Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Đề tài “ Ảnh hưởng của vận động hành lang tới vụ kiện cá tra, cá basa của Việt Nam”. pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.58 KB, 34 trang )


BÁO CÁO TỐT NGHIỆP


Đề tài

“Ảnh hưởng của vận động hành lang tới
vụ kiện cá tra, cá basa của Việt Nam”
Mục lục
Lời nói đầu 3
Chơng 1: ảnh hởng của vận động hành lang trong vụ kiện cá tra, cá basa. 4
1.1 Tổng quan về vụ kiện cá tra, cá basa của Mỹ đối với Việt Nam
4
1.2 Quá trình vận động hành lang trong vụ kiện 8
Chơng 2: Phân tích ảnh hởng của vận động hành lang trong vụ kiện cá tra, cá
basa. 13
2.1 Khái niêm về vận động hành lang 13
2.1.1 Định nghĩa vận động hành lang 13
2.1.2 Phơng thức vận động hành lang trên thị trờng Mỹ 13
2.1.3 Tác dụng và ý nghĩa của vận động hành lang 15
2.1.3.1 Tác dụng 15
2.1.3.2 ý nghĩa 17
2.1.4 Sự cần thiết của vận động hành lang 18
2.2 Vận động hành lang trong vụ kiện cá tra, cá basa của Việt Nam 19
2.2.1 Sự vận động hành lang của vụ kiện cá tra, cá basa 19
2.2.2 ảnh hởng của vận động hành lang trong vụ kiện 24
2.3 Nguyên nhân, u điểm, nhợc điểm của Việt Nam trong vụ kiện 26
2.3.1 u điểm 26
2.3.2 nhợc điểm 26
2.3.3 Nguyên nhân 27
Chơng 3: Bài học kinh nghiệm và giải pháp về vận động hành lang đối với


chính phủ và các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế 29
3.1 Bài học kinh nghiệm 29
3.2 Giải pháp 31
Kết luận 33
Danh mục tài liệu tham khảo 34













Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
2

Lời nói đầu

Trong những năm gần đây, quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra hết sức nhanh
chóng thông qua các hiệp định song phơng, đa phơng giữa các quốc gia. Trong
quá trình này, hợp tác kinh tế quốc tế là khía cạnh quan trọng nhất và giành đợc sự
u tiên nhiều nhất trên các bàn đàm phán.
Cũng giống nh các nớc khác, Việt Nam đang tham gia tích cực vào quá trình
toàn cầu hoá này. Việt Nam đã có quan hệ buôn bán với khoảng 170 nớc trên thế

giới, là thành viên của khu vục mậu dịch tự do ASEAN, đã kí kết nhiều hiệp định
song phơng với nhiều nớc trên thế giới và chúng ta vẫn đang tiếp tục đẩy mạnh
quá trình hợp tác hoá cả về chất lợng và số lợng, đặc biệt là về kinh tế. Tuy nhiên,
chúng ta mới chuyển đổi từ nền kinh tế tập chung hoá sang nền kinh tế thị trờng
đợc một thời gian ngắn vì vậy nền kinh tế thị trờng của chúng ta còn nhiều nhợc
điểm và kinh nghiệm kinh doanh quốc tế của các doanh nghiệp còn hạn chế. Mặc dù
các doanh nghiệp Việt Nam đã đạt đợc nhiều thành công nhng chúng ta cũng gặp
không ít các thất bại trên thị trờng quốc tế mà lí do chính là chúng ta không nắm rõ
luật chơi trên các thị trờng này. Một trong các ví dụ điển hình là vụ kiện các doanh
nghiệp Việt Nam bán phá giá cá tra, cá basa của Hiệp hội các nhà nuôi cá nheo Mỹ
(CFA). Trong vụ kiện này CFA đã tận dụng hoạt động Vận động hành lang và đây là
lí do quan trọng để họ giành đợc chiến thắng.
Vì vậy để làm rõ về vận động hành lang và tác động của vận động hành lang đối
với hoạt động kinh doanh quốc tế, đặc biệt là đối với các tranh chấp kinh tế quốc tế
tôi xin viết đề án này với đề tài ảnh hởng của vận động hành lang tới vụ kiện
cá tra, cá basa của Việt Nam. Do trình độ hạn chế nên đề án còn nhiều thiếu sót,
em rất mong đợc sự góp ý kiến của thầy cô giáo và bạn bè để nâng cao chất lợng
của đề án này và rút kinh nghiệm cho các bài viết sau.
Xin chân thành cảm ơn Thạc sĩ Tạ Lợi đã giúp đỡ tôi hoàn thành đề án này.
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
3


Chơng 1: ảnh hởng của vận động hành lang trong vụ
kiện cá tra, cá basa của Việt Nam
1.1 Tổng quan về vụ kiện cá tra, cá basa của Mỹ đối với Việt Nam
Việt Nam bắt đầu xuất khẩu cá tra, cá basa sang thị trờng Mỹ vào năm 1996.
Năm 1998, lợng cá lát catfish không xơng đông lạnh của Việt Nam xuất sang đây
mới chỉ có 260 tấn. Nhng đến cuối năm 2001, con số ấy đã vọt lên 7.746 tấn. Với

giá thành rẻ hơn từ 0,08 đến 1USD/pound và chất lợng không thua kém catfish Mỹ,
cá Việt Nam đã gây ảnh hởng không nhỏ tới việc tiêu thụ catfish của Mỹ, bằng
chứng là tổng giá trị catfish bán ra của Hiệp hội các nhà nuôi cá nheo Mỹ(CFA)
giảm mạnh, từ 446 triệu USD năm 2000 xuống còn 385 triệu USD năm 2001. Dới
sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ từ các sản phẩm cá của Việt Nam, CFA đã phải
hành động nhằm đánh bật con cá của Việt Nam ra khỏi thị trờng Mỹ.
9/2001 vụ kiện bắt đầu nổ ra bằng việc Mỹ mở cuộc chiến về tên gọi catfish đối
với sản phẩm cá tra, cá basa của Việt Nam xuất khẩu sang thị trờng này. CFA dựa
vào Luật Ngân sách nông nghiệp 107-76 của Mỹ để cấm loại cá này của Việt Nam
đợc nhập vào nớc này với tên gọi catfish và đạo luật HR.2646 cấm hoàn toàn việc
dùng tên catfish cho các loại cá tra, cá basa của Việt Nam trong tất cả các khâu bán
lẻ, bán sỉ, nhà hàng, thông tin, quảng cáo trong vòng 5 năm. Cha dừng ở đây,
CFA vin tiếp vào điều khoản 10806 của đạo luật An ninh nông trại và Đầu t nông
thôn mới nhất để xác lập chủ quyền tuyệt đối trên thơng hiệu catfish. Tháng
12/2001, bất chấp sự phản đối từ phía Việt Nam, Quốc hội Mỹ đã thông qua lệnh
cấm tạm thời (có hiệu lực tới ngày 30/9/2002), theo đó, chỉ có catfish của Mỹ mới
đợc gọi là catfish, còn cá của Việt Nam phải đợc gọi bằng tên basa hay tra. Sau
khi dự luật đợc thông qua, nó đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ không chỉ của d
luận Mỹ mà còn chịu sự phản đối của d luận thế giới. Thợng nghị sĩ Phil Gramm,
bang Texas khẳng định: Những ngời kiếm sống trong ngành khoa học nuôi cá gọi
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
4

nó là catfish, vậy cớ sao chúng ta(Quốc hội Mỹ) lại muốn gọi nó khác đi. Ông
Gramm cùng thợng nghị sĩ John Mccain đa ra một điều khoản bổ xung nhằm bác
bỏ dự luật cấm Việt Nam sử dụng nhãn catfish, tuy nhiên, đề nghị của hai ông đã bị
bác bỏ (theo báo Washington Post ngày 27/122001).
Sau khi giành chiến thắng về tên gọi catfish, Hiệp hội các nhà nuôi cá nheo
Mỹ(CFA) tiếp tục mở một cuộc tấn công khác: khởi kiện các doanh nghiệp Việt

