TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP Cục diện thế giới hiện nay và những vấn đề đặt
ra với đối ngoại Việt Nam hiện nay
Khoa: Chủ nghĩa xã hội khoa học
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................4
NỘI DUNG.............................................................................................5
I. NHỮNG BIẾN ĐỔI CỤC DIỆN THẾ GIỚI HIỆN NAY................5
1. Xu hướng đa cực, đa trung tâm và sự cạnh tranh chiến
lược của các nước lớn.................................................................................6
2.
Các vấn đề toàn cầu và an ninh phi truyền thống ngày
càng nghiêm trọng.................................................................10
3. Kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn.......................................11
4. Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương biến động phức tạp
11
5. Trào lưu dân túy, xu hướng bảo hộ có chiều hướng gia tăng
12
II. NHỮNG YÊU CẦU ĐẶT RA TRONG ĐƯỜNG LỐI ĐỐI
NGOẠI CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VIỆT NAM.......................................13
1. Tiếp tục đề cao quan điểm, mục tiêu đối ngoại là “Bảo
đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc”.................................................13
2. Khẳng định vị trí, vai trị chiến lược của công tác đối
ngoại, đặc biệt là đối ngoại đa phương...................................................14
3. Đặt ra yêu cầu cho hoạt động đối ngoạivà hội nhập quốc
tế thời gian tới phải đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả, toàn diện, sâu rộng,
hiện đại 15
4. Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại đáp ứng
với yêu cầu, nhiệm vụ của giai đoạn mới................................................17
5. Phương hướng, giải pháp đẩy mạnh hoạt động đối ngoại
và hội nhập quốc tế..................................................................................17
III. TRÁCH NHIỆM CỦA QUÂN ĐỘI TRONG QUÁN TRIỆT,
THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC
VIỆT NAM.................................................................................................20
1. Trách nhiệm của Quân đội trong thực hiện đường lối đối
ngoại của Đảng, Nhà nước Việt Nam......................................................20
3
2. Trách nhiệm của bản thân trong thực hiện đường lối đối
ngoại của Đảng, Nhà nước Việt Nam......................................................23
KẾT LUẬN...........................................................................................25
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................27
MỞ ĐẦU
Thế giới trong thế kỷ XXI tiếp tục chứng kiến nhiều biến đổi phức tạp
và khó lường về ngoại giao giữa các nước trong khu vực và trên thế giới. tình
hình thế giới và khu vực tiếp tục có nhiều thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó
lường. Hịa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song cũng đứng
trưốc nhiều trỏ ngại, khó khăn, thách thức. Tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế
tiếp tục tiến triển, nhưng cũng đang bị đe dọa bởi sự trỗi dậy của chủ nghĩa
dân tộc cực đoan, cạnh tranh chiến lược, cạnh tranh kinh tế, chiến tranh
thương mại diễn ra gay gắt. Do tác động của đại dịch Covid-19, thế giới rơi
vào khủng hoảng nghiêm trọng nhiều mặt. Tình hình tranh chấp chủ quyền
trên Biển Đơng cịn diễn biến phức tạp. Tình hình chiến sự giữa Nga và
Ukraine, tạo ra sự căng thẳng cho sự hịa bình tồn thế giới. Biến đổi khí hậu,
thiên tai, dịch bệnh và các vấn đề an ninh phi truyền thông khác, nhất là an
ninh mạng... ngày càng tác động mạnh, nhiều mặt, đe dọa nghiêm trọng đến
sự phát triển ổn định, bền vững của thế giới, khu vực và đất nước ta. Tình
hình đó vừa tạo ra những cơ hội thuận lợi, vừa đưa tới những khó khăn, thách
thức trong quan hệ quốc tế và thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại của
Đảng, Nhà nước ta.
Để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn nữa, vươn xa hơn nữa, hội
nhập sâu rộng, toàn diện với khu vực và thế giới, nâng cao hơn nữa uy tín
quốc tế của Việt Nam, đường lối đối ngoại đóng vai trị rất quan trọng nâng
tầm vị thế, uy tín quốc tế, cơ đồ, tiềm lực của đất nước ta, giữ được mơi
trường hịa bình, ổn định cho phát triển đất nước, tranh thủ được tốt nhất điều
kiện thuận lợi cho quá trình đổi mới cũng như quá trình phát triển kinh tế xã
hội. Đường lối đối ngoại là nội dung rất quan trọng trong văn kiện Đại hội
XIII của Đảng, được Đảng ta kế thừa, bổ sung và phát triển trong điều kiện
lịch sử mới với những quan điểm, tư tưởng rất toàn diện sâu sắc để thực hiện
khát vọng dân tộc phồn vinh, hạnh phúc.
Những quan điểm chỉ đạo mới của Đại hội Đảng XIII về đối ngoại có ý nghĩa
quan trọng trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng và toàn
diện với khu vực và thế giới, đưa con thuyền Việt Nam vững vàng đi ra biển
lớn. Do đó, nghiên cứu vấn đề: “Những nội dung chủ yếu trong đường lối
đối ngoại của Đảng, Nhà nước Việt Nam theo tinh thần nghị quyết Đại hội
XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam” có ý nghĩa rất quan trọng đối với các
cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị trong lãnh đạo, tổ chức thực hiện thắng
lợi đường lối đối ngoại của Đảng theo chức năng, nhiệm vụ đảm nhiệm.
Phạm vi của tiểu luận đi sâu làm rõ những nội dung chủ yếu cục diện
thế giới và yêu cầu công tác đối ngoại trong thời kỳ mới; liên hệ trách nhiệm
của Quân đội, bản thân trên cương vị, chức trách, nhiệm vụ được giao.
NỘI DUNG
I. NHỮNG BIẾN ĐỔI CỤC DIỆN THẾ GIỚI HIỆN NAY
Có thể quan niệm cục diện thế giới là tình hình mọi mặt của thế giới, là
bức tranh toàn cảnh phản ánh tổng quan lực lượng và quan hệ giữa các chủ
thể của quan hệ quốc tế, trước hết là các cường quốc, các trung tâm quyền lực
lớn trong một phạm vi không gian và ở một khung thời gian nhất định. Về
nội hàm, cục diện thế giới bao quát tất cả các lĩnh vực từ chính trị, kinh tế,
qn sự đến văn hóa, tơn giáo… Về khung thời gian, có thể là một thời điểm
hay một khoảng thời gian cụ thể là vài năm. Theo đó, cục diện thế giới là bức
tranh tồn cảnh của diện mạo thế giới trên một “lát cắt” thời gian cụ thể.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận định:
“Thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng,
phức tạp, khó dự báo. Hồ bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song
đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn; cạnh tranh chiến lược giữa các
nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và
quyết liệt hơn, làm gia tăng rủi ro đối với mơi trường kinh tế, chính trị, an
ninh quốc tế. Tồn cầu hố và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển nhưng đang
bị thách thức bởi sự cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước lớn và sự trỗi dậy
của chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Luật pháp quốc tế và các thể chế đa phương
toàn cầu đứng trước những thách thức lớn.
Cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm;
các nước lớn vẫn hợp tác, thoả hiệp, nhưng đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau gay
gắt hơn. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ
nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế gia tăng. Các nước đang phát triển,
nhất là các nước nhỏ đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới.
Kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng, suy thối nghiêm trọng và có
thể cịn kéo dài do tác động của đại dịch Covid-19. Các quốc gia, nhất là các
nước lớn, điều chỉnh lại chiến lược phát triển, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên
ngoài, làm thay đổi các chuỗi cung ứng. Cạnh tranh kinh tế, chiến tranh
thương mại, tranh giành thị trường, các nguồn tài nguyên, công nghệ, nhân
lực chất lượng cao, thu hút đầu tư nước ngoài giữa các nước ngày càng quyết
liệt, tác động mạnh đến chuỗi sản xuất và phân phối toàn cầu.
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số phát
triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức
đối với mọi quốc gia, dân tộc.
Những vấn đề toàn cầu, như: bảo vệ hồ bình, an ninh con người, thiên
tai, dịch bệnh, an ninh xã hội và an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh
mạng, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ô nhiễm môi trường,... tiếp tục diễn
biến phức tạp.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó Đơng Nam Á có vị trí
chiến lược ngày càng quan trọng, là khu vực cạnh tranh gay gắt giữa các
cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền
biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn. Hồ bình, ổn định, tự
do, an ninh, an tồn hàng hải, hàng khơng trên Biển Đông đứng trước thách
thức lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột. ASEAN có vai trị quan trọng trong duy
trì hồ bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác khu vực nhưng cũng đứng trước nhiều
khó khăn”1. Để nhận rõ tình hình thế giới hiện nay, có thể căn cứ vào một số
nội dung chủ yếu sau:
1. Xu hướng đa cực, đa trung tâm và sự cạnh tranh chiến lược
của các nước lớn
Thế giới đã chứng kiến 3 cuộc chuyển giao quyền lực lớn làm thay đổi
cơ bản đời sống quốc tế trên mọi mặt, từ chính trị, quân sự đến kinh tế, văn
hóa. Cuộc chuyển giao quyền lực thứ nhất là sự trỗi dậy của châu Âu từ thế
kỷ XV đến cuối thế kỷ XVIII dưới tác động của cách mạng công nghiệp,
thương mại và đầu tư. Cuộc chuyển giao thứ hai là sự trỗi dậy của Mỹ bắt
đầu từ những năm cuối thế kỷ XIX, nhất là từ sau chiến tranh thế giới thứ hai
(1945), Mỹ trở thành siêu cường chi phối trật tự quốc tế cho tới cuối thế kỷ
XX. Bước vào thế kỷ XXI, do suy yếu tương đối của Mỹ và sự trỗi dậy mạnh
mẽ của một số nước, nổi bật là Trung Quốc và Ấn Độ dẫn tới sự chuyển dịch
quyền lực lần thứ thứ ba trên phạm vi tồn cầu. Đó là sự chuyển dịch trọng
tâm quyền lực từ Tây sang Đông và dẫn tới sự thay đổi tương quan so sánh
lực lượng giữa các nước lớn trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Sự
chuyển dịch lần thứ ba này đã và đang tác động đến quan hệ quốc tế, tập hợp
lực lượng giữa các nước không chỉ trong phạm vi các khu vực mà biến động
sâu sắc tới toàn cầu. Sự chuyển dịch đó làm cho cục diện thế giới theo hướng
đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh hơn.
1
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQG ST, HN, 2021, t.1.
Trong bối cảnh như vậy, sự cọ sát và cạnh tranh chiến lược, điều chỉnh
chiến lược, tranh giành ảnh hưởng giữa các nước lớn ngày càng gia tăng,
quyết liệt, tác động sâu rộng đến an ninh, chính trị thế giới.
Mỹ với mục tiêu duy trì vị thế siêu cường duy nhất, tiếp tục đẩy mạnh
chiến lược quân sự, an ninh toàn cầu bằng việc tập hợp lực lượng, điều chỉnh
chiến lược với từng khu vực để khống chế, kìm hãm các thế lực thách thức
“ngôi vị số 1” của Mỹ. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, chính quyền mới
của Mỹ vừa phải thận trọng trong việc tìm cách cân bằng lợi ích của Mỹ trên
thế giới, vừa củng cố và tăng cường vị thế siêu cường của Mỹ, đưa nước Mỹ
“vĩ đại trở lại”, đảm bảo Mỹ vẫn là quốc gia đặt ra luật chơi trong quan hệ
quốc tế. Hiện tại, về kinh tế, Mỹ vẫn là nền kinh tế số một với hơn 18.000 tỷ
USD, gần bằng 25% tồn cầu. Tài sản tư nhân của Mỹ cịn cao hơn thế,
đã vượt
90.000 tỷ USD bằng 34% toàn thế giới, giàu hơn cả khối Châu Âu và cao hơn
nhiều so với nền kinh tế Trung Quốc. Mỹ tiếp tục dẫn đầu trong cuộc cách
mạng khoa học công nghệ lần thứ tư. Ngân sách quân sự của Mỹ hiện nay
gần 700 tỷ USD/năm, chiếm gần 50% chi phí quân sự trên toàn cầu, bằng
tổng ngân sách của 12 nước đứng sau. Chi tiêu cho nghiên cứu quốc phòng
của Mỹ chiếm 50% tổng chi dành cho nghiên cứu của tất cả các nước khác.
Thực tế cho thấy trong tương quan lực lượng trên thế giới hiện nay, Mỹ tiếp
tục duy trì được tiềm lực mạnh nhất cả về chính trị, kinh tế, khoa học công
nghệ và quân sự. Tuy nhiên sức mạnh tương đối so với các nước lớn khác
đang bị thu hẹp, vị trí số một thế giới của Mỹ ngày càng bị thách thức và có
nguy cơ bị một số nước vượt qua trong một số lĩnh vực nhất định.
