Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Bệnh Ấu Trĩ Tả Khuynh Trong Ptcs .Docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.86 KB, 16 trang )

`
I.

Hoàn cảnh lịch sử ra đời của tác phẩm

Tác phẩm Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào cộng sản ra đời trong hồn
cảnh sơi động của phong trào cách mạng thế giới.
Chủ nghĩa tư bản đang trong cơn tổng khủng hoảng sau Chiến tranh thế giới thứ
nhất ( 1914-1918). Chiến tranh là kết quả của mâu thuẫn giữa đế quốc với đế quốc
và làm cho mâu thuẫn đó ngày càng gay gắt và nảy sinh mâu thuẫn trong mới trong
nội bộ mỗi nước: mâu thuẫn giữa tư sản với vô sản; giữa nông dân với địa chủ
phong kiến. Trước những mâu thuẫn đó, chủ nghĩa tư bản vốn đã khủng hoảng lại
càng khủng hoảng trầm trọng. Tình trạng khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản làm
xuất hiện tình thế cách mạng ở hàng loạt nước. Dự đón thiên tài của Lênin là biến
chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng đã được chứng minh trong thời kỳ
này.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới đã nổ ra và thắng lợi ở Nga.
Cách mạng Tháng Mười Nga thành công là sự kiện lịch sử vô cùng to lớn, là dấu
mốc mở đầu thời đại và cung cấp cho cách mạng thế giới mẫu mực kiệt xuất về
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Do ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười, cách mạng thế giơi phát triển rầm rộ,
phong trào cơng nhân phát triển nhanh chóng, ở nhiều nước điều kiện khách quan
và chủ quan của cách mạng đã chín muồi. Và trong thời kỳ này Đảng Cộng Sản ra
đời ở hàng loạt nước. Các Đảng Cộng Sản ra đời trên cơ sở phân hóa của Đảng xã
hội- dân chủ. Những người gia nhập Đảng Cộng Sản về cơ bản đã đoạn tuyệt lập
trường cơ hội chủ nghĩa, nhưng vẫ cịn chịu ảnh hưởng của chính Đảng xã hội- dân
chủ trên một vấn đề, kể cả những vấn đề quan trọng.
Các Đảng Cộng Sản ra đời đề ra nhu cầu thành lập quốc tế cộng sản mới. Ngaỳ 23-1919, tại Mátxcơva, Đại hội thành lập Quốc tế Cộng Sản đã được tổ chức. Quốc
tế mới ra đời tức là nhiệm vụ thứ nhất của phong trào cộng sản đã hoàn thành về cơ
bản, thu hút được đội tiên phong tồn thế giới đi theo cách mạng vơ sản.
Trong các Đảng Cộng sản, bệnh “tả khuynh” xuất hiện ngay sau khi Đảng ra đời.


Đấu tranh chống bệnh này trong các đảng viên là nhiệm vụ tất yếu để tập hợp quần
chúng lao động đi theo chủ nghĩa cộng sản. Tháng 5 năm 1918, Lênin viết tác
phẩm Bệnh ấu trĩ “ tả khuynh” trong phong tào cộng sản, tác phẩm phê phán sai
lầm của phái “tả” trong nội bộ Đảng Bơnsêvích Nga. Sau khi các Đảng Cộng Sản
ra đời, bệnh “ tả khuynh” đã phát sinh trên phạm vi quốc tế.
Lênin đã hoàn thành tác phẩm trước ngày Đại hội II của Quốc tế Cộng sản khai
mạc. Khi đến Đại hội, mỗi đại biểu đã có trong tay tác phẩm này. Trong hoàn cảnh


lịch sử lúc đó tác phẩm Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào cộng sản ra đời
đã đáp ứng được địi hỏi của phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế.

II.
1. Phần chính gồm 10 chương

BỐ CỤC

Chương I: Có thể nói đến ý nghĩa quốc tế của cách mạng Nga theo nghĩa nào
Ý nghĩa quốc tế của Cách mạng Nga
Được hiểu theo hai nghĩa
Nghĩa rộng: từ cả những nét chủ yếu và thứ yếu của Cách mạng Nga đều có ý
nghĩa quốc tế và nó tác động đến tất cả các nước.
Nghĩa hẹp: Những sự kiện diễn ra của Cách mạng Nga có ý nghĩa tất yếu lịch sử là
sẽ tái diễn trên phạm vi quốc tế.
Chương II: Một trong nhưng điều kiện căn bản đã làm cho những người Bơnsê-vích thành cơng
Lênin cho rằng kinh nghiệm của chun chính vơ sản thắng lợi ở Nga đã chỉ rõ chế
độ tập trung tuyệt đối và hết sức nghiêm minh của giải cấp vô sản là một trong
những điều kiện để chiến thắng giai cấp tư sản
Chương III:Những giai đoạn chính trong lịch sử của chủ nghĩa Bơn-sê-vích
A.Những năm chuẩn bị Cách mạng( 1903-1905)

B.Những năm Cách mạng( 1905-1907)
C.Những năm phản động hoành hành(1907-1910)
D.Những năm cao trào Cách mạng( 1910-1914)
E.Chiến tranh đế quốc chủ nghĩa thế giới lần thứ nhất( 1914-1917)
F.Cách mạng Nga lần thứ hai( từ tháng Hai đến tháng Mười 1917)
Chương IV: Chủ nghĩa Bơn-sê-vích đã trưởng thành, được củng cố và tôi
luyện trong cuộc đấu tranh chống những kẻ thu nào trong nội bộ phịng trào
cơng nhân
-Đấu tranh chống bọn cơ hội chủ nghĩa(1914)
-Chống chủ nghĩa vô chính phủ
-Chống đầu óc cách mạng tiểu tư sản, nửa vơ chính phủ