Nam bán phá giá cá tra, cá basa. Theo Timothy R. Brown, tác giả bài viết Ngành
nuôI cá catfish Mỹ tiếp tục chiến đấu đăng trên AP ngày 26/2, khơI mào chiến dịch
mới chính là những ng dân ở thành phố Indianola (bang Mississipi, nơi đóng đô của
CFA và chiếm tới 94% sản phẩm catfish của toàn bộ miền Nam nớc Mỹ). Nhóm
ng dân này sẽ thuê hẳn một vài chuyên gia tầm cỡ từ Washington hỗ trợ cho các
văn phòng t vấn luật của bang, nhằm nỗ lực chuẩn bị cho đòn trừng phạt đối với cá
giá rẻ của Việt Nam. Phó chủ tịch điều hành CFA Hugh Warren quy chụp cho những
lô cá xuất khẩu của Việt Nam là những sản phẩm rẻ tiền, kém chất lợng mà ngời
ta không thể tìm thấy ở một xởng sản xuất cỡ gia đình nh các trại cá của Mỹ. Ông
này cho rằng, mặc dù sản phẩm rẻ tiền của Việt Nam đang chiếm tới 20% thị phần
và hấp dẫn những nhà hàng, khách sạn, nhng những nhà hàng, khách sạn này chỉ
quan tâm tới giá cả chứ chẳng để ý đến chất lợng của sản phẩm. Phóng viên
Timothy nhận xét một cách khách quan rằng, những ngời nuôI cá catfish Mỹ không
thể chạy đua về giá với sản phẩm nhập khẩu từ Việt Nam bởi chi phí đầu vào (đặc
biệt là về nhân công và thuế ) quá cao. Trớc sức ép của cá da trơn đến từ Việt Nam,
giá catfish Mỹ đã rớt thê thảm, từ 0.74 USD/ pound năm 2000 xuống còn 0.58 USD,
thậm chí có lúc chỉ khoảng 0.2 USD/ pound. Theo Phó chủ tịch Warren: Mức giá
nh vậy không đủ bù cho chi phí sản xuất. ít nhất phải bán đợc 65-70 cent/ pound,
may ra ngời nuôi cá mới có thể hoà vốn.
Ngày 28/6/2002, CFA đã đệ đơn kiện lên Uỷ ban hiệp thơng Quốc tế Mỹ (ITC).
Họ đã tính toán rất kĩ lỡng trong cuộc đi kiện lần này, bằng chứng đợc thể hiện
ngay từ cách nộp đơn kiện của họ: nộp đơn vào đúng lúc 4 giờ chiều ngày làm việc
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
5

cuối cùng trong tuần (thứ 6, ngày 28/6). Theo luật Mỹchỉ sau 20 ngày nhận đơn
kiện, bên bị kiện sẽ phải điều trần trớc ITC. Nh vậy, phía Việt Nam đã mất đI 3
ngày để chuẩn bị. Là đơn kiện nhng khối lợng rất đồ sộ với hơn 200 trang kèm
theo 37 phụ lục, trong đó phân tích chi tiết về tình hình thị trờng cá nheo Mỹ, thị

phần cá da trơn filê đông lạnh của Việt Nam tại Mỹ cũng nh ảnh hởng của sản
phẩm rẻ tiền (theo cách gọi của CFA) đối với ngành sản xuất trong nớc.
Cha dừng lại ở đó, CFA tiếp tục chiến dịch của mình bằng cách nộp đơn lên Bộ
Thơng mại Mỹ (DOC) cho rằng, đã xuất hiện tình trạng khẩn cấp.để chứng minh
điều đó CFA đã đa ra các luận điểm:
+ Các nhà xuất khẩu Việt Nam biết cá tra, cá basa filê đông lạnh bị bán phá giá.
+ Các nhà xuất khẩu có thông tin về việc áp thuế chống phá giá đối với công ty
của mình với mức 25% hoặc cao hơn nữa trong giai đoạn điều tra ban đầu của DOC.
+ Các nhà xuất khẩu Việt Nam đã tăng số lợng hàng sang Mỹ sau khi CFA nộp
đơn yêu cầu điều tra chống phá giá .
+ Tính từ ngày 28/6/2002, số lợng hàng xuất khẩu sang Mỹ tăng ở mức 15%
hoặc cao hơn nữa so với thời gian trớc ngày nộp đơn yêu cầu điều tra chống phá
giá.
+ Cần áp dụng hồi thuế chống phá giá để đảm bảo hiệu quả của thuế chống phá
giá sẽ đợc ban hành vào ngày 24/1/2003.
Tháng 11/2002 bất chấp sự phản đối từ phía Việt Nam, DOC đã kết luận Việt
Nam là nớc có nền kinh tế phi thị trờng, việc kết luận này dựa trên đánh giá theo
các tiêu chí của Mỹ nó đặt cơ sở cho việc xem xét áp dụng mức thuế chống bán phá
giá đối với mặt hàng cá tra, cá basa của Việt Nam. Ngày 28/1/2003, DOC tạm thời
xác định mức thuế chống bán phá giá đối với cá tra, cá basa của Việt Nam trong
khoảng từ 31,45% - 63,88% tuỳ theo nhóm mặt hàng và doanh nghiệp xuất khẩu cá
tra, cá basa của nớc ta. Cụ thể nh sau:

Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
6

Tên công ty Mức thuế
Agifish 31,45%
Cataco 41,06%

Nam Việt 38,09%
Vĩnh Hoàn 37,94%
Các công ty khác
có tham gia vụ
kiện
36,76%
Các công ty
không tham gia
vụ kiện
63,88%

Tháng 3/2003, DOC đã cử đoàn quan chức sang Việt Nam để nghiên cứu điều tra
tình hình sản xuất cá tra, cá basa tại các tỉnh vùng DBSCL của Việt Nam để xác định
lần cuối mức thuế xuất chống bán phá giá. Các doanh nghiệp Việt Nam đã đáp ứng
đầy đủ các yêu cầu của đoàn điều tra và chứng minh năng lực cạnh tranh dựa trên
quy trình tổng hợp khép kín, từ sản xuất con giống, nuôi cá thơng phẩm, đến chế
biến và xuất khẩu các sản phẩm cá tra, cá basa. Tuy nhiên, đoàn điều tra của DOC
đã bác bỏ các tài liệu từ phía các doanh nghiệp đa ra và không công nhận quy trình
khép kín trong việc sản xuất cá tra, cá basa. Họ chỉ chấp nhận tính giá thành sản
phẩm này từ khâu chế biến và đem so sánh nó với nớc thứ 3 là Bangladesh một
nớc không có quy trình sản xuất khép kín nh Việt Nam.
Đầu tháng 5, Bộ Thơng mại Mỹ đã gợi ý Bộ Thơng mại hai bên sẽ tiến hành
đàm phán về một thoả thuận về đình chỉ vụ kiện này. Từ 2-9/5/2003, hai bên đàm
phán, nhng do quan điểm của hai bên rất khác nhau, cả về phơng pháp luận và
mức độ tiếp cận thị trờng Mỹ cho mặt hàng cá tra, cá basa filê đông lạnh của Việt
Nam nên hai bên đã không đạt đợc thoả thuận cuối cùng.
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
7


Ngày 17/6/2003, ITC mở phiêu điều trần vể vụ kiện cá tra, cá basa . Trong buổi
điều trần này, đại diện của chính phủ Việt Nam và đại diện của VASEP đã phát biểu
trớc ITC về vụ kiện này và yêu cầu Mỹ xem xét vụ kiện một cách khách quan. Tuy
nhiên, đến ngày 23/7/2003 ITC đa ra phán quyết cuối cùng về vụ kiện cá tra, cá
basa. Theo đó, cơ quan này đã khẳng định các doanh nghiệp Việt Nam bán cá tra, cá
basa vào thị trờng Mỹ thấp hơn giá thành, gây tổn hại tới ngành sản xuất cá da trơn
của Mỹ và ấn định mức thuế suất bán phá giá rất cao, từ 36.84-63.88%.Cụ thể nh
sau:
Tên công ty Mức thuế
Agifish 44,76%
Cataco 45,55%
Nam Việt 52,90%
Vĩnh Hoàn 36,84%
Các công ty khác
có tham gia vụ
kiện
44,66%
Các công ty
không tham gia
vụ kiện
63,88%

