TIỂU LUẬN
MƠN: LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ
Đề tài:
NỘI DUNG TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH
TRƯỚC NĂM 1945
MỤC LỤC
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.........................................................................................1
II. NỘI DUNG...........................................................................................................1
2.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội xuất hiện tư tưởng Hồ Chí Minh.................................1
2.1.1. Chủ nghĩa đế quốc và sự ra đời hệ thống thuộc địa trên thế giới..................1
2.1.2. Bối cảnh lịch sử - xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX............7
2.2. Nội dung tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh trước năm 1945...............................17
2.2.1. Thời kỳ trước năm 1911: Hình thành tư tưởng u nước và chí hướng
cứu nước................................................................................................................17
2.2.2. Thời kỳ 1911 - 1920: Tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân
tộc..........................................................................................................................18
2.2.3 Thời kỳ 1921 - 1930 : Hình thành cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt
Nam.......................................................................................................................20
2.2.4. Thời kỳ 1930 - 1945 : Vượt qua thử thách, kiên trì giữ vững lập
trường cách mạng..................................................................................................22
2.3 Giá trị tư tưởng của Hồ Chí Minh......................................................................25
III. KẾT LUẬN.......................................................................................................28
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................29
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng vĩ dại, nhà lý luận thiên tài của
cách mạng Việt Nam. Trên cơ sở kế thừa phát huy những giá trị truyền thống
tốt đẹp của dán tộc và tinh hoa văn hoá của nhân loại, Người đã nắm bất sâu
sắc bản chất cách mạng và khoa học, tinh thần biện chứng và nhân đạo của
chủ nghĩa Mác- Lênin, vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế,
giải quyết thành cơng những vấn để chính trị Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ phận quan trọng trong nền tảng tư
tưởng và là tài sản tinh thần vơ cùng q giá của tồn Đảng và tồn dân ta. Vì
vậy, nghiên cứu một cách có hệ thống và khoa học quá trình hình thành và
phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh là một việc làm có ý nghĩa thiểt thực. Trước
thực tiễn mới của sự nghiệp đổi mới căn bản, tồn diện cơng tác giáo dục và
đào tạo, quán triệt đường lối về đổi mới cơng tảc tư tưởng, lý luận của Đảng
thì việc tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh là rất cấp thiết.
Với lý do như trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Nội dung tư tưởng chính
trị Hồ Chí Minh trước năm 1945”, để đi sâu tìm hiểu tư tưởng của người
trước năm 1945 làm bài tập hết mơn của mình.
II. NỘI DUNG
2.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội xuất hiện tư tưởng Hồ Chí Minh
2.1.1. Chủ nghĩa đế quốc và sự ra đời hệ thống thuộc địa trên thế
giới
Chủ nghĩa tư bản trong quá trình tồn tại đã chuyển từ chù nghĩa tư bàn
tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc quyền. Chủ nghĩa để quốc là sự
kết hợp giữa yêu cầu vươn ra và thống trị ở nước ngoài của chủ nghĩa tư bản
độc quyền với đường lối xâm lăng của nhà nước. Sự tranh giành việc phân
chia thị trường thế giới của các đế quốc tư bản đã dẫn đến cuộc Chiến tranh
1
thế giới lần thứ I (1914-1918) và lần thứ II (1939-1945), cũng như những
xung đột nóng ở nhiều khu vực trên thế giới.
Chủ nghĩa tư bản trong quá trình đi xâm lược các dân tộc đã hình thành
hệ thống thuộc địa rộng khắp, trải dài khắp thế giới. Đa số các nước Mỹ
Latinh đã sớm trở thành thuộc địa của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Các
nước châu Phi khi còn đang trong thời kỳ bộ tộc đã trở thành thuộc địa của
Anh, Pháp. Còn châu Á là mảnh đất màu mỡ, mới được khai phá nên trở
thành đích đến của các đế quốc sừng sỏ. Trung Quốc bị thực dân Anh xâm
lược; sau đó là Mỹ vả Nhật Bản cũng tranh nhau xâm chiếm.
Các nước Đông Nam Á như Mã Lai, Miến Điện là thuộc địa của Anh.
Thực dân Pháp chiếm Việt Nam, Lào, Campuchia. Tây Ban Nha, Mỹ chiếm
Philippin. Hà Lan và Bồ Đào Nha thơn tính Inđơnêxia. Chỉ duy nhất Xiêm
thốt khỏi tình trạng thuộc địa nhưng cũng bị phụ thuộc chặt chẽ vào các
nước đế quốc phưong Tây, nhất là Anh và Pháp.
Sau Chiến tranh thể giới lần thứ I, lãnh thổ thể giói đã được phân chia
lại. Các nước đế quốc giả có nhiều thuộc địa nhất. Nước Anh có hệ thống
thuộc địa rộng lớn nhất, được gọi là “đế quốc mặt trời không bao giờ lặn”.
Đến năm 1914, thuộc địa của Anh rộng tới 33 triệu km2 với 400 triệu người,
bằng 1/4 diện tích vả chiếm 1/4 dân số thế giới - nhiều gấp 12 lần thuộc địa
của Đức và 3 lần thuộc địa của Pháp.
Quá trình chủ nghĩa đế quốc đi xâm lứợc các nước thuộc địa đã tạo nên
những mâu thuẫn mới đari xen với những mâu thuẫn cũ đang tồn tại, trong đó
có mâu thuẫn giữa các đế quốc với các nước thuộc địa. Gùng vói những mâu
thuẫn vốn có trong xã hội tư bản là tư sản và vô sản, mâu thuẫn giữa các nước
tư bản thì mâu thuẫn giữa đế quốc với các nước thuộc địa đã hình thành một
lực lượng mới lả các dân tộc thuộc địa. Bước sang thế kỷ XX, tiếng chuông
của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã đánh thức toàn nhân loại,
thơi thục mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng của các dân tộc trên thế
giới.