Một trong những đối thủ nặng cân nhất cạnh tranh vị trí của Mỹ trong
trật tự thế giới là Trung Quốc. Với mục tiêu chiến lược xuyên suốt là vươn
lên thành cường quốc số 1 thế giới, Trung Quốc tập trung phát triển kinh tế
và đầu tư mạnh về quân sự. Trung Quốc tuyên bố “vĩnh viễn không xưng bá,
vĩnh viễn không bành trướng”, nhưng lại nhấn mạnh nhiệm vụ hàng đầu của
chính sách đối ngoại là kiên quyết bảo vệ chủ quyền, an ninh và lợi ích phát
triển quốc gia, “quyết không khuất phục trước bất cứ sức ép nào từ bên
ngồi”. Trung Quốc địi hỏi “quyền lợi và nghĩa vụ cân bằng” khi tham gia
quản trị toàn cầu; ưu tiên các cơ chế khu vực và liên khu vực mà Trung Quốc
có lợi ích, hướng các cơ chế này vào phục vụ tốt nhất cho lợi ích của Trung
Quốc. Trung Quốc đang từng bước từ bỏ chính sách “giấu mình chờ thời”; tự
tin và thực dụng hơn trong đối ngoại; sử dụng mạnh hơn “con bài kinh tế”
trong quan hệ với các nước; chủ động và cứng rắn hơn trong quan hệ với các
nước lớn, các nước láng
giềng, nhất là trong những vấn đề Trung Quốc coi là có lợi ích “cốt lõi”;
Trung Quốc đang từng bước thúc đẩy thay đổi trật tự khu vực và thế giới với
sức mạnh được tăng lên sau nhiều năm phát triển, đang mở rộng không gian
chiến lược để khẳng định vị thế cường quốc khu vực và quốc tế. Để hiện thực
hóa “giấc mộng Trung Hoa”, Trung Quốc triển khai nhiều biện pháp chiến
lược, như tăng thực lực quân sự, chú trọng phát triển nhanh chóng lực lượng
hải quân để mở rộng hoạt động ra hướng biển, gia tăng ảnh hưởng ở Đông
Nam Á, Đông Á, từng bước cạnh tranh ảnh hưởng với Mỹ ở Châu Á – Thái
Bình Dương. Tiến bước xa hơn, Trung Quốc đẩy mạnh thực thi sáng kiến
“Vành đai và con đường”, tham gia và thúc đẩy nhóm nước kinh tế mới nổi
(BRICS) và Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO), hướng tới xây dựng cơ chế
hợp tác lấy Trung Quốc là trọng tâm, động lực. Căng thẳng, cọ sát giữa
Trung Quốc với Mỹ đã, đang và sẽ diễn ra tại nhiều khu vực trên thế giới;
song, ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, đặc biệt là ở Biển Đông đang
theo hướng ngày càng gia tăng.
Trong khi đó, Nga mặc dù đang gặp nhiều khó khăn thách thức nhưng
vẫn khẳng định vai trị của một cường quốc, cạnh tranh ảnh hưởng với Mỹ
trong việc can dự và giải quyết nhiều vấn đề lớn của thế giới. Nga đã thành
công trong việc bảo vệ lợi ích chiến lược tại Ucraina và nhiều khu vực khác
trong không gian “hậu Xô viết”, ngăn chặn đáng kể bước “Đông tiến” của
Mỹ và NATO; tham gia trực tiếp vào cuộc chiến chống IS và ngăn chặn Mỹ Phương Tây can thiệp quân sự sâu vào Xy-ry. Mục tiêu lâu dài của Nga là
khôi phục lại vị thế siêu cường của Liên Xô trước đây, song tới nay, vị thế
của Nga vẫn chưa được cải thiện đáng kể. Thời gian tới, Nga sẽ đẩy mạnh
triển khai chiến lược nhằm giành lại vị thế của mình tại các khu vực ảnh
hưởng truyền thống. Mặc dù gặp nhiều khó khăn về kinh tế nhưng Nga vẫn
khẳng định vai trò của một cường quốc. Trong cuộc khủng hoảng Ucraina
mong muốn trở thành đồng minh NATO, Nga tìm mọi cách buộc Mỹ và
phương Tây muốn giải quyết vấn đề Ucraina phải có sự tham gia của Nga.
Đặc biệt, Nga chủ động sáp nhập Crưm và tiến hành “chiến dịch quân sự đăc
biêṭ” đối với Ucraina nhằm ngăn chăn nước naỳ gia nhâp Nato và phi qn sự
hóa cũng như phi phát
xít hóa của Ucraina đã gây biến động chính trị lớn ở Châu Âu khiến căng thẳng
giữa Nga, Mỹ và phương Tây càng gay gắt. Mỹ và phương Tây áp dụng
nhiều biện pháp trừng phạt về kinh tế và đe dọa về quân sự với Nga… Đối
phó với các động thái của phương Tây, Nga tăng cường lực lượng, vũ khí,
triển khai tấn cơng và giành nhiều thắng lợi trong việc sử dụng vũ khí cơng
nghệ cao để
khơng kích lực lượng Nhà nước Hồi giáo tự xưng (IS) ở Xyri, cũng như chiến
dịch quân sự ở Ucraina . Điều đó chứng tỏ, Nga có đủ lực và sẵn sàng bảo vệ
lợi ích của mình, đồng thời buộc Mỹ và phương Tây phải tính tới vai trị của
Nga trên thế giới.
Hiện nay, Nhật Bản vẫn là cường quốc kinh tế thế giới nhưng nhiều
khả năng sẽ bị Ấn Độ thách thức ở vị trí số 3. Mục tiêu chiến lược của Nhật
Bản là trở thành một cường quốc phát huy ảnh hưởng cả về kinh tế, chính trị
và quân sự trong khu vực và trên thế giới. Về đối ngoại, chính phủ Nhật Bản
triệt để phát huy cơng cụ “ngoại giao kinh tế”, sửa đổi Hiến pháp, gỡ bỏ một
số ràng buộc nội bộ để tăng quyền tự do hành động trong một số vấn đề liên
quan đến an ninh quốc gia, tăng cường quan hệ đồng minh với Mỹ, cùng Mỹ
liên kết chặt chẽ và chia sẻ trách nhiệm. Ở khu vực, Nhật Bản tập trung xử lý
quan hệ với Trung Quốc, mức độ tùy thuộc lợi ích kinh tế giữa Nhật Bản và
Trung Quốc tiếp tục gia tăng nhưng căng thẳng nhất là tranh chấp trên biển
ngày càng gia tăng.
Nhật Bản quan tâm hơn tới các nước Đơng Nam Á vì lợi ích chiến lược
và lợi ích kinh tế, tham gia tích cực hơn các cơ chế hợp tác do ASEAN chủ
đạo để có vai trị lớn hơn.
Nhiều dự báo cho thấy, Ấn Độ sẽ rút ngắn khoảng cách với Nhật Bản
để chuẩn bị trở thành nền kinh tế thứ 3 thế giới, thậm chí có thể ở vị trí cao
hơn vào năm 2050. Về đối ngoại, Ấn Độ tiếp tục duy trì cân bằng quan hệ với
các nước lớn, trước hết là Mỹ và Trung Quốc, nhưng cạnh tranh lợi ích và
ảnh hưởng với Trung Quốc sẽ gay gắt hơn. Ấn Độ tiếp tục khẳng định ảnh
hưởng của mình ở khu vực Nam Á và Ấn Độ Dương, đẩy mạnh chiến lược
“hướng Đông” và gia tăng ảnh hưởng ở Đông Nam Á và Đông Á, quan tâm
hơn đến an ninh biển và bảo vệ trật tự trên biển.
