Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Vũ trung sơn thủy - Bài thơ độc đáo của vua Thiệu Trị pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.46 KB, 9 trang )

Vũ trung sơn thủy - Bài thơ độc đáo của vua Thiệu Trị
Trên đây là bản chữ Hán bài "Vũ trung sơn thủy" (Non nước trong mưa) của thi sĩ
Miên Tông (vua Thiệu Trị) được xếp theo hình bát quái trên bức khảm xà cừ tại
điện Long An, nay là Bảo tàng mỹ thuật Cung đình Huế.
Trên đây là bản chữ Hán bài "Vũ trung sơn thủy" (Non nước trong mưa) của thi
sĩ Miên Tông (vua Thiệu Trị) được xếp theo hình bát quái trên bức khảm xà cừ tại
điện Long An, nay là Bảo tàng mỹ thuật Cung đình Huế.
Phiên âm:
“Loan hoàn vũ hạ giang triều tấn
Trướng dật phong tiền ngạn biện thanh
Sơn tỏa ám vân thôi trận trận
Lãng sinh khiêu ngọc địch thanh thanh
Sàn sàn thủy giản đài tư nhuận
Dạng dạng ba châu liễu mậu vinh
Nhàn điếu nhất chu ngư dật tấn
Hướng lâm song tiễn yến phi khinh”.
Dùng thể hồi văn liên hoàn, trắc bằng 4 vần, theo tác giả, bài thơ trên có thể đọc
thành 64 bài thất ngôn, ngũ ngôn. Năm 1972, trên Tạp chí của Hội Nghiên cứu
Đông Dương, Pierre Daudin, một học giả phương Tây, đã giải ra 12 bài thất ngôn
bát cú. Năm 1994, nhà nghiên cứu Hán Nôm Nguyễn Tân Phong tìm ra đúng 64
cách. Năm 1998, giáo sư Nguyễn Tài Cẩn tìm ra thêm 64 cách nữa, tức 128 cách
trên một bài thơ.
Về cách giải, các học giả đã dày công nghiên cứu, vạch ra những đường nét
chính để mọi người theo đó suy ra, đọc tiếp.
Ở bài viết này, xin nêu lên một số cách đọc và từ những cách đọc ấy nhận ra nét
độc đáo, vẻ kỳ bí của bài thơ, hiểu thêm thú chơi thơ trong dòng văn hóa Việt.
Bằng cách đọc ngược lại, từ dưới lên, ta có thêm bài thơ đủ 4 vần trắc: hướng,
dạng, lãng, trướng (tương ứng với: tấn, trận, nhuận, tấn) và 4 vần bằng: nhàn, sàn,
san, loan (tương ứng: thanh, thanh, vinh, khinh) của bài nguyên mẫu.
“Khinh phi yến tiễn song lâm hướng
Tấn dật ngư chu nhất điếu nhàn


Vinh mậu liễu châu ba dạng dạng
Nhuận tư đài giản thủy sàn sàn
Thanh thanh địch ngọc khiêu sinh lãng
Trận trận thôi vân ám tỏa san
Thanh biện ngạn tiền phong dật trướng
Tấn triều giang hạ vũ hoàn loan”.
Cũng như bài “Mẹ”, các bài “Con” sau này, 8 câu thành 4 cặp, cặp nào cũng
bám sát chủ đề “Non nước trong mưa”.
“Loan hoàn vũ hạ giang triều tấn / Tấn triều giang hạ vũ hoàn loan
Trướng dật phong tiền ngạn biện thanh / Thanh biện ngạn tiền thanh dật
trướng”
Ngay cả khi bớt đi hai chữ đầu hoặc hai chữ cuối, mỗi câu còn 5 chữ (từ), đọc
lại thành bài thơ thể ngũ ngôn thì từng cặp một vẫn giữ được ý tứ chủ đề.
“Liễu châu ba dạng dạng / Dạng dạng ba châu liễu
Đài giản thủy sàn sàn / Sàn sàn thủy giản đài”
Hoặc:
“Thủy giản đài tư nhuận / Nhuận tư đài giản thủy
Ba châu liễu mậu vinh / Vinh mậu liễu châu ba”
Vậy là càng đọc càng tìm ra nhiều cách đọc, càng nhận ra nhiều điều thú vị. Ấy
là thú chơi thơ. Thú chơi thơ càng thú vị, hứng khởi khi được nhiều người thưởng
thức, nhiều người tham gia. Việc giải nghĩa dịch thơ không ngoài ý đó.
Thế nhưng dịch sao cho sát, cho thoát đối với bất kì bài nào cũng khó. Lại càng
khó đối với loại thơ đặc biệt này, bởi còn phải dịch sao cho đảm bảo vần, nhịp,
đúng câu, đúng từ, để khi áp đặt phương pháp vận hành theo cách đã dùng cho
nguyên tác vẫn khớp bản dịch, nhất là những từ láy.
Ở bài thơ này, hầu như tác giả không dùng điển cố nhưng ngôn từ rất giàu
hình tượng như "Vũ hạ giang triều ", "Phong tiền biện ngạn ", lại rất giàu cảm
xúc như: "Nhàn điếu nhất chu ", "Hướng lâm song tiễn ". Vậy bản dịch phải
phản ánh đúng ý nghĩa và thần thái của bài thơ này.
Dưới đây xin dịch bài thơ "Vũ trung sơn thuỷ" và một số cách đọc khác