2
a. Sự xuất hiện của học thuyết Mác
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, nước Anh, Pháp và một số nước
Tây Âu, Mỹ đã hình thành chế độ tư bản chủ nghĩa. Phưong thức sản xuất vả
trao đổi tư bản ở châu Âu phát triển mạnh, gắn liền với tiến bộ của nền đại
công nghiệp. Giai cấp tư sản và giai cấp công nhân tăng nhanh về số lượng,
trở thành hai giai cấp cơ bản trong xã hội, vừa nương tựa vào nhau để tồn tại,
vừa có lợi ích đối kháng. Cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp công nhân và tư
sản ngày càng phát triển và chiếm vị trí hàng đầu trong đời sống chính trị ở
các nước tư bản. Sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa,
cùng với sự trưởng thành và lớn mạnh của phong trào cơng nhân đã địi hỏi
phải có một lý luận cách mạng, khoa học dẫn đường.
Mốc đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa Mác là sự xuất hiện tác phẩm
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản vào tháng 2-1848. Đây là tác phẩm lý luận
hoàn chỉnh của C.Mác và Ph.Ăngghen, chứa đựng những nguyên lý cơ bản
của cả ba bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác. Với bản chất cách mạng và khoa
học, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã nhanh chóng trở thành ngọn cờ tư
tưởng, ánh sáng soi đường và kim chỉ nam cho hành động của phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ra đời đã
chấm dứt thời kỳ khủng hoảng, đấu tranh tự phát của phong trào công nhân.
Từ đây, phong trào cách mạng thế giới có bước phát triển vượt bậc so với
trước; đồng thời có mục tiêu chính trị rõ ràng là đấu tranh lật đổ chủ nghĩa tư
bản, xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới.
b. V.I.Lênỉn và Cách mạng Tháng Mười Nga 1917
Thứ nhật, chủ nghĩa Lênỉn.Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần
thứ 10 Đảng Cộng sản Liên Xô năm 1974 đã nhận định: Chủ nghĩa Lênin là
chủ nghĩa Mác trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vơ sản, là thịi
đại sụp đổ của chủ nghĩa thực dân và thắiig lợi của phong trào giải phóng dân
tộc, thời kỳ quá độ của loài người từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và
xây dựng xã hội cộng sản. Việc Cương lĩnh chính trị của V.I.Lênin được
3
thông qua tại Đại hội II của Đảng Công nhân dân chủ - xã hội Nga năm 1903
đã đánh dấu bước phát triển mới của chủ nghĩa Lênin.V.I.Lênin có vai trò to
lởn trong việc bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác trong thời đại đế quốc chủ
nghĩa và cách mạng vơ sản. Khi bàn về vai trị lãnh đạo cùa giai cấp vô sản
trong cách mạng dân chủ tư sản, V.I.Lênin đã nghiên cứu cách mạng dân chủ
tư sản trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và kết luận: giai cấp vô sản phải tiến
hành lãnh đạo cách mạng dân chủ tư sản - đó là cách mạng dân chủ tư sản
kiểu mới.
Về khả năng thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa, gắn với điều
kiện lịch sử mới, V.I.Lênin đã kết luận, cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể nổ
ra và thắng lợi thậm chí ở một nước riêng biệt, mà ở đó chủ nghĩa tư bản chỉ
phát triển trung bình. V.I.Lênin tiếp tục phát triển lý luận về chun chính vơ
sản, liên minh cơng nơng, chiến tranh và hịa bình... Chủ nghĩa Lênin ra đời,
phát triển gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, các trào lưu tư
tưởng phi mácxít ở Nga và trên thế giới.
Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết cách mạng và khoa học do C.Mác,
Ph.Ăngghen sáng lập, được V.I.Lênin phát triển toàn diện, luận giải về sự diệt
vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và con đường cách mạng vô sản lật đổ chế
độ tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa
Mác-Lênin ra đời đánh dấu bước ngoặt trong quá trình nhận thức của loài
người. Chủ nghĩa Mác-Lênin với những lý luận chung vê chủ nghĩa cộng sản
có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của xã hội loài người.Chủ nghĩa MácLênin có vai trị to lớn trong việc giúp cách mạng Việt Nam thoát khỏi cuộc
khủng hoảng về đường lối.
Sau này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận xét: “Chúng tơi giành được
thắng lợi đó là do nhiều nhân tố, nhưng cần phải' nhấn mạnh rằng... chúng tôi
giành được những thắng lợi đó trước hết nhờ cái vũ khí khơng gì thay thế
được là chủ nghĩa Mác-Lênin”1.Thứ hai, Cách mạng Tháng Mười Nga
1917.Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 khơng chỉ có ý nghĩa to lớn với
nước Nga mà cịn có giá trị thời đại sâu sắc:
4
Một là, Cách mạng Thảng Mười Nga năm 1917 đã mở .ra một thời đại
mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản đi lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi
toàn thế giới. Cách mạng Tháng Mười đã tạo ra bước ngoặt, làm thay đổi
phương hưởng, nhịp điệu phát triển của lịch sử loài người.
Hai là, Cách mậng Tháng Mười Nga năm 1917 đã đưa chủ nghĩa xã hội
từ lý luận trở thành hiện thực. Trước đó, chủ nghĩa cộng sản mới chỉ là ước
mơ, là một “bọng ma” ám ảnh châu Âu. Vì vậy, cách mạng thành công ở Nga
là một hiện thực. Những ngụyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác đã được
V.I.Lênin vận dụng sáng tạo và hiện thực hóa trong điều kiện cụ thể của nước
Nga - một nước tư bản trung bình, đưa đến thắng lợi của cách mạng vô sản.
Ba là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã có ảnh
hưởng mạnh mẽ tới cục diện thế giới, làm cho chủ nghĩa tư bản khơng cịn là
một hệ thống hoàn chỉnh bao trùm khắp thế giới. Mở đầu cho thời kỳ phát
triển thành hai hệ thống chính trị xã hội đối lập.