Liên minh Châu Âu (EU) có vị trí, vai trị quan trọng trong đời sống
kinh tế, chính trị trên thế giới. Các thành viên trong EU sẽ tiếp tục duy trì
quan hệ đồng minh chiến lược với Mỹ trong các vấn đề toàn cầu; tăng cường
liên kết quốc phòng để tự phòng thủ và bảo vệ quyền lợi ở các khu vực cận
kề Châu Âu; tiếp tục nâng cao vai trò và vị thế của EU trên cơ sở đẩy mạnh
hoạt động của các tổ chức đa phương quốc tế; quan tâm hơn tới quan hệ với
các nước Châu Á – Thái Bình Dương, trong đó chú trọng thúc đẩy quan hệ
với Trung Quốc về kinh tế. Tuy nhiên Liên minh Châu Âu cơ bản vân đang
phuụ thuộc
vào Mỹ về kinh tế, chính trị, quân Hiện tại dướ i sự dẫn dắt chỉ đạo của Mỹ,
sư.̣
EU đang cuǹ g đồng minh tiến haǹ h sử dụng các biện pháp khắc nghiệt với
Nga, sau khi nướ c này tiến hành hành “chiến dịch quân sự đặc biệt” đối với
Ucraina , trong khi đó EU lai phu ̣ thuộc rất lớn vào các hàng hóa nhập khẩu
của Nga, nhất là năng lượng, lương thực, khống sản…chính vì vậy, nội bộ
EU và trong từng nước của EU cũng đang nảy sinh những thách thức chưa
từng có về khủng hoảng suy thoaí về kinh tế, người tị nạn, nợ công, nguy cơ
khủng bố và đặc biệt là việc Anh ra khỏi EU.
Như vậy, cạnh tranh quyền lực, lợi ích và vị thế chiến lược giữa các
nước, đặc biệt là giữa Mỹ, Trung Quốc, Nga, Ấn Độ đang diễn ra ngày càng
quyết liệt. Tình hình đó dẫn tới xu hướng liên minh, liên kết, tập hợp lực
lượng và chạy đua vũ trang mang tính đối đầu có chiều hướng gia tăng. Từ
đó sẽ nảy sinh những điểm nóng tại nhiều khu vực trên thế giới, làm cho tình
hình an ninh thế giới có nhiều biến động. Cục diện thế giới đang trong quá
trình diễn biến nhanh chóng theo hướng đa cực, đa trung tâm.
2. Các vấn đề toàn cầu và an ninh phi truyền thống ngày
càng nghiêm trọng
Ngày nay tất cả các quốc gia trên thế giới đều chịu tác động của vấn đề
toàn cầu như khủng bố quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia, phổ biến vũ khí hủy
diệt, thảm họa thiên tai, thảm họa mơi trường sinh thái, nghèo đói và dịch
bệnh, an ninh lương thực, an ninh nguồn nước, an ninh mạng. Đại dịch
Covid-19 với sức tàn phá vơ cùng nhanh chóng trên khắp thế giới thực sự đã
trở thành thảm họa của nhân loại. Bên cạnh đó, cạn kiệt tài nguyên, nhất là
năng lượng và nguồn nước cũng đang là vấn đề nổi trội, tác động tới an ninh
và phát triển của nhiều nước, nhiều khu vực. Nhu cầu về tài nguyên của các
nền kinh tế, đặc biệt là các nền kinh tế mới nổi và các nền kinh tế của các
nước đang phát triển sẽ tăng vọt dẫn tới việc cạnh tranh các nguồn tài nguyên
vốn đã gay gắt sẽ trở nên nghiêm trọng hơn.
Cùng với những vấn đề đe dọa an ninh toàn cầu và an ninh phi truyền
thống nêu trên, an ninh biển cũng đang nổi lên trong thời gian tới. An ninh
biển không chỉ liên quan đến an toàn các tuyến đường hàng hải mà ngày càng
mở rộng ra các khía cạnh khác như an ninh mơi trường biển, các nguồn lợi
hải sản. Do tác động của việc gia tăng các tranh chấp biển, đảo và các chuyển
biến của an ninh phi truyền thống khác, an ninh biển sẽ trở thành một trong
những vấn đề chi phối quan hệ giữa các nước.
Thế giới đang ở trong thời kỳ có nhiều xáo động. Chủ nghĩa dân tộc
nổi lên rất mạnh, chủ nghĩa phân hóa cũng đang phát triển và những tư tưởng
cũng như hành vi công quyền, cực đoan đang trỗi dậy. Vấn đề dân tộc, tôn
giáo chưa
bao giờ phức tạp như bây giờ. Tất cả những điều đó khơng thể giải quyết
trong một sớm, một chiều, mà sẽ kéo dài, vô cùng phức tạp.
3. Kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn
Thực tế hiện nay và dự báo trong thời gian tới, nền kinh tế thế giới có
nhiều biến động phức tạp, địa vị của các nền kinh tế lớn trên thế giới đang bị
xáo trộn. Nổi bật nhất là sự phát triển kinh tế của các nước gặp nhiều khó
khăn, tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại. Hậu quả của khủng hoảng kinh tế
toàn cầu do đại dịch Covid-19 gây ra ảnh hưởng tới nhiều nước, nhất là một
số nền kinh tế lớn. Kinh tế Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ suy giảm nghiêm trọng,
khu vực đồng tiền chung Châu Âu vừa gặp phải một cú sốc mạnh là nước
Anh rời khỏi EU, nay lại vấp vào cuộc khủng hoảng này nên sẽ gặp nhiều
thách thức. Kinh tế Trung Quốc tăng trưởng đang chậm dần lại bồi thêm
thiên tai và dịch bệnh nên càng đối mặt với những khó khăn chồng chất. Hiện
tại các nước phải tập trung cấu trúc lại nền kinh tế, chuyển đổi mơ hình tăng
trưởng, hướng tới phát triển trong điều kiện mới nhưng vẫn chưa thể lấy lại
đà tăng trưởng một cách mạnh mẽ trong những năm tới.
4. Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương biến động phức tạp
Về kinh tế, Châu Á – Thái Bình Dương ln chiếm tỷ trọng lớn trong
kinh tế thế giới. Chỉ riêng các nền kinh tế thành viên Diễn đang Hợp tác kinh
tế Châu
Á – Thái Bình Dương (APEC) đã chiếm hơn 40% dân số, 55% tổng GDP và
44% thương mại thế giới. Những năm qua, trong khi các khu vực khác gặp
khó khăn kinh tế, các nước Châu Á – Thái Bình Dương vẫn duy trì tốc độ
tăng trưởng khá cao và trở thành đầu tàu phục hồi kinh tế thế giới.