-Chống thiên hướng “ tả” trong phái Bơn-sê-vích
-Chống phái Mên-sê-vích và xã hội chủ nghĩa – cách mạng Nga
Chương V-Chủ nghĩa Cộng sản”Tả khuynh” ở Đức. Lãnh tụ- Đảng- Giai cấpQuần chúng
Lênin đã phê phán những lập luận về đường lối, chính sách của những người cộng
sản “ tả khuynh” ở Đức là mớ hỗn độn cũ rích và là luận điệu “ tả khuynh” ấu trĩ
Chương VI: Người cách mang có nên hoạt động trong các cơng đồn phản
động khơng?
Lênin đã khẳng định: Cơng đồn là tổ chức rộng rãi nhất để tập hợp cơng nhân.
Cơng đồn là trường học của chủ nghĩa cộng sản, Đảng liên hệ với quần chúng
thơng qua cơng đồn, cơng đồn là tổ chức quần chúng nhưng phải có đảng viên
hoạt động trong đó để thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức quần chúng.
Đảng liên hệ với quần chúng không chỉ thơng qua tổ chức cơng đồn mà cịn thơng
qua các tổ chức khác như: hợp tác xã, đoàn thanh niên, hội phụ nữ và các tổ chức
bảo hiểm. Ngoài những tổ chức trên, Đảng còn liên hệ với quần chúng bằng những
hội nghị cơng nhân và nơng dân.
Lênin địi hỏi người cộng sản nhất thiết phải hành động trong cơng đồn và phải
cơng tác ở bất cứ nơi nào có quần chúng, kể cả những tổ chức phản động nhất.

Chương VII: Có nên tham gia nghị viện tư sản không?
Lênin đã khẳng định: Đảng Cộng sản phải tham gia nghị viện tư sản.
Nghị viện tư sản là tổ chức phản cách mạng do giai cấp tư sản lập ra nhưng quần
chúng lạc hậu còn tin ở nghị viện, coi nghị viện là đại biểu chân chính của họ cho
nên người cộng sản phải tham gia vào tổ chức đó để giáo dục, giác ngộ, thức tỉnh
quần chúng.
Người cộng sản tham gia nghị viện khơng phải là để duy trì tổ chức này mà để đấu
tranh xóa bỏ nghị viện.
Người cộng sản không tham gia nghị viện tức là bỏ rơi quần chúng lạc hậu và như
vậy sẽ không bao giờ giải tán được nghị viện.
Chương VIII: Không bảo giờ được thoả hiệp?
Lênin cho rằng: Đấu tranh cách mạng có lúc phải thỏa hiệp. Bởi vì, tiến hành cách
mạng khơng phải hồn tồn thuận lợi và dễ dàng mà cịn có những lúc cách mạng
gặp khó khăn. Trong những hồn cảnh khó khăn phức tạp địi hỏi người cách mạng
phải biết lựa chiều, liên minh, thỏa hiệp để tránh tổn thất cho cách mạng. Cách
mạng khơng phải chỉ biết có tiến công, khoa học tiến công phải được bổ sung bằng


khoa học rút lui khi cần thiết, rút lui là để chuẩn bị tiến công giành những thắng lợi
lớn hơn
Chương IX-Chủ nghĩa Cộng sản” Tả khuynh” ở Anh
Chương X-Một vài kết luận
2. Phần bổ sung gồm 5 chương
Chương I. Phân liệt giữa những người Cộng sản Đức
Chương II. Những người Cộng sàn và những người thuộc Đảng độc lặp ở Đức
Chương III. Tu-ra-ti và bè lũ ở Ý
Chương IV. Những kết luận sai rút ra từ những tiền đề đúng
Chương V. Thư của Vanh- cốp
III. NỘI DUNG CỦA TÁC PHẨM
Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào cộng sản ra đời nhằm mục đích truyền

kinh nghiệm hét sức phong phú của chủ nghĩa bơn-sê-vích cho các ĐCS trẻ tuổi,
tác phẩm này là giai đoạn quan trọng trong quá trình phát triển lý luận của chủ
nghĩa Mác, trong quá trình vạch ra chiến lược và sách lược của các đảng vô sản
trong bối cảnh lịch sử mới, trong thì kỳ tổngkhủng hoảng của CNTB, trong điều
hai hệ thống song song tồn tại. Tác phẩm ngăn ngừa những người cộng sản tránh
những sai lầm có tính chất bè phái, giáo điều và những sai lầm khác, tác phẩm đã
dạy về cách lãnh đạo chính trị đúng đắn và trước hết về cách tranh thủ quần chúng,
tranh thủ họ về phương diện tư tưởng để họ đứng về phía đội tiên phong vơ sản.
Trong tác Lênin đã chú ý nhiều nhất đến cuộc đấu tranh chống lập trường mang
tính chất bè phái của những người cộng sản phái ‘tả” đã không đánh giá hết khả
năng cách mạng của quần chúng lao động, đã không biết cách và kgông muốn đấu
tranh giành quần chúng. Lênin khẳng đinh nhất thiết phải liên hệ với quần chúng
nhân dân, tâp hợp được đông đảo quần chúng. Người nhấn mạnh rằng người cộng
sản “nhất thiết phải công tác ở bất cứ nơi nào có quần chúng”
1. Ý nghĩa quốc tế của Cách mạng Tháng Mười Nga
Lênin mở đầu tác phẩm bằng cách nêu ý nghĩa quốc tế của Cách mạng Nga. Đó là
một việc đặc biệt quan trọng. Thời kỳ này, bọn cơ hội ln ln tìm cách xuyên tạc
chủ nghĩa Mác. Chúng cho rằng chủ nghĩa Mác chỉ phù hợp trong giai đoạn chủ
nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, khi chủ nghĩa tư bản phát triển thành chủ nghĩa đế
quốc thì chủ nghĩa Mác khơng cịn phù hợp nữa; và cho rằng, chủ nghĩa Mác đã lỗi
thời. Khi Cách mạng Nga thành công, bọn cơ hội chủ nghĩa tìm mọi cách xun
tạc, bưng bít ý nghĩa của cuộc cách mạng đó. Chúng cho rằng, Cách mạng Tháng


Mười là hiện tượng đặc thù của nước Nga, kinh nghiệm rút ra từ cuộc cách mạng
đó khơng thể áp dụng cho các nước khác trên thế giới. Bọn cơ hội chủ nghĩa đã
phủ nhận hoàn toàn ý nghĩa của Cách mạng Nga. Phủ nhận ý nghĩa của Cách mạng
Nga thực chất là phủ nhận chủ nghĩa Mác. Sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác đã
được chứng minh bằng thực tiễn Cách mạng Tháng Mười, thực tiễn này đã đập tan
luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa Mác của bọn cơ hội chủ nghĩa.