Sau khi đa ra phán quyết thiếu công bằng, đến ngày 7/8/2003, Bộ Thơng mại
Mỹ chính thức công bố áp đặt thuế chống bán phá giá đối với 11 doanh nghiệp Việt
Nam xuất khẩu mặt hàng filê đông lạnh cá tra, cá basa vào thị trờng này.Về phía
Việt Nam, sau khi lấy ý kiến, các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, basa của Việt Nam
đều nhất trí tiếp tục theo đuổi vụ kiện. VASEP sẽ nộp đơn kiện lên toà án quốc tế
thơng mại Mỹ.
1.2
quá trình vận động hành lang trong vụ kiện


Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
8

Năm 1998, lợng cá tra, cá basa filê đông lạnh của Việt Nam xuất khẩu sang thị
trờng Mỹ chỉ có 260 tấn, nhng đến năm 2001 con số này đã tăng vọt lên 7.746 tấn.
Lo ngại trớc sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ đó, hiệp hội nuôi catfish ở các tiểu
bang Mississipi, Lousiana, Askansa, Alabama đã sử dụng vận động hành lang
(Lobby) để bảo vệ quyền lợi kinh tế của mình, dới áp lực của các lobby của CFA
buộc các nghị sĩ ở các tiểu bang miền Nam phải có tác động tới Quốc hội Mỹ ra
nghị quyết cản trở nhập cá tra, cá basa của Việt Nam vào Mỹ. Tờ Washington Post
ngày 10/9/2001 viết: Việt Nam đang bán phá giá sang Mỹ hàng ngàn tấn cá basa
trong năm nay, gây thiệt hại cho các nhà nuôi cá nội địa. Nhiều nghị sĩ muốn Quốc
hội yêu cầu gắn nhãn sản phẩm Việt Nam cho mặt hàng này. Hai hạ nghị sĩ Dân
chủ, Marion Berry và Mike Ross của bang Arkansar(nơi có nguồn cung cấp cá basa
lớn thứ 3 ở Mỹ, sau Mississipi và Alabama) yêu cầu các hãng bán buôn không chỉ
xác định rõ xuất xứ của cá basa Việt Nam, mà còn gắn cho sản phẩm này mác basa
Mekong, cá trê hoặc cá trê basa để phân biệt với cái mà họ gọi là cá basa Mỹ
thứ thiệt. Hạ nghị sĩ Berry đã theo đuổi vấn đề này với giới chức thơng mại của
Tổng thống Mỹ và cũng có dịp đề cập với các quan chức Việt Nam. Ông Berry tuyên
bố, sẽ tìm cách đa các điều khoản trên vào dự luật khi nó đợc trình trớc Hạ viện
hoặc đợc đa ra thảo luận tại Thợng viện Mỹ tới đây. Duới sự tác động mạnh mẽ
của lobby, tháng 9/2001 các đại biểu miền Nam nớc Mỹ đã trình lên Quốc hội để
tránh dùng từ catfish cho việc mua bán cá tra, cá basa trên thị trờng Mỹ. Không
những thế, chính quyền liên bang còn quyết định chi 6 triệu USD để mua catfish cho
chơng trình ăn tra ở các trờng học, chiêu bài này đã làm tăng hình ảnh về thơng
hiệu catfish cho cá da trơn của Mỹ. Đến tháng 12/2001 Quốc hội Mỹ thông qua lệnh
cấm tạm thời, theo đó, chỉ có catfish của Mỹ mới đợc gọi là catfish, còn cá của Việt
Nam phải đợc gọi bằng tên basa hay tra. Vậy do đâu lại có lệnh cấm oái ăm về tên

gọi nh vậy? Các nhà vận động hành lang cho ng dân Mỹ lập luận rằng, cá của Việt
Nam không hẳn là catfish và ngời Việt Nam đang lợi dụng thành quả tiếp thị của
những ngời nuôi cá Mỹ.
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
9

Tuy nhiên, sau khi lệnh cấm trên có hiệu lực, cá tra, cá basa của Việt Nam xuất
khẩu sang thị trờng Mỹ vẫn đợc ngời tiêu dùng chấp nhận, điều đó chứng tỏ rằng
sản phẩm này vẫn đợc ngời dân Mỹ chấp nhận và cũng khẳng định rằng cá Việt
Nam không lợi dụng thành quả tiếp thị của các nhà nuôi cá Mỹ, cá của Việt Nam
đợc ngời tiêu dùng Mỹ chấp nhận là do có lợi thế về giá cả và chất lợng. Lo ngại
trớc tình hình đó, CFA lại bắt đầu một chiến dịch chống cá tra, basa filê đông lạnh
của Việt Nam bằng cách kiện các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá sản phẩm này
sang thị trờng Mỹ. Chiến dịch đợc khơi mào ở thành phố Indianola (bang
Mississipi, nơi đóng đô của CFA và chiếm tới 94% sản phẩm catfish của toàn bộ
miền Nam nớc Mỹ). Nhóm ng dân này sẽ thuê hẳn một vài chuyên gia tầm cỡ từ
Washington hỗ trợ cho các

văn phòng t vấn luật của bang và vận động hành lang
cho vụ kiện. Chiêu bài mà họ sử dụng trong cuộc chiến này đó là qui cho những lô
cá xuất khẩu của Việt Nam là những sản phẩm rẻ tiền, kém chất lợng mà ngời ta
không thể nào tìm thấy ở một xởng sản xuất cỡ gia đình nh ở các trại cá của Mỹ (
phó Chủ tịch điều hành CFA). Ông này cho rằng mặc dù sản phẩm rẻ tiền của Việt
Nam đang chiếm tới 20% thị phần và rất hấp dẫn các nhà hàng, khách sạn, nhng
những nhà hàng khách sạn này chỉ quan tâm tới giá cả chứ chẳng để ý tới chất
lợng của sản phẩm. Thêm vào đó các nhà vận động hậu trờng cho vụ kiện còn cho
rằng cá tra, cá basa của Việt Nam đợc nuôi trong môi trờng bị nhiễm chất độc
màu da cam gây ảnh hởng tới sức khoẻ của ngời tiêu dung, trong khi đó chính
ngời Mỹ đã rải chất độc này trong cuộc chiến tranh với Việt Nam.

Ngày 28/6/2002, CFA đệ đơn kiện lên Uỷ ban hiệp thơng quốc tế Mỹ kiện Việt
Nam bán phá giá cá tra, cá basa sang thị trờng Mỹ. Cùng với thời gian đó, ngày
2/7/2002, hai nghị sĩ Mike Ross và Ronnie Shows, đại diện cho CFA lại gửi th trực
tiếp đến bà Deanna Tanner Okun, Chủ tịch Uỷ ban Hiệp thơng Quốc tế Mỹ, nêu
luận điểm: Đại diện cho những ngời nuôi catfish Mỹ, chúng tôi khẩn cấp đề nghị
Uỷ ban cân nhắc một cách có thiện chí đối với đơn kiện của CFA về việc cá tra, cá
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
10

basa filê đông lạnh nhập từ Việt Nam đợc bán phá giá, gây cạnh tranh và làm thiệt
hại tới các nhà nuôi cá catfish nội địa.
Ngày 28/1/2003, DOC ra quyết định tạm thời xác định mức thuế chống bán phá
giá đối với sản phẩm cá của Việt Nam trong khoảng 31,45% - 63,88%, quyết định
này của DOC đa ra đã bất chấp luận điểm của Việt Nam đa ra: việc sản xuất cá
tra, basa của Việt Nam đợc thực hiện theo quy trình liên hoàn, khép kín. DOC nói
cha xem xét đến yếu tố này do còn nhiều khúc mắc. Đến tháng 3/2003, DOC đã cử
đoàn quan chức sang Việt Nam khảo sát, chính họ đã thừa nhận quá trình sản xuất,
chế biến cá tra, basa ở Việt Nam là theo chu trình khép kín. Song, ở quyết định cuối
cùng, DOC lại cho rằng, ở Bangladesh không có doanh nghiệp nào sản xuất theo chu
trình khép kín nh các doanh nghiệp tại Việt Nam, nên giá thành sản xuất đợc tính
từ giai đoạn chế biến. Tại sao họ lại đa ra quyết định trái ngợc lại với những gì họ
đã khẳng định? Đó chính là do áp lực của các lobby của các tập đoàn nuôi cá da trơn
Mỹ.
Cuối tháng 4/2003, Bộ Thơng mại Mỹ đã gợi ý Bộ Thơng mại hai bên sẽ tiến
hành đàm phán về một thoả thuận đình chỉ vụ kiện này. Từ ngày 2-9/5/2003, hai
bên đã tiến hành đàm phán nhng do quan điểm rất khác nhau nên cuộc đàm phán
đã không đạt đợc thoả thuận cuối cùng. Mỹ đã đa ra hạn mức xuất khẩu cá tra,
basa filê đông lạnh của Việt Nam vào Mỹ với mức rất thấp và ấn định giá bán xuất
khẩu rất cao, không thực tế nhằm cản trở việc nhập khẩu sản phẩm cá tra, basa của