Về chính trị, Châu Á – Thái Bình Dương trở thành một trong những
khu vực biến động nhất thế giới. Tính chất phức tạp của tranh chấp lãnh thổ,
biển, đảo ở khu vực; quá trình Trung Quốc vươn ra cả về kinh tế và quân sự
cùng với việc Mỹ thúc đẩy chiến lược tăng cường sự hiện diện mọi mặt, nhất
là về an ninh, quân sự làm cho khu vực luôn ở trạng thái hòa dịu xen lẫn căng
thẳng. Các vấn đề do lịch sử để lại, tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo và những
biến động chính trị, chiến lược cũng làm cho chủ nghĩa dân tộc ở một số địa
bàn nổi lên mạnh mẽ.
ASEAN và từng nước thành viên đều đứng trước nhiều cơ hội và thách
thức. Tốc độ liên kết cịn chậm. Việc xây dựng Cộng đồng có tiến triển
nhưng mức độ thực chất còn thấp. ASEAN tiếp tục là một tổ chức chưa thật
chặt chẽ nhưng vẫn có vai trị quan trọng trong việc điều hịa lợi ích giữa các
nước lớn
đối với khu vực. Trong bối cảnh chung của thế giới, ASEAN tiếp tục giữ và
khai thác vị trí địa chiến lược của mình, bảo đảm khả năng thích ứng và tự
chủ trong quan hệ với các nước lớn. ASEAN ưu tiên triển khai tầm nhìn 2025
và các kế hoạch hợp tác trên 3 trụ cột chính trị, kinh tế và văn hóa xã hội; thu
hẹp khoảng cách phát triển và tăng cường kết nối; duy trì đồn kết nội khối;
tăng cường quan hệ đối ngoại với tất cả các đối tác ngoài khu vực.
5. Trào lưu dân túy, xu hướng bảo hộ có chiều hướng gia tăng
Trào lưu dân túy trong thời gian gần đây đang ngày càng gia tăng, nổi
lên mạnh mẽ ở các nước phát triển. Ở châu Âu, lần đầu tiên các đảng dân túy
có mặt tại hầu hết các quốc hội, chiếm ít nhất 10% số phiếu ủng hộ tại 16
nghị viện châu Âu, là lực lượng lớn nhất trong quốc hội 6 nước (Hy Lạp,
Hunggari, Italia, Ba Lan, Slovakia và Thụy Sỹ).
Trào lưu dân túy ở châu Âu có đặc điểm là phản đối xu hướng liên kết
hội nhập, phê phán các chính sách ủng hộ tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế,
chống nhập cư, phản đối việc đặt lợi ích của EU lên trên chủ quyền và lợi ích
quốc gia. Ở Mỹ, trào lưu dân túy cánh hữu nổi lên lôi kéo sự tham gia của
nhiều thành viên Đảng Cộng hòa và đỉnh điểm là thắng lợi trong bầu cử Tổng
thống D.Trump, đánh dấu việc lần đầu tiên một ứng cử viên theo đường lối
dân túy nắm quyền lãnh đạo nước Mỹ với khẩu hiệu “Nước Mỹ trên hết”.
Trào lưu dân túy hiện đang gây ra một số tác động khá tiêu cực. Ở trong
nước, các trào lưu dân túy cổ vũ cho việc xây dựng một nhà nước mạnh và
chuyên chế, đủ năng lực để kiểm soát chặt chẽ lãnh thổ và biên giới quốc gia,
bảo vệ lợi ích của người dân. Kết quả lại làm tăng thêm các mâu thuẫn nội
bộ, đẩy tình trạng bất ổn lên cao, làm cho chính sách đối nội và đối ngoại bất
định. Đối với bên ngoài, trào lưu này chống liên kết, hội nhập quốc tế và khu
vực, gắn ưu tiên thậm chí ly khai khỏi các cơ chế đa phương như trường hợp
Anh rút khỏi EU, Mỹ rút khỏi TPP và rút khỏi Hiệp định Paris về chống biến
đổi khí hậu. Điều đó làm giảm hợp tác, tăng cạnh tranh, xung đột và do đó
đưa đến những căng thẳng mới trong quan hệ quốc tế.
Gần đây xu hướng bảo hộ hoặc còn gọi là chủ nghĩa bảo hộ phát triển
mạnh tại Mỹ và một số nước Tây Âu. Tại các nước này, những lực lượng ủng
hộ tự do hóa kinh tế đang suy yếu và co lại, trong khi trào lưu phản kháng tự
do hóa, phản kháng tồn cầu hóa lại trỗi dậy, nhất là sau sự kiện Brexit và
bầu cử Tổng thống Mỹ. Thực hiện theo xu hướng đó, số lượng biện pháp bảo
hộ tăng mạnh, lĩnh vực bảo hộ mở rộng với nhiều biện pháp phức tạp, tinh vi
hơn.
Bảo hộ khơng cịn chỉ giới hạn trong lĩnh vực trao đổi hàng hóa dịch vụ, mà
cịn bao gồm cả tài chính, bảo hộ đầu tư, sở hữu trí tuệ, dịch vụ tự do lao
động… Việc quay trở lại chủ nghĩa bảo hộ, đóng cửa thị trường, hạn chế liên
kết
kinh tế, giảm sự ủng hộ đối với tự do thương mại đa phương, cản trở thương
mại và đầu tư quốc tế đã và đang tạo ra hệ lụy tiêu cực đến tiến trình tăng
trưởng kinh tế thế giới và làm chậm lại q trình đổi mới mơ hình tăng
trưởng trên thế giới. Xu hướng bảo hộ ở một số nền kinh tế lớn, đặc biệt là
Mỹ sẽ làm tăng mâu thuẫn, bất đồng vốn có về một số vấn đề kinh tế, thương
mại, do đó làm gia tăng va chạm lợi ích, khơng loại trừ có những hành động
“trả đũa” dẫn tới chiến tranh thương mại, tỷ giá. Tình hình đó làm cho liên
kết kinh tế khu vực và tồn cầu đứng trước nhiều khó khăn, tồn cầu cầu hóa
có xu hướng bị chậm lại.
II. NHỮNG YÊU CẦU ĐẶT RA TRONG ĐƯỜNG LỐI ĐỐI
NGOẠI CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
1. Tiếp tục đề cao quan điểm, mục tiêu đối ngoại là “Bảo đảm cao
nhất lợi ích quốc gia - dân tộc”
Trong mọi giai đoạn cách mạng, lợi ích quốc gia - dân tộc luôn là vấn
đề cốt lõi và xuyên suốt chi phối việc hoạch định chủ trương, đường lối,
chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta. Đây là vấn đề bất di bất dịch
mang tính ngun tắc khơng bao giờ thay đổi, mở rộng quan hệ đối ngoại và
hội nhập quốc tế phải đặt lên hàng đầu vấn đề về lợi ích quốc gia - dân tộc.
Đó là bài học sương máu đã được ông cha và Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra từ
thực tiễn lịch sử dựng nước, giữ nước không bao giờ được phép nhân nhượng
với kẻ thù, phải nắm vững, vận dụng linh hoạt, sáng tạo nguyên tắc “Dĩ bất
biến, ứng vạn biến” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng sử dụng trong quá
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam vào từng điều kiện, hoàn cảnh khác nhau.