nhau:
Giải nghĩa:
NON NƯỚC TRONG MƯA
1. Mưa dồn nước chảy quanh, triều sông dâng tràn ngập
2. Trước gió, nước mênh mông bờ bến trong xanh
3. Núi mịt mù mây đùn lớp lớp, tới tấp
4. Sóng dâng lay giọt nước tiếng lanh canh
5. Lờ đờ (sàn sàn) trên suối rêu tươi nhuận
6. Sóng sánh (dạng dạng) bên cồn cỏ nước xanh
7. Nhàn một thuyền câu lúc thư thả (dật) lúc nhanh chớp (tấn)
8. Dóng hướng về rừng, đàn én dăng cánh kéo (tiễn) nhẹ nhàng bay
Bản 1. Dịch từ nguyên bản:
1. Dồn mưa nước cuộn triều dâng ngập
2. Lộng gió sông đào bến biếc xanh
3. Non phủ kín mây tuôn tới tấp
4. Sóng khêu thưa giọt gõ lanh canh
5. Lan man suối trải rêu tươi mập
6. Sóng sánh cồn vươn cỏ tốt xanh
7. Nhàn thoáng một câu thuyền nhẹ tắp
8. Dóng rừng dăng kéo én bay nhanh
Bản 2. Từ bản 1 đọc ngược bài từ cuối lên, từ bên phải sang:
8. Nhanh bay én kéo dăng rừng dóng
7. Tắp nhẹ thuyền câu một thoáng nhàn
…6, 5, 4, 3, đến
2. Xanh biếc bến đào sông gió lộng
1. Ngập dâng triều cuộn nước mưa dồn
Bản 3. Từ bản 1, bản từ đầu, giữ nguyên câu, đọc ngược bài từ cuối lên:
8. Dăng kéo én bay nhanh
7. Một câu thuyền nhẹ tắp
… 6, 5, 4, 5 đến

2. Sông đào bến biếc xanh
1. Nước cuộn triều dâng ngập
Bản 4. Từ bản 1, giữ nguyên câu, đọc ngược bài từ dưới lên:
8. Dóng rừng dăng kéo én bay nhanh
7. Nhàn thoáng một câu, thuyền nhẹ tắp
… 6, 5, 4, 3 đến
2. Lộng gió sông đào bến biếc xanh
1. Dồn mưa nước cuộn triều dâng ngập
Bản 5. Theo bản 1, đảo vế theo từng cặp: 2 - 1, 4 - 3, 6 - 5, 8 - 7, đọc ngược câu
từ phải sang:
Xanh bến biếc đào sông gió lộng
Ngập triều dâng cuộn nước mưa dồn
Canh lanh gõ giọt thưa khêu sóng
Tấp tới tuôn mây kín phủ non
Xanh tốt cỏ vươn cồn sánh sóng
Mập tươi rêu trải suối man lan
Nhanh bay én khó dăng rừng dáng
Tắp nhẹ thuyền câu một thoáng nhàn
Bản 6. Từ bản 6 đọc ngược bài từ dưới lên:
Nhàn thoáng một câu thuyền nhẹ tắp
Dóng rừng giăng kéo én bay nhanh

Dồn mưa nước cuộn dâng triều ngập
Bến đào sông gió lộng biếc xanh
Bản 7. Theo bản 1, đọc ngược từ chữ thứ 5, để yên 2 chữ (từ) cuối:
Triều cuộn nước mưa dồn/ dâng ngập
Bến đào sông gió lộng/ biếc xanh
Tuôn mây kín phủ non/ tới tấp
Gõ giọt thưa khêu sóng/ lanh canh
Rêu trải suối lan man/ tươi mập