Việt Nam. Trong cuộc đàm phán này, Việt Nam dựa vào chu trình sản xuất khép kín
đối với loại sản phẩm này và đề xuất áp dụng hạn ngạch đối với cá tra, cá basa ở các
mức: năm 2003 bằng 90%; năm 2004 bằng 95%; năm 2005 bằng 100% mức năm
2002. Ngày 23/7/2003, ITC tiến hành bỏ phiếu để đa ra kết luận, tham gia bỏ phiếu
có 4 thành viên của ITC ( thiếu 2 ngời) và cả 4 thành viên này đều bỏ phiếu thuận
theo DOC và khẳng định Việt Nam đã bán phá giá cá tra, basa sang thị trờng Mỹ.
Về phía Việt Nam, theo luật của Mỹ, công ty đại diện pháp lý không đợc sử
dụng vận động hành lang, vì vậy, VASEP đã thuê hai công ty nổi tiếng để thực hiện
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
11

việc này. Nhờ việc sử dụng vận động hành lang, chúng ta đã có đợc sự ủng hộ của 6
thợng nghị sĩ, các nghị sĩ này đã yêu cầu Quốc hội Mỹ xem xét lại các quyết định
của mình trong cả cuộc chiến về tên gọi catfish cũng nh cuộc chiến chống bán phá
giá, nhng những yêu cầu này đã bị bác bỏ. Trong thời gian diễn ra vụ kiện có rất
nhiều tờ báo nổi tiếng lên tiếng ủng hộ Việt Nam, và sản phẩm cá tra, cá basa đã
đợc rất nhiều d luận Mỹ ủng hộ.
Ngày 7/8/2003, DOC chính thức công bố áp đặt thuế chống bán phá giá đối với
11 doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu cá tra, cá basa filê đông lạnh sang thị trờng
nớc này. Sau khi đa ra quyết định, đã có rất nhiều d luận trên thế giới phản đối
kết luận này của Mỹ, trong đó có sự chỉ trích của Thủ tớng Malayxia và của Tổng
Th kí Liên Hợp Quốc. Cũng trong ngày 7/8, VASEP đã gửi đơn kiện lên Toà án
Quốc tế Thơng mại Hoa Kỳ, các thành viên của VASEP đều nhất trí theo đuổi vụ
kiện này tới cùng . VASEP sẽ kiện về sự bất nhất giữa quyết định sơ bộ và quyết
định cuối cùng của ITC, họ không tôn trọng ngay chính kết luận và lời cam kết của
họ ( theo lời của ông Nguyễn Hữu Dũng, Tổng Th kí VASEP).














Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
12



Chơng 2: phân tích ảnh hởng của vận động hành lang
trong vụ kiện cá tra, cá basa của Việt nam
2.1 kháI niệm vận động hành lang
2.1.1
Định nghĩa vận động hành lang
Vận động hành lang hay còn gọi là lobby là việc các quan chức chính phủ, các cá
nhân có uy tín đại diện cho một cộng đồng ngời đa ra ý kiến đóng góp vào các dự
thảo luật của chính phủ, kêu gọi sự ủng hộ của các cá nhân khác hoặc thơng lợng
các vấn đề khi xảy ra tranh chấp nhằm đạt đợc lợi ích của cộng đồng mà mình đại
diện.
2.1.2
phơng thức vận động hành lang trên thị trờng Mỹ
Mỹ là quê hơng của chủ nghĩa lobby(lobbism), không chỉ ở thị trơng Mỹ, mà
ngay tại các thị trờng khác lobby đợc coi là một hoạt động bình thờng và rất tích

cực. Washington là thủ đô của dân chuyên lobby, gồm 129 cựu nghị sĩ thờng xuyên
lo lắng của những cộng đồng, chủng tộc khác nhau. Lobby ở Mỹ đợc thành lập
thành nhóm thờng đợc gọi là các đại lý có ảnh hởng. Các nhóm lobby ở
Washington đạt đợc rất nhiều hiệu quả, khi mỗi nhóm xuất phát từ quyền lợi bản
thân tiến hành giám định kĩ thuật chi li tỷ mỉ ( và biết rằng các đối thủ cạnh tranh
không hề kém cạnh) và trả giá cho việc này. Theo thống kê, hiện nay có khoảng
3700 nhóm lợi ích đặc biệt đăng kí vận động hành lang.
Việc vận động hành lang đợc thực hiện ở tất cả các khía cạnh trên đất Mỹ từ
kinh tế, chính trị, pháp luật Đối với các nghị sĩ Quốc hội Mỹ thì vận động hành
lang là hoạt động cần thiết và không thêt tách rời đối với tiến trình lập pháp của Hoa
Kỳ. Theo thống kê, có hơn 90% nỗ lực của các lobby hớng vào giải quyết các vấn
đề đối nội, tuy nhiên cung có khoảng 600 chuyên gia thờng xuyên làm việc với
Quốc hội Mỹ về vấn đề đối ngoại. Đối với tiến trình lập pháp, các lobby thờng trực
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
13

tiếp đa ra các dự thảo luật hoặc đóng góp ý kiến của mình cho các dự thảo luật và
vận động để tranh thủ sự ủng hộ của các nghị sĩ Quốc hội khác nhằm đạt đợc lợi
ích của nhóm cộng đồng do mình đại diện. Về chính trị, vận động hành lang ảnh
hởng trực tiếp tới quá trình quá trình bầu cử của một quốc gia, đặc biệt là ở Mỹ bầu
cử theo phổ thông đầu phiếu và Hạ viện phải ra ứng cử định kì hai năm một lần. Các
cử tri có thể thể hiện sự ủng hộ của mình cho một nghị sĩ không chỉ bằng các lá
phiếu mà có thể bằng cả việc đóng góp tiền cho quỹ bầu cử của nhân vật ấy. Từ đó
các nghị sĩ quốc hội nhận ra rằng trách nhiệm của họ là làm hàI lòng các cử chi đã
bỏ phiếu cho họ. Để làm đợc điều đó, họ phải bỏ lá phiếu lập pháp phản ánh đợc
phần lớn mối quan tâm của các cử chi hoặc chuẩn bị để bào chữa không bị bỏ phiếu
phản đối khi thời gian bầu cử tới gần. Mặc dù các hạ nghị sĩ đơng nhiệm thờng
đợc giới lãnh đạo Hạ viện và Thợng viện chỉ thị bỏ phiếu theo quan điểm của
Đảng nhng họ vẫn chú ý tới kết quả của các cuộc thăm dò d luận quần chúng và

quan điểm của các cử tri ở các quận hoặc các bang của họ. Các hạ nghị sĩ đơng
nhiệm đặt tầm quan trọng rất lớn vào các quan điểm chính sách đợc bày tỏ trong
th, các cuộc điện thoại, các th điện tử, các cuộc gặp gỡ cá nhân với những cử tri
khu vực bầu cử. Cứ mỗi cá nhân gọi điện thoại hoặc viết một lá th cho quan chức
do mình bầu ra có thể cho rằng có thêm 10 công dân đợc quyền bầu cử khác ủng hộ
quan điểm đó. Do vậy mà ảnh hởng của vận động hành lang có thể đợc nhân lên
10 lần. ở Mỹ, nếu một Nghị sĩ Quốc hội nhận đợc một số lợng lớn những ý kiến
phản hồi của cử tri về một vấn đề và nhà lãnh đạo yêu cầu ông ta bỏ phiếu ngợc lại
với những ý kiến của cử chi, thờng là tiếng nói của cử tri sẽ giành đợc sự ủng hộ
cuối cùng của lá phiếu. Các cử chi cũng có thể tăng cờng ảnh hởng của mình bằng
cách tham gia một nhóm lợi ích đặc biệt hoặc một hiệp hội quốc gia. Là một thành
viên của một hiệp hội quốc gia, họ tham gia vào quá trình hoạch định chính sách nội
bộ và dựa vào các quan chức bầu ra hoặc những nhân viên chuyên nghiệp của hiệp
hội để thay mặt cho họ vận động hành lang Quốc hội. Do vậy mà một nhà vận động
hành lang cho một hiệp hội đại diện cho tiếng nói của nhiều ngời ủng hộ quan điểm
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
14