Tại Đại hội XII, Đảng ta nhấn mạnh: Ln coi lợi ích quốc gia - dân tộclà tối
thượng; là mục tiêu cao nhất, quan trọng nhất, có nghĩa định hướng hoạt động
đối ngoại trên tất cả các lĩnh vực.
Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới hiện nay, Đại hội XIII của Đảng
một lần nữa khẳng định và nhấn mạnh: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và
luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”2. Đây vừa là quan điểm
chỉ
2
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb CTQGST, H, 2021,
tr.161-162
đạo, vừa là vấn đề có tính ngun tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta;
là nền tảng vững chắc của Đảng ta và là định hướng rất quan trọng để các
cấp, ngành, lĩnh vực xử lý các vấn đề, các tình huống trong quan hệ hợp tác
quốc tế một cách đúng đắn, linh hoạt, sáng tạo, tích cực, chủ động và hiệu
quả. Đồng thời, Đại hội XIII của Đảng khẳng định bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộcgiữ vị trí cao nhất, mục tiêu cao nhất trong sự nghiệp đổi mới đất nước
hiện nay. Trong q trình hội nhập quốc tế sâu rộng, tồn diện hiện nay, phải
lấy lợi quốc gia - dân tộc làm xuất phát điểm, đích hướng tới để lãnh đạo, chỉ
đạo hoạt động đối ngoại và tham gia hội nhập quốc tế của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân ta; phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, trước hết và
phải bảo vệ cho được lợi ích đó trong mọi hoàn cảnh trên cơ sở tuân thủ luật
pháp quốc tế. Quan điểm “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc” thể
hiện tầm nhìn xa trơng rộng, khách quan của Đảng trong hoạch định và triển
khai chính sách đối ngoại. Đồng thời, đó là mục tiêu, nguyên tắc cao nhất
trong các hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước và ngoại giao nhân dân.
2. Khẳng định vị trí, vai trị chiến lược của cơng tác đối ngoại,
đặc biệt là đối ngoại đa phương
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, ông cha ta luôn lấy ngoại giao
hòa hiếu làm thượng sách giữ nước. Trong đấu tranh giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đối ngoại đi đầu tạo thế
"vừa đánh, vừa đàm", tranh thủ ủng hộ quốc tế, phá bao vây cấm vận, mở ra
cục diện phát triển mới cho đất nước. Trong công cuộc đổi mới, đối ngoại đi
đầu trong kiến tạo hịa bình, bảo vệ Tổ quốc và thu hút nguồn lực cho phát
triển đất nước. Đại hội XIII của Đảng lần đầu tiên khẳng định: “Tiếp tục phát
huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững mơi
trường hồ bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển
đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước”3.Như vậy, việc khẳng định
vai trò tiên phong của đối ngoại trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng là
bước phát triển mới về tư duy đối ngoại của Đảng trên cơ sở vận dụng sáng
tạo tư tưởng giữ nước mang tính chủ động cao của dân tộc, đúc kết thực tiễn
phát triển và hội nhập quốc tế của đất nước, tiếp thu chọn lọc kinh nghiệm
quốc tế và phù hợp với xu thế hịa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới.
Vai trò tiên phong thể hiện ở việc đối ngoại đánh giá, dự báo tình hình, nhận
diện thời cơ và thách thức để bảo vệ đất
3
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb CTQGST, H, 2021,
tr.162
nước từ sớm, từ xa, nhanh nhạy phát hiện các vấn đề mới, tham mưu chiến
lược, thúc đẩy đổi mới tư duy, tìm hướng đi thuận lợi cho phát triển đất nước.
Đặc thù của đối ngoại là sử dụng các phương thức, biện pháp hịa bình để
ngăn ngừa, hóa giải và đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa,
qua đó góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia. Từ đó,tạo lập
và giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định, thuận lợi cho phát triển đất nước
và bảo vệ Tổ quốc.Trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, vai trò
tiên phong của đối ngoại đã được phát huy và thể hiện rõ qua hoạt động
“ngoại giao vắc-xin”, tranh thủ sự hỗ trợ kịp thời, hiệu quả của quốc tế về
vắc-xin, thiết bị y tế và thuốc điều trị, đóng góp quan trọng vào phịng,
chống, thích ứng an tồn với Covid-19 và phục hồi, phát triển kinh tế- xã hội.
Như vậy, cùng với tư duy tiên phong, tư duy phát triển là điểm mới
trong tư duy đối ngoại của Đảng tại Đại hội XIII. Một điểm mới là Chiến
lược phát triển kinh tế- xã hội 2021-2030 đề ra định hướng “xây dựng nền
ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển, lấy người dân, địa phương và doanh
nghiệp làm trung tâm”. Đây là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng “lấy dân là
gốc” trong đối ngoại, bởi việc thực hiện các nhiệm vụ đối ngoại xét đến cùng
là nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh. Ngồi
ra, Đại hội XIII còn nhấn mạnh đến đối ngoại đa phương, nhấn mạnh đến tính
chủ động tham gia phát huy vai trị của Việt Nam, của các bộ, ban, ngành,
của ba trụ cột, trên tất cả các lĩnh vực, xử lý các vấn đề của quốc gia, khu vực
và toàn cầu. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định:“Chủ động tham gia,
tích cực đóng góp, nâng cao vai trị của Việt Nam trong xây dựng, định hình
các thể chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ
các cam kết quốc tế và các hiệp định thương mại đã ký kết”4.
3. Đặt ra yêu cầu cho hoạt động đối ngoạivà hội nhập quốc tế
thời gian tới phải đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả, toàn diện, sâu rộng,
hiện đại
Triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng là định hướng bao trùm của
đối ngoại trong giai đoạn phát triển mới của đất nước. Tính đồng bộ thể hiện
ở sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các trụ cột đối ngoại, bao gồm đối
ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, giữa các mối quan hệ
với các đối tác, các lĩnh vực, nhất là đối ngoại quốc phòng, an ninh, giữa
song
4
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb CTQGST, H,
2021, tr.164 5Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb
CTQGST, H, 2021, tr.164
phương và đa phương… Tính sáng tạo địi hỏi đối ngoại không ngừng đổi
mới, linh hoạt, khôn khéo xử lý các vấn đề phức tạp, tìm hướng đi, cách làm
mới với “tinh thần chủ động tiến công, dám vượt ra khỏi những tư duy,
những lĩnh vực quen thuộc để có suy nghĩ và hành động vượt tầm quốc gia,
đạt tới tầm khu vực và quốc tế”[6]. Đương nhiên, sáng tạo phải trên cơ sở giữ
vững nguyên tắc, kiên định mục tiêu chiến lược. Tính hiệu quả thể hiện ở
việc đưa các quan hệ đối ngoại đi vào chiều sâu, thực chất, thiết thực, huy
động và kết hợp hiệu quả các nguồn lực bên ngoài với nguồn lực trong nước
để phục vụ tốt nhất phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Sự phát triển của
đất nước trong giai đoạn mới đặt ra yêu cầu ngày càng cao về tăng cường tính
đồng bộ, sáng tạo và hiệu quả trong hoạt động đối ngoại.