Ý nghĩa quốc tế của Cách mạng Tháng Mười được Lênin đề cập theo hai nghĩa:
nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
- Nghĩa rộng: từ cả những nét chủ yếu và thứ yếu của Cách mạng Nga đều có ý
nghĩa quốc tế và nó tác động đến tất cả các nước.
- Nghĩa hẹp: Những sự kiện diễn ra của Cách mạng Nga có ý nghĩa tất yếu lịch sử
là sẽ tái diễn trên phạm vi quốc tế.
Cách mạng Tháng Mười đã chặt đứt sợi dây chuyền của chủ nghĩa đế quốc ở khâu
yếu nhất. Nó mở đầu thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội. Nó đánh dấu chủ nghĩa xã hội khoa học từ mơ ước đã trở thành hiện
thực.
Cách mạng Nga đã giải quyết mâu thuẫn gay gắt của thế giới lúc đó tập trung ở
Nga, mâu thuẫn giữa tư sản với vô sản, mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ
phong kiến.
“Tấm gương Nga chỉ ra cho tất cả các nước thấy một cái gì hồn tồn căn bản về
tương lai tất yếu và gần đây của họ, tức là cách mạng vô sản tất cả các nước đều
không tránh khỏi con đường mà nước Nga đã trải qua”.
Những người cộng sản ở tất cả các nước không chỉ thừa nhận ý nghĩa của Cách
mạng Tháng Mười, mà quan trọng hơn là việc vận dụng kinh nghiệm của cuộc
cách mạng đó vào tình hình cụ thể của từng nước để xác định đường lối chiến lược,
sách lược đúng đắn. Lênin muốn làm cho những người cộng sản quan tâm hơn nữa
đến việc rút ra từ Cách mạng Tháng Mười những bài học kinh nghiệm một trong
những bài học quan trọng nhất đó là bài học về vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản
đối với cách mạng vô sản.
Khơng có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản với chiến lược, sách lược đúng đắn thì
cách mạng vơ sản không thể nổ ra và thắng lợi được.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội, Lênin xem
xét vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chun chính vơ sản.
2. Vai trị của Đảng trong hệ thống chun chính vơ sản:
Để khẳng định vai trị của Đảng trong hệ thống chun chính vơ sản, Lênin đã phê
phán quan điểm sai lầm của những người cộng sản “tả khuynh”.

Trước hết là phê phán xu hướng “tả khuynh” ở Đức (phái đối lập). Phái đối lập
thừa nhận chun chính vơ sản nhưng phủ nhận vai trị của Đảng. Họ cho rằng,
giai cấp công nhân không thể phá huỷ được nhà nước tư sản nếu không phá huỷ


nền dân chủ tư sản, và không thể tiêu diệt nền dân chủ tư sản nếu không phá huỷ
Đảng. Lênin coi đó là điều vơ cùng ngu xuẩn, khơng thể tha thứ được.
Những người cộng sản “tả khuynh” này đã tự cho mình là những người mácxít
đúng đắn nhất. Những lý lẽ của phái đối lập đã chứng tỏ rằng, họ không hiểu
những điều sơ đẳng nhất của chủ nghĩa Mác.
Họ đã xuất phát từ mơ hình của chủ nghĩa cộng sản để phủ nhận vai trò lãnh đạo
của Đảng: chủ nghĩa cộng sản ở giai đoạn cao thì xã hội khơng cịn giai cấp, khơng
cịn Đảng. Đó cịn là mục đích lý tưởng của Đảng, nhưng để đi đến chủ nghĩa cộng
sản ở giai đoạn cao thì phải trải qua thời kỳ quá độ; thời kỳ đó dài hay ngắn phụ
thuộc vào điều kiện cụ thể của từng nước. Đó là con đường mà nước Nga đã đi và
cũng là con đường chung mà cách mạng xã hội chủ nghĩa ở tất cả các nước đều
phải trải qua.
Quan điểm của phái đối lập cho rằng, chủ nghĩa tư bản ở Đức sẽ nhảy lên giai đoạn
cao của chủ nghĩa cộng sản không trải qua bước quá độ cho nên phải phá huỷ
Đảng. Đây là sai lầm về đường lối cách mạng, thể hiện sự ấu trĩ cả về lý luận và
thực tiễn. Những người cộng sản “tả khuynh” đã khơng hiểu gì về quy luật của
cách mạng xã hội chủ nghĩa và càng khơng hiểu gì về Đảng cầm quyền lãnh đạo
xây dựng chủ nghĩa xã hội: vai trò của Đảng cầm quyền lãnh đạo xây dựng chủ
nghĩa xã hội ngày càng tăng lên, đó là quy luật phát triển của Đảng.
Để đảm bảo cách mạng xã hội chủ nghĩa thắng lợi địi hỏi phải có sự lãnh đạo của
Đảng mácxít thực sự cách mạng, dày dặn kinh nghiệm trong đấu tranh giai cấp và
được sự tín nhiệm cao cả của quần chúng.
Lênin khẳng định: “Khơng có một Đảng sắt thép được tơi luyện trong đấu tranh,
khơng có một Đảng được sự tín nhiệm của tất cả những phần tử trung thực trong
giai cấp nói trên, khơng có một Đảng biết nhận xét tâm trạng quần chúng và biết

tác động vào tâm trạng đó thì khơng thể tiến hành thắng lợi cuộc đấu tranh ấy
được”. Tư tưởng này của Lênin đã chỉ ra cho những ai chưa biết suy nghĩ hay chưa
có điều kiện để suy nghĩ hiểu rằng: sự lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chun
chính vơ sản là tất yếu khách quan.
Để thực hiện được quyền lãnh đạo của mình thì Đảng phải khơng ngừng được củng
cố và phát triển. Vì vậy, Lênin đã đề cập tới một số điểm về xây dựng nội bộ Đảng.
3. Vấn đề xây dựng nội bộ Đảng đã được đề cập trong tác phẩm
a) Việc xác định cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng
Cương lĩnh, đường lối, chính sách đúng đắn là nguyên nhân cơ bản đảm bảo cho
sự thắng lợi của Đảng.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội, việc định ra
đường lối, nhiệm vụ chính trị đúng đắn lại càng quan trọng. Bởi vì, sai lầm về
đường lối trong xây dựng chủ nghĩa xã hội có tác hại lâu dài đến toàn bộ sự nghiệp
cách mạng. Những người cộng sản “tả khuynh” đã mắc sai lầm nghiêm trọng trong
vấn đề này thể hiện ở một loạt vấn đề:


- Trước hết đối với vấn đề lãnh tụ, Đảng, giai cấp, quần chúng. Họ đã dùng các
khái niệm này nhưng không hiểu mối quan hệ giữa các khái niệm đó, đã đối lập
các khái niệm.
Họ thừa nhận giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội là thời kỳ chun chính vơ
sản nhưng họ đặt vấn đề ai phải thi hành chun chính vơ sản: Đảng Cộng sản hay
giai cấp vơ sản; chun chính của Đảng hay chun chính của giai cấp; chuyên
chính Đảng của các lãnh tụ hay chuyên chính của quần chúng. Thực chất quan
điểm của họ nhằm chia rẽ nội bộ Đảng, phá vỡ sự thống nhất của Đảng.
Lênin đã phê phán: Cách lập luận đó là mớ hỗn độn cũ rích, là luận điệu “tả
khuynh” ấu trĩ. Phát biểu quan điểm của mình về các khái niệm đó, Người chỉ rõ:
quần chúng được chia thành những giai cấp, những giai cấp này lại do các chính
đảng lãnh đạo, cịn đứng đầu các đảng là những nhà lãnh đạo (các lãnh tụ). Các
khái niệm này quan hệ chặt chẽ với nhau, kết hợp thành một chỉnh thể không thể

chia cắt được. Tuy nhiên, giữa các khái niệm đó cũng cần có sự phân biệt rõ, lẫn
lộn giữa các khái niệm đó cũng là sai lầm. Lênin đã chỉ ra sự khác nhau đó: Đảng
khơng phải là toàn bộ giai cấp, Đảng là đội tiên phong của giai cấp, Đảng cịn khác
giai cấp ở trình độ giác ngộ, lẫn lộn giữa Đảng và giai cấp sẽ dẫn đến hạ thấp vai
trò lãnh đạo của Đảng.
Lãnh tụ do Đại hội Đảng bầu ra, Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương, Hội nghị
ban Chấp hành Trung ương bầu ra Bộ Chính trị và Ban Bí thư. Lãnh đạo cơng việc
hàng ngày của Đảng giao cho Bộ Chính trị và Ban Bí thư. Lênin đã đề cập đến
nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng.
Lãnh tụ còn khác Đảng ở yêu cầu về phẩm chất và năng lực, Lênin đòi hỏi lãnh tụ
phải là những người có uy tín nhất, có kinh nghiệm nhất. Có những lãnh tụ như
vậy mới lãnh đạo được Đảng, giai cấp và quần chúng.
Lênin đánh giá đúng vai trò của lãnh tụ, đồng thời kiên quyết lên án tệ sùng bái cá
nhân.
Những người cộng sản “tả khuynh” còn chia rẽ nội bộ Đảng bằng việc nêu ra khẩu
hiệu “Đả đảo lãnh tụ”, nấp dưới khẩu hiệu này, họ đưa những lãnh tụ mới của họ
vào để thay thế những lãnh tụ cũ của Đảng Cộng sản Đức. Đó là một sai lầm lớn.
- Vấn đề hoạt động trong cơng đồn phản động.
Những người cộng sản “tả khuynh” coi cơng đồn là một tổ chức phản động. Theo
họ, những người cộng sản không cần, không được phép hoạt động trong cơng
đồn; họ tạo ra một tổ chức mới gọi là “Hội liên hiệp công nhân”.
Những người cộng sản “tả khuynh” ln nói đến khái niệm quần chúng nhưng họ
đã lạm dụng khái niệm đó và khơng hiểu mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng.
Họ chủ trương rằng, những người cộng sản khơng tham gia cơng đồn. Điều đó có
nghĩa là tách Đảng với quần chúng, làm cho Đảng xa rời quần chúng.


Lênin đã khẳng định: Cơng đồn là tổ chức rộng rãi nhất để tập hợp cơng nhân.
Cơng đồn là trường học của chủ nghĩa cộng sản, Đảng liên hệ với quần chúng
thơng qua cơng đồn, cơng đồn là tổ chức quần chúng nhưng phải có đảng viên

hoạt động trong đó để thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức quần chúng.
Đảng liên hệ với quần chúng không chỉ thơng qua tổ chức cơng đồn mà cịn thơng
qua các tổ chức khác như: hợp tác xã, đoàn thanh niên, hội phụ nữ và các tổ chức
bảo hiểm. Ngoài những tổ chức trên, Đảng còn liên hệ với quần chúng bằng những
hội nghị cơng nhân và nơng dân.
Những hình thức tổ chức trên thể hiện Đảng dân chủ với quần chúng.
Đảng cầm quyền phải bằng mọi hình thức tổ chức nhằm sử dụng và phát huy cao
nhất sức mạnh của quần chúng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lênin
đã khẳng định: “Chỉ có độc một mình đội tiên phong thơi thì khơng thể thắng nổi.
Ném độc một mình đội tiên phong vào một cuộc chiến đấu quyết định, khi mà toàn
thể giai cấp, khi mà quần chúng đơng đảo hoặc chưa có thái độ trực tiếp ủng hộ đội
tiên phong, hoặc chưa có ít ra là một thái độ trung lập có thiện cảm đối với đội tiên
phong, khiến họ hồn tồn khơng thể ủng hộ kẻ địch được, thì đó khơng những là
một điều dại dột, mà còn là một tội ác nữa”.
Lênin cũng chỉ ra tính phản động của cơng đồn. Cái gọi là tính phản động chỉ là
những nhược điểm, khuyết điểm cịn tồn tại trong cơng nhân: tính chất phường hội,
đầu óc thủ cựu, tư tưởng nghề nghiệp hẹp hòi và cũng có cả những khuynh hướng
phi chính trị. Tính phản động của cơng đồn là khơng tránh khỏi trong thời kỳ
chun chính vơ sản. Chỉ khi nào cơng đồn phát triển thành cơng đồn cơng
nghiệp thì khơng cịn tính phản động nữa, đó là giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng
sản, đó cũng là mục đích tương lai của giai cấp vô sản. Trong điều kiện hiện tại mà
muốn đạt ngay kết quả của tương lai thì khơng thể có được. Lênin coi sự mong
muốn đó như người ta muốn dạy toán cao cấp cho trẻ em 4 tuổi.
Từ sự phân tích nên, Lênin địi hỏi người cộng sản nhất thiết phải hành động trong
cơng đồn và phải cơng tác ở bất cứ nơi nào có quần chúng, kể cả những tổ chức
phản động nhất.
- Việc tham gia nghị viện tư sản
Những người cộng sản “tả khuynh” cho rằng, chế độ nghị viện đã quá thời cả về
phương diện lịch sử và phương diện chính trị. Đứng về phương diện lịch sử thế
giới mà