chính sách trớc quốc hội. Giữa các quốc gia cũng có thể sử dụng vận động hành
lang để tranh thủ sự ủng hộ về một chính sách đối ngoại, ví dụ nh cá nhân Tổng
thống Mỹ đã gặp gỡ với Thủ tớng Nhật để tranh thủ sự ủng hộ của Nhật trong chiến
dịch đánh Afganistan. Luật Mỹ cấm chính quyền nớc ngoài tham gia vận động
hànhlang nhng không cấm ngời nớc ngoài tham gia vận động. Vì thế các Tổng
thống Mỹ vẫn có thể mời nhiều bạn nớc ngoài vào nhà Trắng rồi vận động gây
quỹ bầu cử cho đảng mình, miễn là sự ủng hộ đó phải là t nhân. Các nhóm lobby
nớc ngoài cũng có thể ảnh hởng tới quá trình bầu cử ở Mỹ thông qua việc các
thành viên trong nhóm góp tiền ủng hộ cho quỹ tranh cử của nghị sĩ mà họ ủng hộ.
Năm 1996, đã nổ ra vụ scandal quanh nỗ lực của Bắc Kinh gây ảnh hởng lên quá
trình bầu cử, bằng việc tài trợ cho các quỹ vận động tranh cử của Bill Clinton và vài

nghị sĩ. Nhng các cuộc điều tra cho thấy không có sự dính líu của Trung Quốc vào
việc này.
Vận động hành lang cũng làm ảnh hởng trực tiếp tới chính sách đối ngoại, đặc
biệt là các chính sách đối ngoại về kinh tế của Mỹ. Thông thờng tai Mỹ các nhóm
lobby nớc ngoàI đợc thành lập theo từng quốc gia nh lobby Đức, Italia, Hylap,
Nga Hoạt động của các nhóm lobby này thờng là vận động để thiết lập các mối
quan hệ kinh tế giữa hai quốc gia. Ví dụ nh: vận động chính phủ Mỹ tăng cờng
đầu t về kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng cho quốc gia mà các nhóm lobby đại diện.
Không chỉ có nhóm lobby nớc ngoài, ngay cả lobby trong nớc cũng vận động
hành lang cho nớc khác. Ví dụ nh, Quốc hội Mỹ tự mình bắt tay vào vận động
hành lang cho Nga hay Văn phòng Nông nghiệp Mỹ đã đóng góp vai trò quan trọng
trong việc vận động hành lang để gia hạn quy chế tối huệ quốc cho Trung Quốc.
NgoàI ra các đại lý có ảnh hởng cũng vận động hành lang cho các vấn đề xã hội,
điển hình nh việc nhóm lobby Israel đã thành công trong việc tổ chức tốt cho 6
triệu ngời Do Thái ở Mỹ.
2.1.3
tác dụng và ý nghĩa của vận động hành lang

2.1.3.1
tác dụng
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
15

Sử dụng lobby giúp các cử chi có thể bảo đảm đợc lợi ích hoặc đạt đợc lợi ích
của mình. Đặc biệt là khi một số lợng lớn các cử chi có chung một lợi ích liên kết
lại với nhau thành những hiệp hội để bảo vệ lợi ích của mình. Các quan chức cũng
nh các chuyên gia của hiệp hội sẽ xem xét các dự luật có liên quan, sau đó đa ra
các ý kiến đóng góp vào dự thảo luật đó theo hớng có lợi cho quyền lợi của cả hiệp
hội. Hoặc tự hiệp hội sẽ đa ra các dự thảo luật trình lên Quốc hội để bảo vệ quyền

lợi của mình khi quyền lợi đó bị một nhóm cộng đồng khác đe doạ.
Đảm bảo quyền lợi và mối quan tâm của các công dân trớc khi một dự thảo luật
trở thành luật, nó cho phép cử tri đợc lên tiếng đây là một cách bảo đảm quyền
công dân tại Mỹ. Thông thờng một dự thảo luật trớc khi đợc quốc hội thông qua
bằng việc bỏ phiếu của các nghị sĩ thì các công dân đã trực tiếp góp ý kiến hoặc đại
diện của họ là các chuyên gia vận động hành lang đã góp ý kiến cho các nghị sĩ đó.
Các nghị sĩ không thể không quan tâm tới những ý kiến của các cử tri của mình, vì
vậy việc họ có bỏ phiếu thông qua hay không thông qua dự luật đó đã chịu sự góp ý
của các cử tri đã bầu họ và nó đảm bảo quyền lợi của nhóm cử tri này. Thông thờng
trong một quốc gia, lợi ích của nhóm cộng đồng này sẽ là thiệt hại của cộng đồng
khác nếu một dự thảo luật đợc thông qua.
Làm giảm áp lực về công việc trong các chơng trình và dự án của chính phủ.
Theo nhận xét của giới chuyên môn nếu không có giới lobby, chính phủ Mỹ sẽ ngập
đầu trong các chơng trình và các dự án. Các nghị sĩ Quốc hội sẽ không phải nghiên
cứu, phân tích các chơng trình, dự án một cách cụ thể và chi tiết , họ chỉ cần xem
xét tới ảnh hởng của chơng trình hay dự án đó tới nhóm cử chi đã bỏ phiếu cho họ
và nhiệm vụ của họ là hớng các chơng trình, dự án này theo hớng có lợi cho
nhóm ngời đó. Việc này đợc thực hiện với cả các chơng trình, dự án mang tính
quốc gia cũng nh quốc tế.
Sử dụng lobby có thể dung hoà lợi ích giữa các nhóm cộng đồng. Các nhóm cộng
đồng có thể sử dụng lobby nhằm đạt đợc lợi ích của mình, tuy nhiên trong thực tế
lợi ích của các nhóm cộng đồng luôn mâu thuẫn với nhau vì vậy thờng xảy ra tranh
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
16

chấp giữa các nhóm ngời này. Để giải quyết tranh chấp này, các bên có thể sử dụng
sức ép từ các lobby để giải quyế vụ việc ngoài toà án. Thông thờng là cùng nhau
đàm phán để dung hoà lợi ích sao cho cả hai đều có lợi, nh vậy cả hai bên đều có
thể đạt đợc lợi ích của mình đồng thời giảm chi phí nếu đa nhau ra toà ( ở Mỹ chi

phí kiện tụng thờng là rất lớn).
Đối với các nhóm cộng đồng mang tính quốc gia, nếu vận dụng tốt lobby sẽ tạo
điều kiện tốt cho việc thiết lập mối quan hệ giữa hai quốc gia, tạo điều kiện cho việc
phát triển đất nớc. Vận động hành lang của các nhóm cộng đồng dân tộc có khả
năng tăng cờng viện trợ hoặc đầu t về nớc mình nhằm phát triển đất nớc về mọi
mặt nh về cơ sở hạ tầng, kinh tế, giáo dục, khoa hoc ĐIũu này đã đợc chứng
minh bằng thực tế bởi các nhóm lobby Nga, Trung Quốc, Israel trên đất Mỹ.
Các nghị sĩ Mỹ đều là những đại diện cho tiếng nói của một cộng đồng ngời, là
những ngời đã bỏ phiếu cho họ giữ chức vụ đó, vì vậy tham gia vận động hành lang
một mặt là để thực hiện trách nhiệm của họ đối với nhóm cử tri đã bầu họ, đồng thời
đây cũng là một cách nhằm tăng khả năng ảnh hởng, tranh thủ sự ủng hộ của các cử
tri, điều này là rất quan trọng nó ảnh hởng trực tiếp tới cái ghế mà họ đang ngồi
nhất là khi thời gian tái bầu cử sắp tới gần.
2.1.3.2 ý nghĩa
Vận động hành lang là một mặt hoạt động cần thiết và không thể tách rời của tiến
trình lập pháp Mỹ. Nó đảm bảo quyền và mối quan tâm của của công dân Mỹ đợc
xem xét, góp ý kiến trớc khi một dự thảo luật trở thành luật. Nó cho phép cử tri
đợc lên tiếng và thông qua đó đảm bảo rằng nguyên tắc của nền dân chủ tại Mỹ
đợc tuân thủ. Điều này là rất quan trọng đối với một nớc đề cao tự do nh nớc
Mỹ. Khi mỗi dự thảo luật đợc đa ra thảo luận, các cử tri hoặc đại diện của họ sẽ
đóng góp ý kiến của mình vào các dự thảo luật đó, đồng thời các nghị sĩ Quốc hội
cũng đa ra ý kiến của mình nhằm đạt đợc lợi ích của một nhóm ngời nào đó. Nh
vậy, vận động hành lang giúp giải quyết tốt hơn quyền và nghĩa vụ của công dân Mỹ
cũng nh quyền và nghĩa vụ của các nghị sĩ Quốc hội.
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
17

