng cây”. Nguồn cội tự
nhiên hay nguồn cội của dân tộc đều có ý nghĩa thiêng liêng trong tâm trí mỗi
ngƣời. Lễ hội là dịp con ngƣời đƣợc giải toả, dãi bày phiền muộn, lo âu với thần
linh, mong đƣợc thần giúp đỡ, chở che đặng vƣợt qua những thử thách đến với ngày
mai tƣơi sáng hơn.
Việc tổ chức lễ hội cổ truyền nhằm đáp ứng nhu cầu tâm linh, tinh thần của
ngƣời dân, giúp con ngƣời trở về với cội nguồn, đồng thời tạo cơ hội giao lƣu, tiếp
xúc, trao đổi, sáng tạo và hƣởng thụ văn hóa, làm gia tăng tính cố kết cộng đồng.



23

Chính vì thế, lễ hội có vai trị quan trọng trong việc bảo lƣu và truyền bá các giá trị
văn hóa truyền thống, góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
- Lễ hội dân gian giúp con người ý thức được tài năng văn hóa nghệ thuật:
Trong các lễ hội, thơng qua các trị chơi giải trí lành mạnh, các hoạt động văn
hóa văn nghệ, các cuộc thi tài, thể thao mang tính giáo dục, thẩm mỹ cao,... đã kích
thích con ngƣời (cá nhân hay tập thể) có ý thức vận động, rèn luyện, phát triển năng
khiếu, tài năng văn hóa, nghệ thuật tiềm tàng trong bản thân; lễ hội là môi trƣờng
thuận lợi để con ngƣời đƣợc thể hiện, phô diễn tài năng của mình trƣớc cộng đồng,
đồng thời thơng qua lễ hội có thể phát hiện những tài năng mới trong cộng đồng.
Từ bao đời nay, lễ hội dân gian đã trở thành hình thức sinh hoạt văn hóa cộng
đồng, mang tính tâm linh và có ý nghĩa nhân văn cao đẹp. Nhìn chung, các lễ hội
đều gắn với các di tích lịch sử văn hóa. Phƣơng thức tổ chức và nội dung các lễ hội
có sự kết hợp giữa lễ và hội, đan xen giữa tín ngƣỡng dân gian, tín ngƣỡng phồn
thực, tín ngƣỡng thần hồng làng,… Ý nghĩa phần lễ trong các lễ hội dân gian
không chỉ thuần túy mang yếu tố tín ngƣỡng, mà cịn là hình thức sinh hoạt văn hóa
tinh thần mang đậm nét đạo lý, truyền thống tơn kính tổ tiên, “uống nƣớc nhớ
nguồn”, tƣởng nhớ cơng lao của các vị anh hùng có cơng xây dựng, bảo vệ quê
hƣơng, đất nƣớc, những bậc tiền nhân đã truyền nghề mang lại đời sống ấm no hạnh
phúc cho nhân dân. Đến lễ hội có đơng đảo quần chúng nhân dân, không phân biệt
lứa tuổi với tâm nguyện tốt lành và hƣớng thiện. Đến với lễ hội dân gian, khách
hành hƣơng có dịp giải tỏa những lo âu, phiền muộn của cuộc sống thƣờng nhật,
đƣợc thƣ giãn tinh thần với những trò chơi lành mạnh trong ngày hội, đƣợc tham
quan, hiểu biết về các di tích lịch sử.
Các lễ hội dân gian với sức sống mãnh liệt vốn có ăn sâu vào tiềm thức, trở
thành nhu cầu, khát vọng không thể thiếu trong đời sống tinh thần của nhân dân ta.
Lễ hội là một hình thức sinh hoạt tinh thần vừa mang ý nghĩa tâm linh vừa có tính
hội hè, thể hiện nhiều sắc thái văn hóa truyền thống của nhiều cộng đồng dân cƣ
trên các vùng đất và các dân tộc khác nhau, tạo thành sự phong phú và đa dạng của

văn hóa dân tộc Việt Nam.