Tính tồn diện và sâu rộng trong hội nhập quốc tế thể hiện qua tất cả
các kênh Đảng, Nhà nước và nhân dân, song phương và đa phương, ở tất cả
các cấp, các ngành, các lĩnh vực. Không chỉ rộng mở về không gian, hội nhập
quốc tế tiếp tục đi vào chiều sâu, triển khai các cam kết quốc tế; thể hiện ở
chủ thể thực hiện đối ngoại bao gồm cả hệ thống chính trị, các tổ chức xã hội,
doanh nghiệp và nhân dân; trên tấtcả các lĩnh vực chính trị, quốc phịng, an
ninh, kinh tế- xã hội: “Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả hội nhập
quốc tế trong các lĩnh vực xã hội, môi trường, khoa học và công nghệ, giáo
dục và đào tạo, văn hóa, du lịch và các lĩnh vực khác”5; với tất cả đối tác, địa
bàn, khu vực, trọng tâm là đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các
nước láng giềng, đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, đối tác quan trọng và
bạn bè truyền thống.Tính tồn diện của nền ngoại giao Việt Nam dựa trên cả
ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân. Về
lĩnh vực, đó là ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa,
cơng tác đối với người Việt Nam ở nước ngồi và bảo hộ công dân;đối ngoại
kết hợp chặt chẽ với các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc
phòng và an ninh để tạo nên sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc.
Đại hội XIII của Đảng cũng xác định chủ trương mới trong xây dựng
nền ngoại giao, thông qua khẳng định: “Xây dựng nền ngoại giao toàn diện,
hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại
nhân dân”5. Như vậy, cùng với chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang cách
5
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb CTQGST, H, 2021,
tr.162
mạng chính quy, tinh nhuệ, tiến tới hiện đại, Đại hội Đảng XIII cũng đặt ra
nhiệm vụ có tính chiến lược đó là xây dựng nền ngoại giao tồn diện, hiện
đại. Đây là bước tiến mới có tính đột phá đối với hoạt động đối ngoại.Tính
hiện đại thể hiện ở tính chất nền ngoạigiao Việt Nam là sự kết hợp hài hòa
giữa truyền thống, bản sắc ngoại giao của dân tộc, tư tưởng ngoại giao Hồ
Chí Minh, đường lối đối ngoại của Đảng qua các thời kỳ và tinh hoa ngoại
giao thời đại; ở vận hành nền ngoại giao trong khn khổ thể chế ngày càng
hồn thiện, gắn kết chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa đối ngoại đảng, ngoại giao
nhà nước và đối ngoại nhân dân...
4. Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại đáp ứng với yêu
cầu, nhiệm vụ của giai đoạn mới
Đối với cán bộ làm công tác đối ngoại càng đặt ra những tiêu chuẩn,
yêu cầu rất cao, khơng chỉ có năng lực, phẩm chất về đạo đức, lối sống mà
cịn có những tiêu chí riêng. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Nâng cao bản
lĩnh, phẩm chất, năng lực, phong cách chuyên nghiệp, đổi mới sáng tạo của
đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế; chủ động thích
ứng trước chuyểnbiến của tình hình”6. Đây là những nội dung mới được
Đảng ta kế thừa ở các kỳ Đại hội trước, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục bổ
sung, phát triển ở một tầm cao mới, chỉ ra đối với đội ngũ cán bộ làm công
tác đối ngoại là “chuyên nghiệp”, “sáng tạo”, “chủ động thích ứng”. Điều này
cho thấy, Đảng ta rất quan tâm, chú trọng đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ
làm công tác đối ngoại, họ là lực lượng chủ yếu, thường xuyên tiến hành các
hoạt động đối ngoại; trong hoạt động cơng tác của mình phải thật sự tinh
thơng, hiểu biết khác hẳn về trình độ, khả năng ứng biến với các lực lượng,
bộ phận khác. Trước yêu cầu mới về xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện
đại, cần tiếp tục đặc biệt coi trọng công tác cán bộ đối ngoại, nhất là cơ chế,
chính sách và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đối ngoại tồn diện về phẩm chất,
trình độ và năng lực. Theo đó, phải tập trung xây dựng đội ngũ này thật sự
chuyên nghiệp để thích ứng nhanh với những biến động, bất ngờ của tình
hình thế giới, khu vực đặt ra.
5. Phương hướng, giải pháp đẩy mạnh hoạt động đối ngoại và hội nhập
quốc tế
Trên cơ sở khẳng định vị trí, vai trị, xác định mục tiêu, nhiệm vụ và
nhấn mạnh những điểm mới trong đường lối đối ngoại, Đại hội XIII của
Đảng
6
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb CTQGST, H, 2021,
tr.165
còn chỉ rõ phương hướng, giải phápđẩy mạnh hoạt động đối ngoại và hội
nhập quốc tế hiện nay, đó là:
Thứ nhất, tiếp tục giữ vững đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa
dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, lấy nguyên tắc của luật pháp quốc
tế để xử lý quan hệ đối ngoại. Để giữ được độc lập, tự chủ trong quan hệ đối
ngoại và hội nhập quốc tế, chúng ta phải có tầm nhìn chiến lược, khả năng
bao quát và dự liệu cả cơ hội và nguy cơ, đồng thời ln chủ động, tích cực
tham gia các cơ chế hợp tác quốc tế, đề xuất sáng kiến, đóng góp tích cực vào
q trình xây dựng thể chế và điều tiết quan hệ quốc tế. Đẩy mạnh đối ngoại
song phương và nâng tầm đối ngoại đa phương. Chủ động tham gia và phát
huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN, Liên
hợp quốc, APEC, hợp tác tiểu vùng Mê Kông và các khuôn khổ hợp tác khu
vực và quốc tế. Coi trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, truyền thống
với các nước láng giềng; đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song
phương với các đối tác, đặc biệt là các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và
các đối tác quan trọng khác, tạo thế đan xen lợi ích và tăng độ tin cậy...
Thứ hai, tăng cường lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng,
nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của các tổ chức
chính trị - xã hội và nhân dân trong quá trình hội nhập quốc tế và quan hệ đối
ngoại. Đây là yếu tố bên trong quyết định sự thắng lợi của cách mạng, sự
phát triển của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Để giữ vững sự lãnh đạo
của Đảng và tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước trong hội nhập và
phát triển song song với kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc thì phải tiếp tục
tăng cường xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh; củng cố, tăng cường lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước;
tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng trong Đảng, nhất là cho đội ngũ cán
bộ lãnh đạo chủ chốt, tham gia hoạt động hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực.