Vận động hành lang rất có ý nghĩa trong các mối quan hệ quốc tế cả về kinh tế
lẫn chính trị. Đối với kinh tế quốc tế, vận động hành lang có thể là cách dùng để

khơi mào các cuộc chiến thơng mại, có thể giúp các bên chiếm đợc u thế trong
các cuộc tranh chấp và có thể giành đợc thắng lợi khi sử dụng vận động hành lang.
Tuy nhiên vận động hành lang cũng là phơng pháp giúp các bên tranh chấp chuyển
từ đối đầu sang đối thoại, giúp cho hai bên cùng có lợi. Về chính trị, sử dụng vận
động hành lang có thể làm tăng cờng sự ủng hộ của các quốc gia khác, nhất là
những nớc có tầm ảnh hởng rộng rãI trên thế giới, điều này đặc biệt quan trọng
trong tình hình bất ổn định của thế giới nh hiện nay. Vận động hành lang giúp các
nớc giảI quyết mối bất hoà trên bàn đàm phán, nh các vấn đề về chiến tranh, hạt
nhân, từ đó tháo gỡ dần các mối bất đồng tạo điều kiện cho quan hệ giũa các nớc
tiếp tục phát triển, tạo điều kiện cho thế giới ngày càng đi vào ổn định, tạo môi
trờng thuân lợi cho việc hợp tác, phát triển giữa các quốc gia.
Nh vậy vận động hành lang đã, đang và sẽ đóng góp rất nhiều cho sự ổn định
hợp tác, phát triển cho các tổ chức trong và ngoài nớc cũng nh sự hợp tác giữa các
quốc gia. Tuy nhiên nếu lam dụng vận động hành lang quá mức, sẽ nảy sinh nhiều
bất đồng, làm cản trở tới việc hợp tác phát triển của các bên. ĐIũu này đã và đang
xảy ra khi mà các nhà vận động hành lang, các tổ chức, chính phủ coi đạo đức là thứ
yếu trong kinh doanh, chỉ bảo vệ hay bảo hộ quyền lợi cho một nhóm ngời bất chấp
sự phản đối mạnh mẽ của d luận. Chính những hành động này sẽ làm tổn hại đến
quan hệ hợp tác giữa các tổ chức, các quốc gia.
2.1.4
sự cần thiết của vận động hành lang
Đối với các chính phủ, vận động hành lang giúp họ giải quyết một cách có hiệu
quả các chơng trình, dự án, các chính sách đối nội đối ngoại. Vận động hành lang
giúp giảm thiểu gánh nặng từ công việc giúp các quan chức chính phủ minh mẫn từ
đó giúp họ làm việc có hiệu quả hơn. Đồng thời vận dụng hành lang là một phơng
thức tốt để họ quyền và nghĩa vụ đối với ngời dân thông qua việc bảo vệ cho lợi ích
của một cộng đồng ngời, đồng thời nó cũng đảm bảo quyền tự do đợc tham gia ,
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
18


đóng góp ý kiến vào việc hoạch định chính sách chính phủ của các cử chi. Vận động
hành lang giúp nhà nớc tiết kiệm đợc tiền và các nhà làm luật chỉ chờ việc quyết
định phơng án tối u.
Đối với các doanh nghiệp hoặc các ngành, thì vận động hành lang sẽ giúp họ bảo
vệ lợi ích của mình, chống lại sự cạnh tranh của các đối thủ khác. Thông qua vận
động hành lang, các tổ chức có thể gây áp lực đối với chính phủ từ đó đa ra các đạo
luật có lợi cho hoạt động cũng nh lợi ích của họ, đồng thời làm giảm lợi ích , lợi thế
cạnh tranh của đối thủ.
Vận động hành lang cũng là một phơng thức nhằm giảI quyết các mối bất đồng
giữa các bên, nếu sử dung vận động hành lang đúng cách các bên có thể giải quyết
mâu thuẫn với nhau ngoài toà án ( nơi chỉ có một bên đạt đợc lợi ích) sao cho cả hai
bên đều đạt đợc lợi ích và nó giúp cho các bên giảm chi phí khi đa nhau ra toà.

2.2
vận động hành lang trong vụ kiện cá tra, cá basa của Việt
Nam
2.2.1.
sự vận động hành lang của vụ kiện cá tra, cá basa.
Trong vụ kiện này, cả hai bên, Hiệp hội các nhà nuôi cá da trơn Mỹ (CFA) và
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam (VASEP) đều sử dụng hoạt
động vận động hành lang để giành lấy lợi thế. Một công ty luật có uy tín đánh giá rất
khách quan rằng, cha bao giờ thấy có một vụ kiện nào đợc lobby sâu nh vụ kiện
này (theo báo Thanh Niên ngày 13/8/2003). Đúng nh vậy, CFA đã tận dụng hết khả
năng, kinh nghiêm và những lợi thế khác nh về tổ chức, tài chính để ráo riết vận
động hành lang có lợi cho mình.
Ngay từ khi thấy nguy cơ bị cạnh tranh từ phía các sản phẩm cá tra, cá basa filê
đông lạnh từ Việt Nam, CFA đã bắt đầu chuẩn bị tài liệu cho cuộc chiến thơng mại
đối với cá tra, cá basa của Việt Nam. Nh vậy họ đã tính toán rất kĩ lỡng và đã vạch
rõ kế hoạch cho cuộc chiến lần này, so với phía Việt Nam CFA đã có lợi thế ngay từ

ban đầu về cả thời gian chuẩn bị lẫn kế hoạch thực hiện.
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
19

Vụ kiện bắt đầu vào 9/2001, CFA đã sử dụng phơng thức vận động hành lang
gây áp lực đối với các đại biểu miền Nam ( nơi sản xuất cá da trơn lớn nhất nớc
Mỹ) buộc họ phải trình lên quốc hội một dự thảo luật để tránh dùng từ catfish cho
việc mua bán cá tra, cá basa trên thị trờng Mỹ. Nh vậy khởi thuỷ của việc khởi
kiện cá tra, basa của Việt Nam chính là tác động của lobby để bảo vệ quyền lợi kinh
tế của các Hiệp hội nuôi cá da trơn Mỹ. CFA đã gây áp lực trực tiếp tới các đại biểu
Hạ viện, nơi mà các đại biểu phải ra ứng cử 2 năm một lần vì vậy các đại biểu miền
Nam không thể không để ý tới lợi ích của cử tri đơn vị mình. Thêm vào đó, CFA đã
tận dụng đợc lợi thế về thời gian, khi mà việc khởi sự việc tranh cử Tổng thống sẽ
diễn ra trong năm tới điều đó đã làm cho áp lực của lobby càng lớn hơn. Chính vì
những lí do đó mà các nghị sĩ ở các tiểu bang miền Nam không thể không bênh vực
cho quyền lợi của các tập đoàn nuôi catfish. Tôi đồng ý với ý kiến cho rằng: ngay cả
Tổng thống Bush cũng không thể không quan tâm tới các lá phiếu của cộng đồng
nuôI cá catfish ( nh cuộc bầu cử lần trớc ông Bush chỉ thắng Al Gore trên dới
300 phiếu ở bang Florida). Đây là chiến lợc hết sức đúng đắn và khôn ngoan của
CFA, để đạt đợc mục đích của mình do đã gắn lợi ích đó với lợi ích của các đại
biểu miền Nam. Hơn thế, dới tác động của lobby, chính quyền liên bang đã chi 6
triệu USD để mua catfish cho chơng trình ăn tra của các trờng học, khoản tiền hỗ
trợ này đã làm tăng hình ảnh catfish Mỹ trên thị trờng. Tháng 12/2001, Quốc hội
Mỹ thông qua lệnh cấm tạm thời về tên gọi catfish đối với sản phẩm cá filê đông
lạnh của Việt Nam. Lí do mà các nhà vận động hành lang của CFA đa ra không
phải là không có lý khi họ cho rằng: Việt Nam đang lợi dụng thành quả tiếp thị của
những ngời nuôi cá Mỹ, các nhà nuôi cá Mỹ đã biết liên kết với nhau và mở chiến
dịch tiếp thị cho thơng hiệu catfish (chi phí đó lên tới 4,5 triệu USD vào năm ngoái)
và trong khi khởi kiện về tên gọi họ lại đợc chính quyền liên bang hỗ trợ 6 triệu