Cỏ vươn cồn sóng sánh/ tốt xanh
Thuyền câu một thoáng nhàn/ nhẹ tắp
Én kéo dăng rừng dóng/ bay nhanh
Bản 8. Theo bản 1, đọc ngược bài dưới lên, đảo 2 chữ đầu câu cho vào cuối:
Dăng kéo én bay nhanh/ rừng dóng
Một câu thuyền nhẹ tắp/ thoáng nhàn
… 6, 5, 4, 3
Sông đào bến biếc xanh/gió lộng
Nước cuộn triều dâng ngập/ mưa dồn

Cứ thế suy ra 64 bài, đọc đủ. Ở đây, đặc trưng đơn tiết tính của từ tiếng Việt,
tiếng Hán đã được vận dụng tối đa. Ấy cũng là một thú chơi thơ.
Nhân nói về thú chơi thơ, dưới đây xin giới thiệu một bài thơ theo kiểu khác.
Phiên âm chữ Hán:
1. Tương cầu tương ứng bất tương đương
2. Điền dã hứa đa thức dạ hương
3. Nhật xuất kim trì hà phú mạo
4. Nguyệt sinh ngọc bệ tất chiêu chương
5. Tảo khan thế thượng phù trầm mộng
6. Tịch kiến trần trung quý tiện vương
7. Tâm niệm bồng dinh hồ điệp kí
8. Kỳ tai ngôn ngữ tảo phong sương
Bài thơ được đọc từ thời niên thiếu, thuở học trường nhà, đã hơn 60 năm lỗ mỗ
không nhớ. Không biết tự sách nào, không rõ tên tác giả. Lớp lớn tuổi hơn thời ấy
kháo nhau: Thơ tiên.
Bài này tuy không kì bí như bài "Vũ trung sơn thủy" của vua Thiệu Trị nhưng
được truyền tụng trong dân gian, không kém phần độc đáo. Với 48 chữ được viết
liên hoàn trên một đường tròn hay xếp theo hình bát quái (như đã thể hiện ở đầu
bài viết này) đọc thành bài thơ thất ngôn bát cú. Bằng cách dùng chữ ở nửa dưới
của chữ cuối câu trước làm chữ đầu của câu tiếp theo cứ thế cho đến chữ cuối

cùng của bài thơ, lấy chữ ở nửa dưới làm chữ đầu câu số 1.
“Đương” chữ cuối câu thứ nhất có chứa chữ “Điền”. “Điền” chuyển sang làm
chữ đầu câu thứ 2: “Điền dã…”. Tương tự, “Hương” có “Nhật”: “Nhật xuất”…;
“Mạo” có “Nguyệt”: “Nguyệt sinh”…
Tới “Sương” có “Tương”: “Tương cầu tương ứng bất tương đương…”.
Quả là “Bất tương đương”. Không như những bài thơ khác có 56 con chữ mới
đủ cấu thành bài thơ 7 chữ x 8 câu. Ở đây, phải chọn chữ cuối để tách ra… Gò bó
thế không hề giảm ý vị nhịp vận của thơ. Hơn nữa, các cặp 3 - 4, 5 - 6 lại đối nhau
rất chỉnh:
Nhật xuất - Nguyệt sinh; Phú mạo - Chiêu chương
Kim trì - Ngọc bệ; Tảo khan - Tịch kiến

Vậy mới gọi là Tiên thi - Thơ tiên.
Bài thơ chữ Hán này đã được phiên âm Hán Việt nên đọc lên là cảm nhận
được ý thơ suy tư cõi thế, hồn thơ thấp thoáng cảnh tiên.
Chưa dám luận tới nhân sinh quan mà chỉ với tấm lòng cảm phục tài thơ, xin
mạo muội được thể hiện tự dạng, phỏng dịch để giới thiệu, mong được sự chỉ
giáo của các bậc đàn anh cùng bạn bè gần xa, bổ chính cho việc tái hiện và dịch
thơ sao cho khỏi khiếm khuyết:
VÔ ĐỀ
Tương cầu tương ứng chẳng tương đương
Đồng ruộng cho nhiều thức dạ hương
Ngày, rực ao vàng, che giọt nắng
Đêm, ngời bệ ngọc, ngắm đài gương
Sáng, trần gian mộng cơn chìm - nổi
Tối, cõi thế quên chuyện mọn sang
Nghĩ tới bồng dinh, đời bướm gửi
Lạ thay, lời nói quét phong sương./.

(*) Bài đã được đăng tại Tạp chí Hán Nôm số 5 (84) - 2007 của Viện Nghiên

cứu Hán Nôm. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.

×