Bốn là, Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã thức tỉnh, cổ vũ các
dân tộc, các nước thuộc địa bị áp bức, phong trào đấu tranh của giai cấp cơng
nhân ở các nước tư bản. Nó vạch ra tính tất yếu trong sự liên minh giữa phong
trào cơng nhân với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc; đồng thời chỉ ra rằng
chỉ cách mạng vô sản, sự giúp đỡ của giai cấp công nhân các nước đã giành
chính quyền mới có thể giải quyết được vấn đề dân tộc.
Cách mạng Tháng Mười Nga có ý nghĩa to lớn đối với cách mạng Việt
Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trước thất bại của các phong trào cứu nưởc
theo khuynh hướng phong kiến và dân chủ tư sản ở Việt Nam, Nguyễn Tất
Thành đã chọn Cách mạng Thảng Mười Nga 1917 làm hình mẫu cho đườrig
cách mạng của dân tộc, bởi: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là
đã thành cơng, và thành cơng đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái
hạnh phúc tự do, binh đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế
quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi
được vua, từ bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho công, nông các nước và dân bị áp
5
bức các thuộc địa làm cách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản
trong thế giới”1. Lựa chọn sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa con
thuyền cách mạng Việt Nam đến bến bờ thắng lợi.
c. Sự ra đời và hoạt động của Quốc tế Cộng sản
Quốc tế Cộng sản (hay còn gọi là Quốc té III) ra đời năm 1919 và hoạt
động đến năm 1943, do V.I.Lênin trực tiếp lãnh đạo trong thời gian 19191924; sau đó l.Stalin kể tục sự nghiệp của V.I.Lênin. Trong thời gian tồn tại,
Quốc tế Cộng sản đã thể hiện vai trò lịch sử to lớn trong việc tạo nên khối
đoàn kết rộng lớn giữa nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức. Khối đoàn
kết này đã thúc đẩy phong hào đấu tranh cách mạng trên thế giới phát triển
mạnh mẽ. Quốc tế Cộng sản đã giúp thành lập, củng cố và bồi dưỡng các
đảng cộng sản ở các nước và từ đó phát huy vai trò trong phong trào cách
mạng mỗi nước. Đồng thời, Quốc tế Cộng sản đã bảo vệ chủ nghĩa MácLênin, đấu tranh chống mọi khuynh hướng cơ hội - xét lại, phát triển và tiếp
tục truyền bá sâu rộng chủ nghĩa Mác-Lênin trong quần chúng.Quốc tế Cộng
sản đã đào tạo cho cách mạng Việt Nam một số cán bộ cách mạng; trong số
đó có người đã trở thành lãnh tụ của cảch mạng Việt Nam như: Nguyễn Ái
Quốc, Trần Phú, Lê Hồng Phong... Thời gian học ở Trường Đại học phương
Đơng đã giúp Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh có nền tảng lý luận vững chắc,
để sau này vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin phù hợp với
thực tiễn cách mạng Việt Nam.
d. Khu vực châu Á và các nước phương Đơng
Châu Á có diện tích lớn nhất thế giới, giàu có về tài ngun và có nhiều
điều kiện tự nhiên thuận lợi. Cuối thể kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi chủ nghĩa tư
bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa thì chế độ phong kiến ở châu Á
cũng bước vào thời kỳ suy tàn. Chủ nghĩa đế quốc với lòng tham về siêu lợi
nhuận đã sớm hướng tới châu Á. Đến cuối thế kỷ XIX, hầu hết các quốc gia ở
châu Á đã trở thành thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Nhật Bản thốt được
ách nơ lệ nhờ cải cách Minh Trị và hở thành một nước tư bản chủ nghĩa. Các
6
nước còn lại đều trở thành thuộc địa và thị trường của đế quốc Anh, Pháp,
Mỹ, Hà Lan... Cuối thế kỷ XIX đầu thể kỷ XX, phong trào yêu nước ở các
nước thuộc địa châu Á vùng lên mạnh mẽ chống lại ách áp bức, bóc lột của
chủ nghĩa thực dân nhưng đều thất bại, do bế tắc về đường lối và phương
pháp đấu tranh cách mạng.
Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước châu Á có ảnh
hưởng mạnh mẽ đến Việt Nam và Nguyễn Ái Quốc. Cuộc vận động cải cách
của Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu (1898), cuộc Cách mạng Tân Hợi
(1911) với tư tưởng Tam dân của Tôn Trung Sơn đã tác động mạnh đến tầng
lớp sĩ phu yêu nước Việt Nam, tạo nên một phong trào đấu tranh mạnh mẽ.
Tư tưởng dân chủ tư sản cũng có tác động, tạo nên phong trào đấu tranh sôi
nổi của tầng lớp tư sản dân tộc, tiêu biểu là Việt Nam Quốc dân Đảng. Từ lịch
sử và kinh nghiệm đấu tranh của các dân tộc ở châu Á theo các khuynh hưởng
chính trị khác nhau đã giúp Nguyễn Ái Quốc nhận ra rằng: “Trong thời đại
ngày nay, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít của cách
mạng vơ sản trong phạm vi toàn thế giới”. Người đã đặt cách mạng Việt Nam
trong mối liên hệ với phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á nói riêng và
phong trào cách mạng vơ sản thế giới nói chung.
2.1.2. Bối cảnh lịch sử - xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
a. Đất nước
Quá trình thực dân Pháp xâm lược và tiến hành khai thác thuộc địa
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam, nhưng phải đén
năm 1884 mới hoàn thành việc xâm lược. Triều Nguyễn lúc đầu đã phát động
nhân dân giương cao ngọn cờ chống Pháp. Song nhà Nguyễn đã khơng kiên
trì mà tỏ ra dao động, hèn nhát, ký với Pháp điều ước bán nước. Ngay sau khi
xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp đã bắt tay vào cơng cuộc khai thác, bóc
lột bằng hai cuộc khai thác lần 1 (1897-1914) và lần 2 (1919-1929).