USD nhằm tăng cờng hình ảnh catfish Mỹ. Ngoài ra với cách lập luận này họ đã
đánh trúng vào điểm yếu của cá Việt Nam, mặc dù cá của Việt Nam cung là catfish
nhng chúng ta không có thơng hiệu riêng cho sản phẩm này khi xuất khẩu sang thị
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
20

trờng Mỹ, thêm vào đó, chiến lợc tiếp thị đối với cá tra, basa của chúng ta là hầu
nh không có, chỉ khi vụ kiện diễn ra thì mới có nhiều ngời biết đến sản phẩm này
của Việt Nam, nhiều ngời dân Mỹ còn viết th hoặc gọi điện để tìm hiểu sản phẩm
này của Việt Nam. Khi Quốc hội Mỹ đa ra lệnh cấm đối với tên gọi catfish và cá
của Việt Nam không hẳn là catfish thì không chỉ Việt Nam mà ngay cả d luận Mỹ
và thế giới đều cho rằng đạo luật đó là phi lí nhng không có lí do gì bắt bẻ họ vì
quyết định đó cũng một phần do sự thiếu kinh nghiệm của Việt Nam: kinh doanh
trên thị trờng Mỹ mà không nắm rõ luật chơi.
Sau khi chiến thắng ở cuộc chiến về nhãn hiệu sản phẩm, CFA tiếp tục chuẩn bị
để đa Việt Nam ra toà, lần nay CFA khởi kiện Việt Nam bán phá giá cá tra, cá
basa. Ngay từ đầu năm 2002, CFA đã tiến hành các bớc đi để chuẩn bị kiện Việt
Nẩm toà và trong các bớc di lần này CFA cũng đã đánh giá rất cao vai trò của vận
động hành lang. Tháng 2/2002 các ng dân thành phố Indianola (bang Mississipi,
nơi đóng đô của CFA và chiếm tới 94% sản phẩm catfish của toàn bộ miền Nam
nớc Mỹ) đã thuê hẳn một vài chuyên gia tầm cỡ từ Washington để hớng dẫn các
thủ tục pháp lí đồng thời thực hiện chiến dịch vận động hành lang cho catfish Mỹ.
Chiêu bài mà họ đa ra để vận động lần này là qui cho cá của Việt Nam rẻ một cách
giả tạo, chất lợng sản phẩm thấp, đợc nuôi trong môi trờng bị nhiễm chất độc
màu da cam Những lập luận mà họ đa ra là hết sức phi lý nhng dới tác động
của lobby, DOC đã không công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trờng đó là cơ sở
cho việc xem xét việc bán phá giá của Việt Nam, từ đó không công nhận chu trình
sản xuất khép kín đối với sản phẩm cá tra, cá basa của Việt Nam. Ngày 23/7/2003
ITC bỏ phiếu thuận theo đề nghị của DOC và khẳng định Việt Nam bán phá giá sản

phẩm này vào thị trờng Mỹ.
Về phía Việt Nam, VASEP đã thuê 2 công ty để vận động hành lang cho mình.
Việc vận động hành lang của VASEP cũng đã đạt đợc một số kết quả: đợc sự ủng
hộ của 6 nghị sĩ Quốc hội Mỹ, đợc nhiều d luân ủng hộ tuy nhiên những kết quả
đó không đủ để chúng ta bảo vệ sản phẩm của Mình trên thị trờng Mỹ. Việc thơng
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
21

lợng giữa hai bên cũng đã không đem lại hiệu quả vì bất đồng về lợi ích. VASEP đã
đề xuất việc áp dụng hạn ngạch trong 3 năm với sản phẩm cá tra, cá basa trong 3
năm, tuy nhiên đề xuất đó đã bị từ chối vì đơn giản nó không phải là giải pháp tốt để
đảm bảo quyền lợi cho các nhà nuôi cá da trơn Mỹ. Theo tôi, Việt Nam thất bại
trong vụ kiện này là do ảnh hởng của vận động hành lang của CFA, tôi tin rằng giới
quan chức của DOC cũng nh ITC cũng biết rằng những kết luận mà họ đa ra là vô
lí nhng họ đã bị áp lực của lobby của các tập đoàn nuôi cá nheo Mỹ và đó cũng là
xuất phát từ lợi ích của bản thân họ. Tuy nhiên những kết luận đó cũng xuất phát từ
những nhợc điểm từ phía Việt Nam. Thứ nhất, đó là việc còn quá ít kinh nghiệm
khi kinh doanh trên thị trờng Mỹ, sản phẩm của chúng ta sang Mỹ mà không có
thơng hiệu, VASEP đã không điều chỉnh số lợng xuất khẩu làm cho lợng này
tăng đột biến, chính điều này đã làm cho CFA cảm thấy nguy cơ cạnh tranh và là lí
do đầu tiên cho cuộc tranh chấp. Thêm vào đó, khi vụ kiện diễn ra, việc chuẩn bị
thông tin của chúng ta không chu đáo để DOC vịn vào đó và bắt bẻ chúng ta.
Tôi đồng ý với quan điểm của TS. Bùi Kiến Thành (Chuyên gia t vấn cao cấp Công
Ty t vấn Phát triển đầu t thơng mại Mỹ, trụ sở tại Việt Nam) trong cuộc trả lời
phỏng vấn của VIETNAMNET: Tôi không khẳng định việc Việt Nam thất bại
trong vụ kiện cá basa là không sử dụng lobby. Vấn đề là ta phải dùng lobby để dàn
xếp vụ việc ngoài toà án, tìm phơng thức giải quyết cho các bên cùng có lợi. Trong
vụ kiện này, VASEP đã sử dụng lobby không đúng cách, VASEP đã sử dụng lobby
nhằm mục đích thắng kiện mặc dù đã biết các vụ kiện trớc Bộ Thơng mại Mỹ thì

kết quả là hơn 90% đều nghiêng về phía Mỹ nh vậy khác nào chúng ta đang đi vào
cõi chết. Tôi cũng đồng ý với ý kiến của ông khi cho rằng cái mà chúng ta thiếu
trong vụ kiện này là thơng lợng, tức là việc dàn xếp vụ kiện này ngoài toà án. Đây
là một cách tốt nhất để bảo vệ quyền lợi của VASEP cũng nh tạo điều kiện cho đối
phơng cùng có lợi. Vậy vấn đề giải pháp nào có thể dung hoà đợc lợi ích của cả
hai bên? Để đa ra đợc một giải pháp hoàn thiện là một việc không dễ dàng nó phải
dựa vào khả năng và tình hình thực tế của cả VASEP lẫn CFA, đồng thời giải pháp
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
22