nói thì “chế độ đại nghị” đã q thời vô phương diện lịch sử. Sau khi Cách mạng
Tháng Mười thành cơng thì thời đại nghị viện tư sản đã kết thúc, thời đại chun
chính vơ sản bắt đầu, nhưng trong vấn đề sách lược thực tiễn lại tính theo quy mô
thế giới là một sai lầm hết sức nghiêm trọng về lý luận. Chẳng hạn như ở Đức khi
chưa có chun chính vơ sản mà lại khẳng định nghị viện tư sản là quá thời thì
quan điểm như vậy là sai lầm cả về thực tiễn và lý luận. Những người cộng sản “tả
khuynh” đã lẫn lộn giữa chủ quan và khách quan. Họ đem ý muốn chủ quan thay


thế cho việc thực hiện khách quan. Đây là sai lầm rất nguy hiểm của người cách
mạng.
Lênin đã khẳng định: Đảng Cộng sản phải tham gia nghị viện tư sản.
Nghị viện tư sản là tổ chức phản cách mạng do giai cấp tư sản lập ra nhưng quần
chúng lạc hậu còn tin ở nghị viện, coi nghị viện là đại biểu chân chính của họ cho
nên người cộng sản phải tham gia vào tổ chức đó để giáo dục, giác ngộ, thức tỉnh
quần chúng.
Người cộng sản tham gia nghị viện khơng phải là để duy trì tổ chức này mà để đấu
tranh xóa bỏ nghị viện.
Người cộng sản khơng tham gia nghị viện tức là bỏ rơi quần chúng lạc hậu và như
vậy sẽ không bao giờ giải tán được nghị viện.
- Vấn đề thỏa hiệp:
Những người cộng sản “tả khuynh” nêu khẩu hiệu “Không bao giờ thỏa hiệp” và
không chấp nhận một sự liên minh dựa dẫm nào.
Lênin cho rằng: Đấu tranh cách mạng có lúc phải thỏa hiệp. Bởi vì, tiến hành cách
mạng khơng phải hồn tồn thuận lợi và dễ dàng mà cịn có những lúc cách mạng
gặp khó khăn. Trong những hồn cảnh khó khăn phức tạp đòi hỏi người cách mạng
phải biết lựa chiều, liên minh, thỏa hiệp để tránh tổn thất cho cách mạng. Cách
mạng khơng phải chỉ biết có tiến cơng, khoa học tiến công phải được bổ sung bằng
khoa học rút lui khi cần thiết, rút lui là để chuẩn bị tiến công giành những thắng lợi
lớn hơn.

b) Vấn đề kỷ luật của Đảng
Trong tác phẩm này, Lênin nhấn mạnh vai trò kỷ luật trong Đảng: Đảng có kỷ luật
nghiêm minh chặt chẽ mới thực hiện được sự lãnh đạo tập trung thống nhất, mới
xây dựng được khối đoàn kết trong nội bộ Đảng. Có kỷ luật mới tăng cường được
sức mạnh của Đảng, mới chiến thắng được mọi kẻ thù. Lênin coi kỷ luật là một
trong những điều kiện căn bản để đảm bảo cho sự thắng lợi của Đảng. Người nói:
“Những người Bơnsêvích sẽ khơng giữ vững được chính quyền, tơi khơng nói
được tới hai năm rưỡi, mà ngay cả đến hai tháng rưỡi cũng không được nữa, nếu
Đảng ta khơng có kỷ luật hết sức nghiêm minh, kỷ luật sắt thực sự”.
Đảng có kỷ luật nghiêm minh chặt chẽ mới vạch mặt và đuổi được bọn cơ hội chủ
nghĩa dưới mọi màu sắc ra khỏi Đảng, làm trong sạch hàng ngũ Đảng, và mới
chống được những tư tưởng phi vô sản ảnh hưởng ở trong Đảng. Lênin coi kỷ luật
của Đảng là thứ vũ khí để Đảng thực hiện quyền lãnh đạo của mình. Người nhấn
mạnh: “kẻ nào làm yếu - dù chỉ là chút ít - kỷ luật sắt trong Đảng của giai cấp vô
sản (nhất là trong thời kỳ chun chính của nó) là thực tế giúp cho giai cấp tư sản
chống lại giai cấp vô sản”.
Lênin nêu ba điều kiện để thực hiện kỷ luật trong Đảng:
- Sự giác ngộ và lòng trung thành với cách mạng, tinh thần kiên cường, tính hy
sinh và chí khí dũng cảm của đội tiên phong.