7
Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách phản động, thâm độc:
“chia để trị”, “dùng người Việt trị người Việt”. Chúng thành lập cái gọi là
Liên bang Đông Dương bao gồm có Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Campuchia,
Lào trực thuộc Bộ thuộc địa và Hải quân. Bắc Kỳ và Trung Kỳ là hai xứ bảo
hộ còn duy trì chính quyền phong kiến về mặt hình thức; Nam Kỳ là xứ thuộc
địa của Pháp. Đứng đầu Liên bang Đơng Dương có tồn quyền người Pháp,
thay mặt Chính phủ Pháp cai trị Đông Dương.
Về kinh tể, thực dân Pháp chủ trương đầu tư sàn xuất trong giới hạn
cung cấp ngun liệu, vật phẩm mà nước Pháp khơng có, hoặc chỉ bổ sung
cho nền kinh tế chính quốc chứ khơng ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế
Pháp. Do vậy, Pháp đã thi hành nhiều chính sách phát triển nền kinh tế Việt
Nam theo hướng phiến diện, què quặt, phụ thuộc hồn tồn vào Pháp.
Về văn hóa giáo dục, thực dân Pháp thi hành chính sách “ngu dân”.
Những thói hư tật xấu được Pháp dung dưỡng; nạn cờ bạc, rượu chè, nghiện
thuốc phiện được khuyến khích mở rộng. Chúng sử dụng cơng cụ báo chí để
cổ vũ cho cơng cuộc khai thác như báo Lục tỉnh tân văn, Đại Việt tân báo...
để ca ngợi chính sách khai hóa, hơ hào mở rộng công, thương nghiệp, truyền
bá văn minh phương Tây vào Việt Nam. Tất cả những chính sách đó nhằm
làm cho nhân dân Việt Nam rơi vào cảnh mù chữ, suy kiệt giống nòi, làm cho
một bộ phận nhân dân chìm đắm trong khói thuốc phiện, hơi rượu cồn để
quên đi nỗi nhục mất nước. Nguyễn Ái Quốc đã nhận xét: “Rượu cồn và
thuốc phiện cùng báo chí phản động của bọn cầm quyền bổ sung cho cái công
cuộc ngu dân của Chính phủ. Máy chém và nhà tù làm nót phần cịn lại”.
* Sự biển đổi của xã hội Việt Nam dưới tác động của quá trình xâm
lược, khai thác và bóc lột thuộc địa của thực dân Pháp
Trước tác động của hai cuộc khai thác thuộc địa, xã hội Việt Nam đã
biến đổi từ một xã hội phong kiến cổ truyền phương Đông sang một xã hội
thuộc địa nửa phong kiến.
8
Các chính sách kinh té của thực dân Pháp đã phá vỡ tính chất độc tơn
phong kiến của nền kinh tế cũ. Nền kinh tế Việt Nam là sự hỗn dung của hai
yếu tố tư bản chủ nghĩa và phong kiến, tạo nên diện mạo xã hội mới thực dân,
phong kiến. Đặc điểm nổi bật của cơ cấu kinh tế là ở sự phát triển mất cân đối
của một nền nông nghiệp cổ hủ, công nghiệp mong manh. Trong công nghiệp,
thực dân Pháp chủ yếu phát triển ngành công nghiệp khai thác mỏ, các ngành
sản xuất khác hầu như không phát triển.
Về chính trị, Việt Nam vốn là nước phong kiến độc lập có chủ quyền.
Từ khi thực dân Pháp xâm lược đã thay đổi thành một nước thuộc địa nửa
phong kiến. Việt Nam không những bị mất độc lập, chủ quyền mà còn bị sáp
nhập với Lào và Campuchia thành Liên bang Đơng Dương, khơng có tên trên
bản đồ thế giới. Đất nước chia làm ba kỳ với ba chế độ khác nhau. Vua quan
nhà Nguyễn chỉ là bù nhìn. Mọi cơng việc đều do người Pháp quyết định.
Như vậy, từ địa vị làm chủ nước nhà, triều Nguyễn đã mất quyền điều hành
đất nước mà giao cho thực dân Pháp quản lý.
Về văn hóa - giáo dục, ảnh hưởng của thành tựu khoa học kỹ thuật
phương Tây đã thúc đẩy và tăng cường mối quan hệ tiếp xúc giữa hai nền văn
hóa Á - Âu, Đơng - Tây. Việc in ấn, xuất bản các sách giới thiệu về những
thành tựu khoa học phương Tây, triết học... đã làm thay đổi nhận thức của
người Việt Nam. Đặc biệt, ảnh hưởng của sách báo Trung Quốc, Nhật Bản đã
tạo ra một trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản, từ đó hình thành khuynh hướng
dân chủ tư sản trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc những năm đầu
thế kỷ XX. Các giá trị văn hóa mới của dân tộc đang dàn dần hình thành và
phát triển, nhất là trên lĩnh vục văn học nghệ thuật. Sự ra đời của một loạt các
trào lưu văn học mới góp phần tố cáo tội ác của thực dân Pháp, thức tỉnh nhân
dân đứng lên đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho Tổ
quốc.
Về xã hội, trước khi thực dân Pháp xâm lược, cơ cấu giai cấp - xã hội
Việt Nam chỉ có hai giai cấp chính là nông dân và địa chủ phong kiến. Dưới
9
sự tác động của công cuộc khai thác thuộc địa của Pháp đã làm cho cơ cấu
giai cấp - xã hội Việt Nam biến đổi sâu sắc. Bên cạnh những giai cấp cũ đẵ
xuất hiện những tầng lớp, giai cấp mới có địa vị kinh tế khác nhau, như giai
cấp cơng nhân, tư sản, tiểu tư sản, trí thức.Giai cấp địa chủ, phong kiến bị
phân hóa thành hai bộ phận: đại địa chủ cấu kết với thực dân Pháp bóc lột
nhân dân ta, phản bội lợi ích dân tộc, trở thành đối tượng cần xóa bỏ trong
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Bộ phận cịn lại là địa chủ vừa và nhỏ, ít
nhiều có lịng u nước, lại bị thực dân Pháp chèn ép nhưng dễ bị dao động.