24

1.2.2. Các giá trị văn hóa của lễ hội dân gian
Ở nƣớc ta cũng nhƣ ở nhiều nƣớc khác trên thế giới, khi đã bƣớc vào cơng
nghiệp hố, hiện đại hoá, các lễ hội cổ truyền vẫn tồn tại, thậm chí cịn đƣợc khơi
phục mạnh mẽ. Lễ hội dân gian vẫn duy trì đƣợc sức sống bền bỉ, gắn liền với tâm
thức của mỗi con ngƣời Việt Nam, vẫn thu hút và lôi cuốn con ngƣời trong xã hội
hiện đại. Có đƣợc điều đó là do lễ hội dân gian hội tụ các giá trị sau:
1.2.2.1. Giá trị cố kết và biểu dương sức mạnh cộng đồng:
Lễ hội nào cũng là của cộng đồng và thuộc về một cộng đồng nhất định. Đó có
thể là cộng đồng làng xã (hội làng), cộng đồng nghề nghiệp (hội nghề), cộng đồng
tôn giáo (hội chùa, hội đền, hội nhà thờ), cộng đồng dân tộc (hội Đền Hùng) đến
cộng đồng nhỏ hơn nhƣ: gia tộc, dịng họ,... Chính lễ hội là dịp biểu dƣơng sức
mạnh của cộng đồng và là chất kết dính tạo nên sự cố kết cộng đồng.
Mỗi cộng đồng hình thành và tồn tại trên cơ sở của những nền tảng gắn kết,
nhƣ gắn kết do cùng cƣ trú trên một lãnh thổ (cộng cƣ), gắn kết về sở hữu tài
nguyên và lợi ích kinh tế (cơng hữu), gắn kết bởi số mệnh chịu sự chi phối của một
lực lƣợng siêu nhiên nào đó (cộng mệnh), gắn kết bởi nhu cầu sự đồng cảm trong
các hoạt động sáng tạo và hƣởng thụ văn hố (cộng cảm),… Lễ hội là mơi trƣờng
góp phần quan trọng tạo nên niềm cộng mệnh và cộng cảm của sức mạnh cộng
đồng.
Ngày nay, trong điều kiện xã hội hiện đại, con ngƣời càng ngày càng khẳng
định “cái cá nhân”, “cá tính” của mình thì khơng vì thế cái “cộng đồng” bị phá vỡ,
mà nó chỉ biến đổi các sắc thái và phạm vi, con ngƣời vẫn phải nƣơng tựa vào cộng
đồng, có nhu cầu cố kết cộng đồng. Trong điều kiện nhƣ vậy, lễ hội vẫn giữ nguyên
giá trị biểu tƣợng của sức mạnh cộng đồng và tạo nên sự cố kết cộng đồng ấy.
1.2.2.2. Giá trị hướng về cội nguồn

Tất cả lễ hội dân gian đều hƣớng về nguồn. Đó là nguồn cội tự nhiên mà con
ngƣời vốn từ đó sinh ra và nay vẫn là một bộ phận hữu cơ; nguồn cội cộng đồng
nhƣ dân tộc, đất nƣớc, xóm làng, tổ tiên, nguồn cội văn hoá,... Hơn thế nữa, hƣớng
về nguồn đã trở thành tâm thức của con ngƣời Việt Nam - “uống nƣớc nhớ nguồn”,


25

“ăn quả nhớ ngƣời trồng cây”. Chính vì thế, lễ hội bao giờ cũng gắn với hành
hƣơng - du lịch.
Ngày nay, trong thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật, tin học hố, tồn cầu
hóa, con ngƣời bừng tỉnh về tình trạng tách rời giữa bản thân mình với tự nhiên,
môi trƣờng; với lịch sử xa xƣa, với truyền thống văn hố độc đáo đang bị mai một.
Chính trong mơi trƣờng tự nhiên và xã hội nhƣ vậy, hơn bao giờ hết con ngƣời càng
có nhu cầu hƣớng về, tìm lại cái nguồn cội tự nhiên của mình, hịa mình vào với
mơi trƣờng thiên nhiên; trở về, tìm lại và khẳng định cái nguồn gốc cộng đồng và
bản sắc văn hố của mình trong cái chung của văn hố nhân loại. Chính nền văn hố
truyền thống, trong đó có lễ hội cổ truyền là một biểu tƣợng, có thể đáp ứng nhu cầu
bức xúc ấy. Đó cũng chính là tính nhân bản bền vững và sâu sắc của lễ hội có thể
đáp ứng nhu cầu của con ngƣời ở mọi thời đại.
1.2.2.3. Giá trị cân bằng đời sống tâm linh
Bên cạnh đời sống vật chất, đời sống tinh thần, tƣ tƣởng cịn hiện hữu trong
đời sống tâm linh. Đó là đời sống của con ngƣời hƣớng về cái cao cả thiêng liêng chân thiện mỹ - cái mà con ngƣời ngƣỡng mộ, ƣớc vọng, tơn thờ, trong đó có niềm
tin tơn giáo tín ngƣỡng. Nhƣ vậy, tơn giáo tín ngƣỡng thuộc về đời sống tâm linh,
tuy nhiên không phải tất cả đời sống tâm linh là tơn giáo tín ngƣỡng. Chính tơn giáo
tín ngƣỡng, các nghi lễ, lễ hội góp phần làm thoả mãn nhu cầu về đời sống tâm linh
của con ngƣời, đó là “cuộc đời thứ hai”, đó là trạng thái “thăng hoa” từ đời sống
trần tục, hiện hữu.
Cuộc sống hiện đại tất bật có thể làm con ngƣời thui chột khả năng sáng tạo
văn hóa, khơ cứng về đời sống tinh thần và tâm linh. Trở về với văn hóa dân tộc, lễ

hội dân gian, con ngƣời dƣờng nhƣ đƣợc tận hƣởng dòng nƣớc mát đầu nguồn của
văn hoá dân tộc, tận hƣởng những giây phút thiêng liêng, ngƣỡng vọng những biểu
tƣợng siêu việt cao cả - chân thiện mỹ, đƣợc sống những giờ phút giao cảm hồ hởi
đầy tinh thần cộng đồng, con ngƣời có thể phơ bày tất cả những gì là tinh t đẹp đẽ
nhất của bản thân qua các cuộc thi tài, qua các hình thức trình diễn nghệ thuật, cách
thức ăn mặc lộng lẫy, đẹp đẽ khác hẳn ngày thƣờng,... Tất cả đó là trạng thái “thăng


×