- Đội tiên phong biết liên hệ, gần gũi, hòa mình với quần chúng rộng rãi.
- Đội tiên phong có sự lãnh đạo chính trị, có chiến lược và sách lược đúng đắn và
được quần chúng tin tưởng vào sự đúng đắn đó.
Thiếu những điều kiện trên thì khơng thể thực hiện được kỷ luật trong Đảng và
mọi ý đồ thiết lập kỷ luật trong Đảng chỉ là những câu nói sng mà thơi.
c) Tự phê bình và phê bình
Lênin coi tự phê bình và phê bình là một trong những tiêu chuẩn quan trọng để
xem xét Đảng. Chỉ có Đảng mácxít chân chính - Đảng cách mạng thật sự mới có
thái độ đúng đắn đối với sai lầm của mình. Trong q trình lãnh đạo, Đảng có

khuyết điểm cũng là bình thường, điều quan trọng là có thái độ đúng đắn đối với
sai lầm của mình hay khơng, đó mới là điều quan trọng. Lênin đòi hỏi rằng, trước
những sai lầm của mình, Đảng phải cơng khai thừa nhận sai lầm, phân tích hồn
cảnh đẻ ra sai lầm, nghiên cứu những biện pháp để sửa chữa sai lầm. Đó là thái độ
nghiêm túc của Đảng. Chỉ có Đảng nghiêm túc như vậy mới thực sự là Đảng
mácxít chân chính.
Những người cộng sản “tả khuynh” đã khơng có thái độ đó, đã khơng nghiêm túc
trước những sai lầm của mình cho nên họ không phải là Đảng của giai cấp, khơng
phải là Đảng của quần chúng, và chỉ là nhóm nhỏ mang tính bè phái. Đối với người
đảng viên cộng sản, Lênin địi hỏi rằng, trước sai lầm của mình, người đảng viên
phải thực hiện tốt tự phê bình. Người nói: “Người thơng minh khơng phải là người
khơng phạm sai lầm... Người nào phạm sai lầm, mà không nặng lắm, và biết sửa
chữa một cách dễ dàng và nhanh chóng thì người đó người thơng minh”.
Đối với Đảng cũng như đối với đảng viên, khơng có thái độ đúng đắn đối với
khuyết điểm thì chỉ đi đến những khuyết điểm lớn hơn mà thơi.
Lênin đã khẳng định điều đó: “cứ giữ mãi sai lầm, đi sâu thêm để bào chữa cho nó,
“đưa nó đến chỗ tột cùng” thì từ một sai lầm nhỏ, người ta ln ln có thể làm
cho nó thành một sai lầm lớn ghê gớm”.
d) Vấn đề phát triển Đảng
Lênin coi phát triển Đảng là một trong những công tác quan trọng nhằm xây dựng
và củng cố Đảng. Song, phát triển Đảng phải đảm bảo không để cho bọn cơ hội và
bọn phản cách mạng tìm cách chui vào Đảng.
Trong cuộc chiến đấu giữa cái sống và cái chết, bọn cơ hội chủ nghĩa không bao
giờ đi theo những người cộng sản mà vào Đảng. Nhưng trong điều kiện Đảng cầm
quyền, đảng viên có tổ chức, có quyền thì hấp dẫn đối với bọn cơ hội chủ nghĩa, và
do đó, cũng có thể chui được vào Đảng nếu như các tổ chức Đảng sơ hở trong công
tác tổ chức.
Theo quan điểm của Lênin, phát triển Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền phải
hết sức chặt chẽ về tiêu chuẩn để ngăn ngừa những phần tử cơ hội và bọn phản
cách mạng tìm cách chui vào Đảng để phá hoại. Sau Cách mạng Tháng Mười

thành công, Lênin chỉ kêu gọi những công nhân, nông dân, người lao động thật sự


tin theo chủ nghĩa cộng sản vào Đảng. Và Đảng chỉ mở rộng trong lúc cuộc nội
chiến gay go quyết liệt nhất, trong những lúc tình hình khó khăn nhất. Trong khó
khăn thử thách mới phân biệt được người cách mạng thực sự với kẻ cơ hội chủ
nghĩa, khó khăn thử thách là thước đo sự giác ngộ và lòng trung thành của người
cách mạng.
đ) Đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội là quy luật phát triển của Đảng
Lênin đã lý giải và chứng minh tính quy luật của cuộc đấu tranh này bằng thực tiễn
của Đảng Bơnsêvích Nga đấu tranh triệt để khơng điều hịa chống hai phía chủ
nghĩa cơ hội “hữu khuynh” và chủ nghĩa giáo điều “tả khuynh”. Đảng Bơnsêvích
đã trưởng thành, củng cố, tơi luyện trong cuộc đấu tranh đó. Đây khơng phải là
hiện tượng riêng của Nga mà là quy luật phát triển của các Đảng Cộng sản. Chủ
nghĩa cơ hội là kẻ thù chung của phong trào cộng sản quốc tế và là kẻ thù của mỗi
Đảng Cộng sản. Mặt khác, trong nội bộ mỗi Đảng không tránh khỏi bị ảnh hưởng
bởi các trào lưu tư tưởng phi vơ sản. Sự ảnh hưởng đó biểu hiện dưới mọi màu sắc
khi “hữu”, khi “tả” cho nên khơng đấu tranh chống cả hai khuynh hướng đó thì
Đảng khơng thể trở thành lực lượng lãnh đạo giai cấp cơng nhân được và khơng
thể duy trì được sự lãnh đạo tập trung thống nhất trong Đảng. Không đấu tranh
chống chủ nghĩa cơ hội thì Đảng khơng thể tồn tại và phát triển được.
Trong tác phẩm này, Lênin chống chủ nghĩa cơ hội cả hai phía nhưng chủ yếu là
đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội “tả khuynh”. Công lao to lớn của Lênin đối với
phong trào cộng sản quốc tế là đã phát hiện ra chủ nghĩa cơ hội “tả khuynh” trong
các Đảng Cộng sản trẻ tuổi ngay từ khi nó mới hình thành.
Năm 1920, Lênin xem bệnh “tả khuynh” là bệnh ấu trĩ của Đảng Cộng sản trẻ tuổi,
về sau, Lênin đã nhìn nhận căn bệnh ấy như một trào lưu hình thành rõ ràng và
cực kỳ nguy hiểm trong phong trào cộng sản quốc tế.
IV. Ý nghĩa, giá trị
1. Ý nghĩa, giá trị lý luận ( lịch sử ) :

1.1. Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam:
-Tác phẩm đã bổ sung và làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ
nghĩa Mác trong lĩnh vực của chủ nghĩa cộng sản khoa học và công tác xây dựng
Đảng. Nó đã đóng góp vào việc phát triển lý thuyết cách mạng và lãnh đạo Đảng.
-Tác phẩm giúp Đảng Cộng sản Việt Nam thấm nhuần những nguyên lý của
chủ nghĩa Mác-Lênin, và áp dụng chúng vào công tác lãnh đạo và xây dựng Đảng.
Điều này đã đóng góp quan trọng vào thành công của cách mạng Việt Nam.
-Tác phẩm vẫn còn giá trị thực tiễn đến hiện nay. Nó giúp trong cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa cơ hội và thách thức thời sự hiện tại, đặc biệt trong bối cảnh
cách mạng xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển.