Do vậy, trong cách mạng giải phóng dân tộc cần tranh thủ tầng lớp này hoặc
trung lập họ.Giai cấp nông dân là lực lượng lao động đông đảo chiếm 90%
dân số nhung chỉ có 42% diện tích đất canh tác. Giai cấp nông dân chịu hai
tầng áp bức của địa chủ phong kiến và thực dân Pháp. Trong quá trình sản
xuất, họ bị phân hóa thành ba tầng lớp: trung nơng, bần nông và cố nông. Họ
vừa phải chịu cảnh sưu thuế, phu phen tạp dịch vừa phải chịu hậu quả của
nhiều trận lũ lụt, hạn hán và chính sách cướp ruộng đất, lập đồn điền của thực
dân Pháp. Một bộ phận nơng dân đi lên các thành phố lớn tìm việc làm trong
các nhà máy, xí nghiệp trở thành vơ sản. số còn lại tiếp tục làm kiếp tá điền
ngay trên chính mảnh ruộng của họ. Họ căm thù bọn đế quốc, phong kiến tay
sai và là lực lượng đông đảo nhất trong cách mạng giải phóng dân tộc. Tuy
nhiên, để phát huy vai trò của họ cần phải tăng cường công tác tuyên truyền,
giáo dục, giác ngộ.
Giai cẩp tư sản Việt Nam, trước Chiến tranh thế giới I chỉ là một tầng
lớp nhỏ bé, kinh doanh trong lĩnh vực thương nghiệp, sản xuất còn hạn ché.
Sau chiến tranh, hoạt động kinh doanh của tư sản Việt Nam ngày càng được
mở rộng và có mặt hầu hết trong các lĩnh vực sản xuất. Đen những năm 20
của thế kỷ XX, giai cấp tư sản Việt Nam về cơ bản được hình thành. Tuy
nhiên, do tác động của điều kiện kinh tế - xã hội mới nên giai cấp tư sản bị
phân hóa thành hai bộ phận: tư sản mại bản được Pháp dung dưỡng, có thế
lực, cấu kết chặt chẽ với thực dân, quay sang bóc lột nhân dân và trở thành
10
đối tượng cần đánh đổ của cách mạng giải phóng dân tộc; tư sản dân tộc bị
Pháp chèn ép, cản trở trong sản xuất kinh doanh, ít nhiều có tinh thần dân tộc,
nhưng rất dễ dao động khi được Pháp nhân nhượng cho một số quyền lợi. Nói
chung địa vị của tư sản dân tộc còn rất nhỏ yếu và thấp kém so với tư bàn
nước ngoài. Do địa vị nhỏ yếu nên thái độ chính trị của họ rất bạc nhược,
khơng thể lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc đi đến thắng lợi.
Giai cẩp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc. Cùng với
công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, giai cấp công nhân Việt
Nam không ngừng lớn mạnh về số lượng và chất lượng. Phần lớn công nhân
Việt Nam xuất thân từ nơng dân. Lực lượng cơng nhân có kỹ thuật trong các
ngành chỉ chiếm 0,43%. Giai cấp công nhân Việt Nam mang đầy đủ đặc điểm
của giai cấp công nhân quốc tế, nhưng do đặc thù của xã hội nên có những
đặc điểm riêng như: chịu ba tầng áp bức (đế quốc, phong kiến, tư sản), khơng
có tầng lớp công nhân quý tộc, cỏ mối liên hệ mật thiết với giai cấp nông dân,
kế thừa truyền thống yêu nựớc bất khuất của dân tộc và mới ra đời đã bắt gặp
ngay chủ nghĩa Mác-Lênin.
Các phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
Hồ Chí Minh đã nhận xét: “Nhân dân Việt Nam có truyền thống yêu
nước nồng nàn. Lịch sự ngàn năm của dân tộc Việt Nam đã ghi những hang
oanh liệt của nhân dân đấu tranh để xây dựng nước nhà và bảo vệ nền độc lập
của Tổ quốc mình”. Từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân Việt Nam đã
anh dũng đứng lên chống lại ách đô hộ theo các khuynh hướng sau đây:
Một là, phong trào đấu tranh theo khuynh hướng phong kiến, tiêu biểu
là phong ưào cần Vương. Đây là phong trào hưởng ứng chiếu cần Vương của
vua Hàm Nghi, kẻo dài từ năm 1885 đến năm 1896 mới kết thúc. Tiêu biểu
cho phong trào là ba cuộc khởi nghĩa: Ba Đình (Phạm Bành, Đinh Cơng
Tráng), Bãi Sậy (Nguyễn Thiện Thuật), Hương Khê (Phan Đình Phùng).
Phong trào nơng dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo, kéo dài từ năm
1884 đến năm 1913. Phong trào đã chứng tỏ tinh thần đấu tranh anh hùng, bất
11
khuất của nông dân Việt Nam và chứng minh rằng, giai cấp nông dân chỉ trở
thành lực lượng cách mạng khi được giai cấp tiên tiến dẫn đường.
Hai là, các phong trào theo khuynh hướng dân chủ tư sản. Phong trào
Đông Du (1904-1908) do Phan Bội Châu lãnh đạo, với chủ trương đưa thanh
niên Việt Nam sang Nhật học tập và dựa vào Nhật giúp đỡ để chống Pháp.
Lúc này, Nhật đã tiến hành cải cách Minh Trị, đang tiến theo con đường tư
bản chủ nghĩa nên các sĩ phu u nước cho rằng, “muốn tìm ngoại viện khơng
gì bằng sang Nhật là hơn cả”. Nhận thức rõ sự nguy hại, thực dân Pháp đã cẩu
két với Nhật trục xuất các du học sinh Việt Nam cùng Phan Bội Chầu ra khỏi
nước Nhật, phong trào Đông Du tan rã.