đó phải đủ hấp dẫn để CFA gạt vụ kiện này sang một bên mà vẫn có thể giúp
VASEP phát triển đợc sản phẩm cá tra, cá basa trên thị trờng Mỹ. TS Bùi Kiến
Thành đã đa ra giải pháp đó là: Việt Nam đề xuất với Mỹ rằng hai bên hai bên sẽ
hợp tác với nhau để phát triển nghề nuôi cá basa trên sông Mississipi, Missouri,
Tennesi ( đây là những con sông lớn ở miền Nam nớc Mỹ, không kém gì Tiền
Giang, Hậu Giang của Việt Nam và hoàn toàn có thể nuôi cá đợc) và cùng xuất
khẩu sản phẩm này ra khắp thế giới. Theo tôi đây là một giải pháp tơng đối hấp
dẫn, nó kết hợp đợc khả năng tài chính dồi dào của CFA cùng với khả năng kĩ thuật
trong việc nuôi thuỷ sản của Việt Nam nh vậy lợi ích của cả hai bên đều đợc đảm
bảo, mặt khác giảI pháp này tạo điều kiện công ăn việc làm cho một số lớn lao động
Mỹ, đồng thời giảm ô nhiễm môi trờng khi nuôi cá trên dòng nớc chảy chứ không
phải trên các ao tù, đầm lầy nh ở Mỹ hiện nay. Tuy nhiên, tôi không đồng ý với
quan điểm của ông khi cho rằng việc gia nhập WTO không ảnh hởng gì đến kết quả
của vụ tranh chấp này. Nếu Việt Nam đã là thành viên của WTO thì chắc chắn kinh
nghiệm kinh doanh quốc tế của chúng ta sẽ nhiều hơn so với hiện nay, tầm ảnh
hởng của Việt Nam sẽ lớn hơn, nó tạo điều kiện cho quá trình vận động hành lang
nh thế cơ hội để bảo đảm lợi ích cá tra, cá basa của Việt Nam sẽ tăng lên.
Sau khi nhận đợc kết luận cuối cùng của DOC, VASEP đã khởi kiện lên Toà án
Thơng mại Quốc tế Mỹ, hiện nay vụ kiện này vẫn cha kết thúc nhng theo tôi khả

năng giành thắng lợi của VASEP là rất nhỏ ngay cả dùng lobby để kiện tụng hay để
thơng lợng vì nớc Mỹ không thể xử thắng cho Việt Nam trong cơ chế bầu cử
theo phổ thông đầu phiếu nh hiện nay, tất cả nghị sĩ Mỹ kể cả Tổng thống đều phải
bảo vệ lợi ích cho cử chi của mình; còn dùng lobby để gây áp lực nhằm giải quyết vụ
kiện ngoài toà án lúc này thì đã quá trễ.
2.2.2
ảnh hởng của vận động hành lang trong vụ kiện

Nếu theo dõi vụ kiện từ đầu có thể thấy rằng, CFA đã sử dụng hoạt động vận
động hành lang trong suốt tiến trình của vụ kiện này. Và việc họ giành thắng lợi
cũng chính là do tác động của vận động hành lang. Còn việc con cá của Việt Nam
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
23

thua kiện trên thị trờng Mỹ cũng một phần là do vận động hành lang là một khái
niệm quá mới mẻ đối với không chỉ với chính phủ mà còn cả với các doanh nghiệp
chế biến và xuất khẩu loại sản phẩm này. Trong vụ kiện này, CFA đã có chiến lợc
và kế hoạch rõ ràng cho việc vận động hành lang, nhờ có nó CFA đã đI từ chiến
thắng này tới chiến thắng khác, đầu tiên là việc lôi sản phẩm cá tra, basa filê đông
lạnh lên bàn nghị sự của quốc hội, sau đó là lệnh cấm việc sử dụng tên gọi catfish và
cuối cùng là áp đặt mức thuế chống bán phá giá đối với sản phẩm của Việt Nam.
Nếu không có việc vận động hành lang thì ngay cả việc các nghị sĩ miền Nam trình
lên quốc hội về dự thảo luật về tên gọi catfish cũng khó có thể thực hiện đợc chứ
cha nói đến việc Mỹ bỏ ngoài tai búa rìu d luận, bỏ qua những cam kết về bình
đẳng trong hiệp định thơng mại đã kí giữa hai nớc để đa ra các quyết định mang
tính bảo hộ đối với sản phẩm cá tra, basa của Việt Nam. Nếu không có vận động
hành lang thì Mỹ không thể có cơ sở để làm những việc đó, vì thực chất sản phẩm cá
tra, cá basa của Việt Nam bớc vào thị trờng Mỹ một cách sòng phẳng, đúng theo
quy luật của nền kinh tế thị trờng. Sản phẩm này có lợi thế hơn so với Mỹ là do giá

nhân công rẻ, đợc sản xuất theo một chu trình khép kín, công việc nuôi cá đợc tiến
hành ở các con sông có dòng chảy, ngợc lại, catfish Mỹ đợc nuôi trong các ao tù
đầm lầy, giống chủ yếu là do đánh bắt, giá nhân công và thuế lại cao , những lợi thế
đó mới chính là lí do khiến cho cá của Việt Nam đợc tiêu thụ với giá thành rẻ hơn
và chất lợng cá tốt hơn so với catfish của Mỹ. Tuy nhiên, bất chấp những căn cứ đó
các nhà vận động hành lang vẫn lôi đợc sản phẩm này của Việt Nam ra toà. Tại sao
họ có thể làm đợc việc đó? Theo tôi đó chính là sự đối sử không bình đẳng của một
nớc lớn với một nớc nhỏ, một mặt họ kêu gào tự do hoá thơng mại, mặt khác họ
lại bảo hộ cho các sản phẩm nội địa bất chấp sự phản đối của d luận quốc tế, và hậu
thuẫn sau nó là một cơ chế bầu cử theo phổ thông đầu phiếu, là cơ chế mà các nghị
sĩ bất chấp vấn đề đạo đức trong kinh doanh, không quan tâm tới việc mất công bằng
đang xảy ra. Công việc của các nghị sĩ này chỉ là bảo đảm lợi ích cho các cử chi đã
bầu họ nhằm giữ đợc chiếc ghế mà họ đang ngồi bất chấp việc đạt đợc lợi ích đó
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
24

là đúng hay sai. Chính những hạn chế đó đã tạo điều kiện cho các nhợc điểm của
hoạt động vận động hành lang nảy nở và phát triển. Và một khi các nhợc điểm này
đợc công nhận thì việc bảo hộ thơng mại càng trở nên dễ dàng đặc biệt là ở Mỹ,
bất chấp việc nó đã đi ngợc lại với xu hớng phát triển của thế giới.
Tuy nhiên, đây là những điều thờng thấy ở các nớc lớn vì vậy muốn thâm nhập
vào thị trờng các nớc này chúng ta phải chấp nhận thực tế đó. VASEP thua kiện
trên đất Mỹ, mặc dù chúng ta đã nhận đợc rất nhiều sự ủng hộ của d luận Mỹ, của
thế giới và một số nghị sĩ Quốc hội Mỹ. Nhng theo tôi, VASEP cũng phải xem xét
lại cách mà họ đã hành động trong vụ kiện, theo tôi VASEP đã quá tin tởng vào
việc DOC cũng nh ITC sẽ xử kiện một cách công bằng nên họ mới đa ra quyết
định theo đuổi vụ kiện cho tới cùng, bằng chứng đợc thể hiện ngay từ cách họ vận
động hành lang: vận động hành lang để thắng kiện. Nhiều nghị sĩ Quốc hội Mỹ đã
trực tiếp đề nghị Quốc hội và các uỷ ban xem xét lại những quyết định của mình,

nhng những đề nghị đó đã bị bác bỏ, nh vậy có thể khẳng định Việt Nam thua
kiện chính là do thua ở cách vận động hành lang. Sau khi những quyết định đầu tiên
đợc đa ra, VASEP vẫn tin tởng vào sự đối xử công bằng của Mỹ, điều này chỉ
chứng tỏ sự non nớt trong kinh nghiệm kinh doanh quốc tế của chúng ta. Trong tiến
trình của vụ kiện này, VASEP đã có những cơ hội để thay đổi cục diện nhng những
cơ hội đó đều bị bỏ qua. Ví dụ nh trong khi vụ kiện vẫn đang đợc tiến hành,
VASEP có thể thuê lobby vận động cho ngời tiêu dùng Mỹ và các doanh nghiệp
nhập khẩu cá tra, basa của Việt Nam thấy đợc thiệt hại của họ khi áp dụng thuế bán
phá giá đối với sản phẩm này của Việt Nam, mặt khác tăng cờng hình ảnh của cá
tra, basa trên thị trờng Mỹ, theo tôi, khi đó chính ngời tiêu dùng và các doanh
nghiệp nhập khẩu sản phẩm này sẽ trực tiếp vận động và gây áp lực ngợc lại đối với
Quốc hội và các uỷ ban Thơng mai của Mỹ, nếu làm đợc điều đó thì cha chắc
CFA đa đợc sản phẩm cá của Việt Nam ra toà (nơI mà 90% chiến thắng thuộc về
Mỹ). Từ đó hai bên có thể ngồi lại với nhau để đa ra các giải pháp sao cho cả hai
bên đều có lợi.
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.

×