-Tác phẩm này thể hiện sự sáng tạo và phát triển sáng tạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh mới. Điều này cho thấy sự linh
hoạt và tiến bộ của Đảng.
1.2. Đổi với công tác xây dựng Đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam:
- Trong quá trình lẫnh đạo cách mạng Việt Nam đã:
 vận dụng sáng tạo những bài học kinh nghiệm Cách mạng Tháng Muời
Nga vào những điều kiện cụ thể cách mạng Việt Nam.
 vận dụng sáng tạo những nguyên lý của V.ILênin về xây dựng Đảng vô
sản kiểu mới ( một đảng thật sự cách mạng, tập trung cao và những kinh
nghiệm buóc đầu về xây dựng Đảng trong điều kiện đàng cộng sản câm
quyền )
 Những nguyên lý trong tác phấm Bệnh ẩu trĩ "tả khuynh " trong phong
trào cộng sản đã làm cơ sở trong việc xác định nội dung công tác xây
dựng Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam đã coi trọng cả ba mặt xây dựng
Đảng: xây dựng Đàng về chính trị, xây dựng Đảng về tu tưởng, xây dựng
Đảng về tổ chức.
- Đảng khẳng định xây dựng Đảng về chính trị có ý nghĩa quan trọng hàng
đầu. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định đường lối chính

trị, chiển lược, sách lược cách mạng đúng đắn. Để đáp ửng địi hỏi của cơng cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đằng Cộng sản Việt Nam đã có Cương linh mới cho
từng giai đoạn cách mạng cụ thể.
🡪Với trí tuệ của toàn Đảng, bản Cương lĩinh mới sẽ đảm bảo cho sự nghiệp
cách mạng xã hội chủ nghĩa đi đến thắng lợi hoàn toàn.

2. . Ý nghĩa, giá trị thực tiễn:
2.1. * Đối vs Đảng Cộng sản VN :
-Tác phẩm này ra đời để đáp ứng các yêu cầu cấp bách của phong trào cộng
sản đương thời và giải quyết các thắc mắc và lệnh lạc của phong trào.
-Nó cung cấp hướng dẫn và nguyên tắc lý luận quý báu về xây dựng Đảng
và đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, vẫn đang phản ánh và phản biện những thách
thức và vấn đề thời sự hiện tại.


-Giá trị thực tiễn của tác phẩm là việc nó giúp Đảng Cộng sản Việt Nam duy
trì và cập nhật chiến lược và phương pháp trong công tác xây dựng Đảng và lãnh
đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa.
2.2. *Đối với công tác xây dựng Đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam:
- Trong công cuộc đôi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay, việc đấu
tranh chống chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh và chủ nghĩa cơ hội “tả khuynh" vẫn
đang là vấn đề thời sự.
🡪Bài học đấu tranh phê phán "tả khuynh", hữu khuynh ngày nay vẫn giữ
nguyên giá trị, bởi cơ sở xã hội cho việc xuất hiện bệnh ấu trỉ "tả khuynh" vẫn còn
nên cuộc đầu tranh chống chủ nghĩa cơ hội hữu khuymh, "tả khuynh" còn tiếp tục.
-Ngày nay, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định thêm các mặt trong công tác
xây dựng Đảng là: xây dựng Đảng về chính trị; tu tưởng; đạo đức; tổ chức và cán
bộ.
🡪 cho thấy Đảng Cộng sản Việt Nam không chi tuân thủ các nội dung cơ
bản của chủ nghĩa Mác-Lênin mà cịn có sự phát triên sáng tạo phủ hợp với điều

kiện và hoàn cảnh mới.
- Quan điểm của V.ILLênin về:
 tự phê binh và phê bình,
 kết nạp đảng viên
 đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội
🡪có ý nghĩa thiết thực trong cơng tác xây dựng Đảng. Hiện nay những nội
dung đó vẫn được thường xuyên thực hiện trong các tổ chức của Đảng. Đó là
những công tác không thể thiếu đuợc để không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng
V. Rút ra kết lận (ƯU/NHƯỢC)
1. Ưu điểm
- Cách mạng tháng 10 Nga là “ Tấm gương chỉ ra cho tất cả các nước thấy một cái
gì hồn tồn căn bản về tương lai tất yếu và gần đây của họ”. Tức là cách mạng vô
sản tất cả các nước đều không tránh khỏi con đường mà nước Nga trải qua. Những
người cộng sản ở tất cả các nước không chỉ thừa nhận ý nghĩa của cách mạng
Tháng Mười mà quan trọng hơn là việc vận dụng kinh nghiệm của cuộc càn mạng
đó vào tình hình củ thể từng nước để xác định đường lối chiến lược, sách lược
đúng đắn. Một trong những bài học quan trọng nhất rút ra từ Cách mạng Tháng
Mười là bài học về vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với cách mạng vô sản.