Phong trào Duy Tân do Phan Châu Trinh khởi xướng nhằm “chấn dân
khí, khai dân trí, hậu dân sinh”. Chủ trương khơng dùng bạo lực, ơng đã đề
nghị Chính phủ Pháp cải cách, song không được chấp nhận. Trong phong trào
chống thuế ở Trung Kỳ năm 1908, ông bị bắt và sau đó bị đưa sang Pháp sinh
sống.
Đơng kinh nghĩa thục là phong trào do Phan Châu Trinh, Lương Văn
Can khởi xướng từ tháng 3 đến thảng 12-1907. Cầc ông đã chủ trương lập ra
Trường Đông kinh nghĩa thục nhằm giáo dục lòng yêu nước, tự hào dân tộc,
truyền bá một nền học thuật và văn minh mới. Phong trào lan rộng khiến thực
dân Pháp lo ngại, cho rằng đây là một “cái lò phiến loạn” cần dẹp bỏ nên
tháng 12-1907 đã cho đóng cửa trường.
Tầng lớp tiểu tư sản có nhiều hoạt động yêu nước, tiêu biểu là phong
trào Quốc gia cải lương năm 1919, với khẩu hiệu “chấn hưng nội hóa, bài trừ
ngoại hóa”. Phong trào đã có nhiều hoạt động như đấu tranh đòi thả Phan Bội
Châu năm 1925, để tang Phan Châu Trinh và đón rước Nguyễn An Ninh vào
tháng 3-1926. Giai cấp tư sản đã tổ chức cuộc khởi nghĩa Yên Bái vào ngày
9-2-1930, do Nguyễn Thái Học lãnh đạo nhưng không giành được thắng lợi
đã chấm dứt vai trò của giai cấp tư sản trong lịch sử dân tộc.
12
Sự thất bại của các phong trào là do nền tảng tư tưởng không phù hợp.
Hầu hét các phong trào chỉ diễn ra trong phạm vi hẹp, khơng có sự liên minh
với các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội. Lịch sử lúc này đặt ra một yêu
cầu mới, đó là giải quyết cuộc khủng hoảng về đường lối và giai cấp lãnh đạo
cách mạng. Từ thất bại của các phong trào yêu nước, Hồ Chí Minh đã nhận
thức rằng, muốn cứu nước, giải phóng dân tộc phải theo một con đường mới.
Đây là cơ sở để Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước, tiếp cận và đến với
chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc.
b. Quê hương
Quê ngoại và cũng là nơi Hồ Chí Minh được sinh ra là làng Hồng Trù
(cịn gọi là làng Trùa) thuộc xã Chung Cự trước đây. Làng Hoàng Trù nằm
ven tỉnh lộ số 49 Vinh - Nam Đàn - Thanh Chương - Đô Lương về phía Tây,
cách thành phố Vinh 13km. Quê nội Hồ Chí Minh ở làng Kim Liên (làng
Sen), cách Hồng Trù 2km, nằm cạnh một quả đồi không cao, nhưng vẫn
quen gọi là núi Chung. Tuy nghèo nhưng mảnh đất giàu truyền thống yêu
nước và truyền thống văn hóa đã có ảnh hưởng lớn tới Hồ Chí Minh.
* Truyền thống yêu nước
Phát huy truyền thống yêu nước, nhân dân Nghệ Tĩnh ln cần cù trong
lao động, nghĩa tình trong đời sống và anh hùng, bất khuất trước kẻ thù.
Hưởng ứng chiếu cần Vương, Vương Thúc Mậu đã đứng ra thành lập một
nghĩa quân khá đông lấy tên là Chung nghĩa binh (đội nghĩa quân núi Chung)
và đã giáng cho bọn xâm lược những địn chí mạng. Khi bị giặc vây bắt, ông
đã kháng cự quyết liệt, rồi nhảy xuống ao Trùa ở làng Sen tự vẫn. Con của
Vương Thúc Mậu là Vương Thúc Quý đã nối nghiệp cha, hăng hái ham gia
phong trào yêu nước của Phan Bội Châu.
Ở Hoàng Trù có ơng Hồng Xn Hành hoạt động trong phong trào
Văn thân rồi sau đó tham gia nghĩa qn Hồng Hoa Thám ở n Thế, Bắc
Giang. Sau đó, ơng trở về Nghệ An, lập căn cứ ở vùng Bố Lư thuộc huyện
13
Thanh Chương để chống Pháp. Khi bị bắt giặc tra tấn, hỏi cung, ông liền cắn
lưỡi, làm cho chúng khiếp sợ, đày đi Cơn Đảo.
Dịng họ Nguyễn Sinh có ơng Nguyễn Sinh Quyển tham gia Chung
nghĩa binh. Sau khi cụ Vương tử tiết, ông đã đem một bộ phận Chung nghĩa
binh vào núi Vũ Quang tham gia cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng. Khởi
nghĩa thất bại, ơng bị giặc bắt, đưa về Kim Liến xử chém. Trước lưỡi dao của
giặc, ơng vẫn thể hiện một khí phách hiên ngang, bất khuất.
Mảnh đất anh dũng này còn là quê hương của Mai Hắc Đe - lãnh tụ của
một trong những cuộc khởi nghĩa nông dân lớn nhất chống lại sự thống trị của
phong kiến phương Bắc; Quang Trung - lãnh tụ của phong trào Tây Sơn; quê
hương của đại thi hào Nguyễn Du, Nguyễn Cơng Trứ - người có cơng phát
triển thể ca trù trong thi cạ Việt Nam; Phan Đình Phùng - người mà bản lĩnh
và khí phách làm cho bọn thực dân phải khiếp sợ...