Thứ ba, nâng cao sức mạnh tổng hợp, huy động tiềm năng của toàn xã
hội. Nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia là yếu tố quyết định thành cơng
của q trình hội nhập quốc tế. Sức mạnh quốc gia - dân tộc là sự tổng hợp
của các yếu tố vật chất và tinh thần, truyền thống và hiện đại, là sức mạnh
khối đại đoàn kết tồn dân tộc, chính nghĩa dân tộc, sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó
là sức mạnh được tạo nên từ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, hiệu lực quản lý
của Nhà nước, của khối đoàn kết tồn dân tộc, của văn hóa, con người Việt
Nam;
sức mạnh của nền quốc phịng tồn dân, thế trận quốc phịng tồn dân gắn với
nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Khéo kết hợp
các yếu tố đó mới có vị thế trong q trình hội nhập và bảo đảm hội nhập mà
khơng bị hịa tan, khơng bị đánh mất bản sắc của mình. Hội nhập quốc tế
trong kỷ nguyên số hiện nay đòi hỏi phải phát huy được “sức mạnh mềm”, vị
thế mới về địa - chiến lược, địa - kinh tế, vươn lên đóng vai trị khởi xướng,
nịng cốt, hịa giải trong các vấn đề có ý nghĩa chiến lược với Việt Nam.
Thứ tư, tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược
về đối ngoại, không để bị động, bất ngờ.Nâng cao năng lực dự báo tình hình
quốc tế, khu vực phục vụ đắc lực yêu cầu bảo vệ an ninh quốc gia, giữ vững
độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế. Cần đổi mới tư duy, nghiên cứu có
chiều sâu, nhạy bén bám sát tình hình để có những dự báo xác đáng. Tập
trung nghiên cứu những biến động mới của tình hình thế giới, khu vực,
những điều chỉnh chiến lược và chính sách của các nước lớn, những mối
quan hệ giữa các nước lớn... để có những ứng phó phù hợp, hiệu quả. Theo
đó, cần tăng cường công tác nghiên cứu dự báo, chia sẻ thông tin về hội nhập
quốc tế; mở rộng đối thoại chính sách, trao đổi kinh nghiệm, tri thức về hội
nhập quốc tế.
Thứ năm, kiên quyết, kiên trì đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành
động can thiệp của các thế lực thù địch vào công việc nội bộ, xâm phạm độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định
chính trị đất nước. Do đó, cần phải chủ động phát hiện, ngăn chặn “từ sớm, từ
xa” các nguy cơ đe dọa đến quốc phòng - an ninh của đất nước. Phòng, chống
một cách chủ động mọi âm mưu, hoạt động lợi dụng hội nhập quốc tế để
chuyển hóa nội bộ; phát hiện ngăn chặn kịp thời các đối tác nước ngoài lợi
dụng các kẽ hở về luật pháp và sơ hở, yếu kém của ta để gây sức ép, trốn
thuế, thao túng thị trường trong nước; đấu tranh với các loại tội phạm có tổ
chức xun quốc gia như rửa tiền, bn lậu, sản xuất và tiêu dùng hàng giả,
gian lận thương mại, tín dụng đen, tội phạm sử dụng cơng nghệ cao. Tăng
cường quản lý hoạt động trên mạng xã hội và Internet, có biện pháp ngăn
chặn, đấu tranh có hiệu quả với những luận điệu sai tráicác thế lực thù địch
nhằm xuyên tạc, phủ nhậnđường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà
nước ta hiện nay.
III. TRÁCH NHIỆM CỦA QUÂN ĐỘI TRONG QUÁN TRIỆT, THỰC
HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VIỆT
NAM
1. Trách nhiệm của Quân đội trong thực hiện đường lối đối ngoại của
Đảng, Nhà nước Việt Nam
Đường lối đối ngoại có tầm quan trọng đặc biệt trong tổng thể đường
lối phát triển đất nước, với hai nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của đối ngoại là
bảo vệ Tổ quốc và giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định để triển khai các
nhiệm vụ xây dựng, phát triển đất nước và vì mục tiêu ở mức cao nhất, đó là:
“Vì lợi ích quốc gia, dân tộc”.Trong thời gian qua, cùng với hoạt động đối
ngoại của Đảng, ngoại giao của Nhà nước, ngoại giao nhân dân, hoạt động
đối ngoại quốc phịng khơng ngừng được đẩy mạnh theo hướng phát triển
sâu, rộng cả về phạm vi và mức độ hợp tác với các quốc gia, các tổ chức,
định chế quốc tế, góp phần từng bước đưa quốc phòng Việt Nam hội nhập thế
giới. Đối ngoại Quốc phòng là bộ phận quan trọng của nền ngoại giao Nhà
nước Việt Nam. Mục tiêu của đối ngoại Quốc phòng là thiết lập và phát triển
quan hệ về quốc phòng với tất cả các nước trên cơ sở bình đẳng, tơn trọng lẫn
nhau nhằm góp phần vào cơng cuộc củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng
lực lượng vũ trang, giữ vững mơi trường hịa bình, tạo điều kiện thuận lợi cho
công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.Đối ngoại Quốc
phòng bao gồm tổng thể các hoạt động, biên pháp hịa bình nḥ ằm thực hiên ̣
đường lối, chính sách đối ngoại, chính sách quốc phòng trong quan hê v ợ́ i
các nước, các tổ chức quốc tế, góp phần thực hiên tḥ ắng lợi mục tiêu, nhiêm
ṿ ụ xây dựng và bảo vê Tơ ̣ ̉ quốc, tham gia gìn giữ hịa bình, ổn định của khu
vực và trên thế giới.
Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực biến đổi nhanh chóng,
phức tạp, khó dự báo; chủ nghĩa dân tộc “thực dụng” ngày càng nổi lên trong
quan hệ quốc tế; sự tùy thuộc, đan cài lợi ích lẫn nhau giữa các quốc gia, dân
tộc càng trở nên phổ biến; các vấn đề an ninh phi truyền thống, thiên tai, dịch
bệnh mang tính tồn cầu diễn biến khó lường... Tình hình đó đặt ra u cầu
cấp thiết, địi hỏi mỗi cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội cần phải nhận thức đầy
đủ về vị trí, vai trị, tầm quan trọng của đường lối đối ngoại đối với sự phát
triển đất nước nói chung và đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc nói riêng. cần
nhân thức đúng đắn về mối quan ̣ hệ giữa thực lực đất nước và đối ngoại , xây
dựng sức mạnh tổng hợp , tạo nền tảng vững chắc để thực hiên kế sách bảo
vê T
̣ ô ̣ ̉ quốc từ sớm , từ xa bằng biên ̣ pháp hịa bình. Do đó, phải ln qn
triệt và triển khai theo đường lối đối ngoại, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng
được xác định trong Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng; Nghị quyết
Trung ương 8