+khơng có sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản với sách lược đúng đắn thì cách
mạng vơ sản khơng thể nổ ra và thắng lợi được.
- Những nguyên lý trong bệnh ấu trĩ “Tả Khuynh” trong phong trào cộng sản đã bổ
sung và làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác trên một loạt vấn
đề của chủ nghĩa cộng sản khoa học và là cơ sở trong việc xác định nội dung công
tác xây dựng Đảng
1.1. Đối với VN
- Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ coi trọng công tác xây dựng Đảng về mặt
xây dựng Đảng về chính trị, xây dựng Đảng về tư tưởng, xây dựng Đảng về tổ

chức. Mà ngày nay, Đảng ta cịn xác định thêm các mặt trong cơng tác xây dựng
Đảng là xây dựng Đảng về chính trị, xây dựng Đảng về đạo đức, xây dựng Đảng
về tổ chức, xây dựng Đảng về cán bộ. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, Đảng khẳng định xây dựng Đảng về chính trị có ý nghĩa quan trọng hàng
đầu.Xây dựng Đảng về chính trị là xây dựng Cương Lĩnh, đường lối, chiến lược,
sách lược cách mạng. Trong điều kiện Đảng cầm quyền lãnh đạo xâu dựng chủ
nghĩa xã hội, việc xã hội, việc định ra đường lối, nhiệm vụ chính trị đúng đắn lại
càng quan trọng. Bởi vì sai lầm về đường lối trong xây dựng chủ nghĩa xã hội có
tác hại lâu dài đến toàn bộ sự nghiệp cách mạng. Để đáp ứng địi hỏi của cơng cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có Cương lĩnh mới cho
từng giai đoạn cách mạng cụ thể. Với trí tuệ của tồn Đảng, bản Cương lĩnh mới sẽ
đản bảo cho sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa đi đến thắng lợi hoàn toàn
-V.I.Lênin rất nhấn mạnh vai trị của kỷ luật trong Đảng: Đảng có kỷ luật nghiêm
minh chặt chẽ mới thực hiện được sự lãnh đạo tập trung thống nhất, mới xây dựng
được khối đoàn kết trong nội bộ đảng. Có kỷ luật mới tăng cường được sức mạnh
của đảng (mới chiến thắng được mọi kẻ thù Vì.Lênin coi kỷ luật là một trong
những điều kiện căn bản để đảm bảo cho sự thắng lợi của Đảng. Người
nói:”Những người bơnsevich sẽ khơng giữ được chính quyền, tơi khơng nói được
hai năm rước, mà ngay cả đến hai tháng rưỡi cũng không được nữa, nếu Đảng ta
khơng có kỷ luật hết sức nghiêm minh, kỷ luật sắt thật sự”. Những quan điểm của
V.I.Lênin về: Tự phê bình và phê bính, kết nạp đảng viên, đấu tranh chống chủ
nghĩa cơ hội đã có ý nghĩa thiết thực trong công tác xây dựng Đảng, Hiện nay
những nội dung đó vẫn được thường xuyên thực hiện trong các tổ chức của Đảng.
Đó là những cơng tác khơng thể thiếu được để không ngừng nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
VI. Bài học đối kinh nghiệm
1. BÀI HỌC ĐỐI VỚI XDĐ Ở VIỆT NAM
a. Đối với Đảng ta



 Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam cũng như trong công tác xây
dựng Đảng, Đảng ta đã thấm nhuần những nguyên lý của chủ nghĩa Mác Lênin và những nguyên lý trong tác phẩm này, do đó đã đưa cách mạng Việt
Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Ngày nay, trong công cuộc đổi
mới, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh luôn luôn là nền tảng
tư tưởng của Đảng ta, chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
 Với cơng tác xây dựng Đảng nói chung, bài học phấn đấu phê phán “tả
huynh”, hữu huynh ngày nay vẫn nguyên giá trị, bởi cơ sở xã hội cho việc
xuất hiện bệnh ấu trĩ “tả huynh” vẫn còn, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ
hội hữu huynh, “tả huynh” vẫn cịn tiếp tục, nhất là cơng cuộc đổi mới của
ĐCSVN hiện nay, để không lệch hướng đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội
“tả huynh” vẫn là vấn đề thời sự.
b. Đối với công tác xây dựng Đảng
 Trong quá trình lãnh đạo CMVN đã vận dụng sáng tạo những bài học kinh
nghiệm CMT10 Nga vào nhưng điều kiện cụ thể của CMVN, vận dụng sáng
tạo những nguyên lý của của V.I.Lênin về xây dụng Đảng vô sản kiểu mớimột Đ thật sự cách mạng trong điều kiện cộng sản cầm quyền. Những
nguyên lý trong tác phẩm Bệnh ấu trĩ “tả huynh” trong phong trào cộng sản
đã lam cơ sở trong việc xác định nội dung công tác XDĐ. ĐCSVN đã coi
trọng cả 3 mặt XDĐ; XDĐ về chính trị, XDĐ về tư tưởng, XDĐ về tổ quốc.
Ngày nay, ĐCSVN xác định them các mặt trong công tác xdđ là: XDĐ về
chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Điều đó cho thấy, Đảng cộng
sản VN ko chỉ tuân thủ các nội dung cở bản của chủ nghĩa Mác Leenin mà
cịn có sự phát triển sáng tạo phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh mới.
 Trong quá trình lãnh đạo CMVN, Đ khảng định XDĐ về chính trị có ý nghĩa
quan trọng hàng đầu.
XDĐ về chính trị là xây dựng Cương lĩnh, đường lối, chiến lược, sách lược
cách mạng. Ngay từ khi mới ra đời, ĐCSVN đã xác định đường lối chính trị,
chiến lược, sách lược cm đúng đắn. Để đáp ứng đòi hỏi của cơng cuộc xây
dựng CNXH, ĐCSVN đã có cương lĩnh mới cho từng giai đoạn cụ thể. Với
trí tuệ của tồn Đảng, bản cương Lĩnh mới sẽ đảm bảo cho sự nghiệp cách
mạng XHCN đi đến thắng lợi hoàn toàn.

 Nhưng quan điểm của V.L.Leenin về: tự phê bình và phê bình. Kết nạp đảng
viên, đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội đã có ý nghĩa thiết thực trong cơng
tác XDĐ, Hiện nay những nội dung đó vẫn được thường xuyên thực hiện


trong các tổ chức của Đ. Đó là những cơng tác không thể thiếu được để
không ngừng nâng cao năng lực lanh đạo và chiến đấu của Đảng.
2. BÀI HỌC ĐỐI VỚI SV NGÀNH XDĐ
- Cần phát huy vai trò gương mẫu của đội sinh viên ngành xây dựng Đảng nhất
là trong việc đấu tranh với bệnh ấu trĩ “tả huynh” .
- Phải ln tự mình trau dồi, rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất, đạo đức cách
mạng, chống chủ nghĩa cá nhân.
- Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng giáo dục và tự giáo dục cho cán bộ, đảng
viên, công chức hiện nay.



×