Truyền thống yêu nước trên quê hương đã được nối tiếp và phát triển
bởi các thế hệ người dân là nguồn cổ vũ to lớn cho những người được lịch sử
đặt lên vai trọng trách cứu nước, trong đó có Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
* Truyền thống văn hóa
Cũng như các làng quê khác trong cả nước và trong vùng, người làng
Sen rất yêu thích những lời dân ca cổ ca ngợi thiên nhiên, tình yêu quê hưong,
Tổ quốc. Cả hai làng Kim Liên và Hoàng Trù là đất “hát phường vải” - một
sinh hoạt văn hóa dân gian đã có từ lâu đời, tạo nên nét đặc trưng văn hóa
Nam Đàn. Hát phường vải là niềm vui trong lao động, là dịp để con trai con
gái qua lời ca tiếng hát mà thử tài ứng đối, thể hiện trí thơng minh, làm cho
tâm hồn mỗi người thêm thanh cao hơn. Thòi thơ ấu, Nguyễn Tất Thành đã
được nuôi dưỡng tâm hồn bằng những bài ca ấy.
Xứ Nghệ nói chung và làng Kim Liên nói riêng là nơi lưu giữ một
truyền thống quý giá, đó là hiếu học. Trơng làng, nhiều nhà nho mở lóp dạy
chữ Hán cho học trị. Làng Kim Liên tự hào về “đất văn vật, chốn thi thư”.
Đầu thế kỷ XX, Nghệ Tinh cịn có nhiều bậc sĩ phu yêu nước học rộng, tài
cao, tiêu biểu là Phan Bội Châu. Người cha của Nguyễn Tất Thành là cụ
14
Nguyễn Sinh sắc cũng là một tấm gương sáng về tinh thần cần cù, bền bỉ
trong học tập, rèn luyện văn chương. Thuở nhỏ, Nguyễn Tất Thành thường
được cha cho đi cùng đến những nơi giao lưu đàm đạo của các bậc chí sĩ bàn
về việc cứu nước, cứu dân và được gửi đến học ở các lóp chữ Hán của các
nhà nho trong vùng nên ít nhiều cũng ảnh hưởng đến suy nghĩ và tư duy của
Hồ Chí Minh. Truyền thống đó đã trở thành hành trang khơng thể thiếu trên
con đường hoạt động cách mạng đầy sôi nổi và vĩ đại của Người. Nó giúp cho
Hồ Chí Minh có khả năng thẩm thấu và suy xét những vấn đề phức tạp của sự
nghiệp cách mạng.
c. Gia đình
Gia đình của Hồ Chí Minh vừa chứa đựng những nét đẹp của một gia
đình Việt Nam truyền thống, đồng thời lại có nét đặc trưng của một gia đình
trí thức, gia giáo. Mỗi thành viên trong gia đình, từ cha mẹ đến anh, chị đều
có ảnh hưởng sâu sắc tới nhân cách và suy nghĩ của Hồ Chí Minh, đặc biệt là
người cha - quan Phó bảng Nguyễn Sinh sắc.
* Tẩm gương người cha - ông Nguyễn Sinh sấcNguyễn Sinh sắc là
con của ông Nguyễn Sinh Nhậm - thuộc thế hệ thứ mười của dòng họ
Nguyễn Sinh ở Kim Liên. Nguyễn Sinh Sắc mồ cơi cha mẹ từ rất sớm, hồn
cảnh gia đình khó khăn, khơng có điều kiện đến trường, nhưng vốn thông
minh, hiếu học nên đã học lỏm được ở bạn bè ít chữ nghĩa, về sau, cụ Hồng
Xn Đường biết được tinh thần hiếu học của Nguyễn Sinh sắc đã xin được
đưa về nhà mình ni dạy. Nhờ sự chăm sóc dạy dỗ của cụ Hồng Xn
Đường, Nguyễn Sinh sắc có sự tiến bộ vượt bậc. Sau hai năm học tập, ơng
có thể đàm đạo văn thơ với những học sinh lớp trước. Cụ Tú Đường thương
yêu Nguyễn Sinh sắc như con đẻ, dạy dỗ, cho ăn học, gửi đi học ở nhà thầy
đồ là Nguyễn Thức Tự - người nổi tiếng un bác và có lịng u nước và cụ
cịn gả con gái của mình cho Nguyễn Sinh sắc.
Tuy nhiên, con đường thi cử của Nguyễn Sinh sắc khá lận đận. Khoa
thi Tân Mão năm 1891, ông dự thi Hương lần đầu tại trường thi Nghệ An
15
(Vinh), nhưng chỉ đậu nhị trường, không đủ điều kiện vào thi tam trường.
Khoa thi Hương Giáp Ngọ năm 1893, ông đậu cử nhân. Sau khi thi đỗ, ông đã
đi bộ về làng, từ chối cờ trống, võng lọng của người dân. vốn không muốn
khoa trưong danh vị về làng, ông sắc đã lấy lý do đang chịu tang bố vợ không
tổ chức ăn mừng mà chỉ làm lễ bái ở nhà thờ, rồi chuẩn bị tu luyện năm sau
thi Hội. Nhưng hai lần thi Hội khoa Ất Tị năm 1895 và khoa Mậu Tuất năm
1898, ông đều không đỗ. Phải đến khoa thi Hội năm Tân Sửu năm 1901, ông
mới đậu Phó bảng, sau hơn 20 năm khổ học, tu dưỡng, rèn luyện văn chương.
Một lần nữa, ông lại từ chối võng lọng đón rước của nhân dân mà tự đi bộ về
nhà. Triều đình Huế mời ra làm quan nhưng ông lấy lý do bị ốm và vợ mới
mất, muốn ở nhà chịu tang vợ để từ chối. Ông viết lên xà nhà mấy chữ: “Vật
dĩ quan gia, vi ngô phong dạng” (đừng lấy phong cách nhà quan làm phong
cách nhà mình” để răn dạy các con. Sau đó, ơng đi khắp các vùng trong tỉnh,
gặp các nhân sĩ u nước, có chí hướng cách mạng.
Trong gia đình, Nguyễn Sinh Cung được ông yêu thương và đặt nhiều
niềm hy vọng nhất nên đi đâu cũng được cho đi cùng. Nhờ vậy, mọi việc làm,
lời nói, cử chỉ và hành động của ông đều tác động mạnh mẽ và ảnh hưởng sâu
sắc tới Nguyễn Sinh Cung. Khi ra kinh thành làm quan, hành lý của Nguyễn
Sinh sắc chỉ nhẹ nhàng, đơn giản như khi đi dạy học. Triều đình Huế bố trí
cho ơng Sắc làm Thừa biện ở bộ Lễ - là một chức quan nhỏ. Bằng thực té
quan trường và chính thực tế của mình, ơng chua xót nói với các giám sinh
rằng: “Quan trường thị nơ lệ trung nô lệ, hựu nô lệ” (quan trường là nô lệ
trong đám người nô lệ, lại càng nô lệ hơn). Ông chán ghét sự giả dối, đồi trụy
của đám quan trường trong triều đình Huế và chỉ thích giao lưu, bàn bạc, đàm
đạo về con đường cứu nước với các nhà yêu nước trong vùng.
Cuối đời, ông học nghề Đông y, xem mạch, kê đơn bốc thuốc chữa
bệnh cho nhân dân.Tấm lòng yêu nước, thương dân của Nguyễn Sinh sắc là
tấm gương sáng để mọi người noi theo. Là một người học rộng, tài cao nhưng
ông lại rất khiêm tốn, khơng ưa thói hình thức, khuếch trương. Ơng ln sống
16
đạm bạc, gắn bó với người dân nghèo, được nhân dân yêu thương đùm bọc.
Nguyễn Sinh sắc là người có tầm ảnh hưởng quyết định trong việc hình thành
lịng yếu nước của Nguyễn Tất Thành.
Năm 1914, Nguyễn Sinh Khiêm đã bị thực dân Pháp bắt giam ở nhà lao
Vinh, bị kết án 9 năm tù khổ sai và đày đi đắp đường tại huyện Ba Ngòi Khánh Hòa. Đốn năm 1920, thực dân Pháp và bọn phong kiến Nam triều
chuyển về giam lỏng ở Huế. Ở đây, Nguyễn Sinh Khiêm làm nghề thuốc chữa
bệnh cứu dân và mở lớp dạy học chữ Hán. Đối với học trò, Nguyễn Sinh
Khiêm rất thân mật, dạy ít, nhưng có kết quả nên được học trị rất kính mến.
Như vậy, hồn cảnh quốc tế và Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX với những biến động to lớn đã đặt ra những vấn đề cấp bách để giải
phóng dân tộc. Hồ Chí Minh đã sớm đặt bối cảnh Việt Nam trong bối cảnh
chung để tìm ra con đường đi đúng đắn. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự gặp gỡ
giữa trí tuệ lớn của Người với trí tuệ của dân tộc và trí tuệ thời đại. Chính sự
vận động, phát triển của tư tưởng yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX đến
những năm 20 của thế kỷ XX, khi bắt gặp chủ nghĩa Mác-Lênin, đã hình
thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
2.2. Nội dung tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh trước năm 1945
2.2.1. Thời kỳ trước năm 1911: Hình thành tư tưởng yêu nước và chí
hướng cứu nước
Hồ Chi Minh (lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, sau đổi là Nguyễn Tất
Thành) sinh ngày 19-5-1890. trong một gia đình nhà nho yêu nước, gần gũi
với nhân dân. Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh của Người, là một nhà
nho cấp tiến, có lịng u nước, thương dân sâu sắc.
Hồ Chi Minh (lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, sau đổi là Nguyễn
Tất Thành) sinh ngày 19-5-1890. trong một gia đình nhà nho yêu nước, gần
gũi với nhân dân. Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh của Người, là một
nhà nho cấp tiến, có lịng u nước, thương dân sâu sắc. Tấm gương lao động
17
cần cù, ý chí kiên cường vượt qua gian khổ để đạt được mục tiêu, đặc biệt là
tư tưởng thân dân, lấy dân làm hậu thuẫn cho các cải cách chính trị - xã hội
của cụ Phó bảng đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với quá trình hình thành nhân
cách của Nguyễn Tất Thành.
Sau này, những kiến thức học được từ người cha, những tư tưởng mới
của thời đại đã được Hồ Chí Minh nâng lên thành tư tưởng cốt lõi trong
đường lối chính trị của mình.
Cuộc sống của người-mẹ - bà Hoàng Thị Loan - cũng ảnh hưởng đến tư
tưởng, tình cảm của Nguyễn Sinh Cung về đức tính nhân hậu, đảm đang, sống
chan hịa với mọi người.
Cịn phải kể tới mối quan hệ và tác động qua lại giữa ba chị em Nguyễn
Thị Thanh (Nguyễn Thị Bạch Liên),
Nguyễn Sinh Khiêm (Nguyễn Tất Đạt) và Nguyễn Sinh Cung (Nguyễn
Tất Thành) về lòng yêu nước, thương nòi.
Nghệ Tĩnh là vùng đất vừa giàu truyền thống văn hóa, vừa giàu truyền
thống lao động, đấu tranh chống ngoại xâm. Nơi đây đã sản sinh ra biết bao
anh hùng nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam như Mai Thúc Loan, Nguyễn Biểu,
Đặng Dung, các lãnh tụ yêu nước thời cận đại như Phan Đình Phùng, Phan
Bội Châu.... những liệt sĩ trong thời kỳ chống thực dân Pháp ngay trên mảnh
đất Kim Liên như Vương Thúc Mậu, Nguyễn Sinh Quyến...
Từ thuở thiếu thời, Nguyễn Tất Thành đã tận mất chứng kiến cuộc sống
nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột đến cùng cực của đồng bào mình. Khi vào Huế,
Anh lại tận mắt nhìn thấy tội ác của thực dân Pháp và thái độ ươn hèn của bọn
phong kiến Nam triều. Thêm vào đó là những bài học thất bại của các nhà yêu
nước tiền bối và đương thời. Tất cả đã thôi thúc Anh ra đi tìm một con đường
mới đề cứu dân, cứu nước. Quê hương, gia đình, truyền thống dân tộc... đã
chuẩn bị cho Anh nhiều điều. Quê hương, đất nước cũng đặt niềm tin lớn ở
Anh trên bước đường tìm đến trào lưu mới của thời đại.
18