Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Kết quả nghiên cứu bước đầu về năng suất nhựa và khả năng kháng sâu róm của cây thông chóc ở Quỳnh Lưu potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.9 KB, 5 trang )

Kết quả nghiên cứu bước đầu về năng suất nhựa và khả năng kháng sâu róm
của cây thông chóc ở Quỳnh Lưu
I. Đặt vấn đề
Thông nhựa (Pinus merkusii) là loài cây rừng đa mục đích, được trồng phổ
biến tại nhiều nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Tại Nghệ An, diện tích
rừng thông nhựa hiện nay đạt gần 30 nghìn ha, chủ yếu tại các huyện/thị vùng
núi thấp và ven biển. Cây thông nhựa có biên độ thích nghi rộng và là một trong
số ít cây rừng trồng được trên đất dốc đã bị thoái hóa. Rừng thông nhựa vừa có
tác dụng phòng hộ, vừa có giá trị cảnh quan, vừa có thể mang lại thu nhập đáng
kể cho các chủ rừng.
Mặc dù là loài cây trồng gần như tối ưu tại vùng đồi núi thấp ven biển, song
các rừng thông nhựa hiện nay vẫn bộc lộ nhiều nhược điểm đối với cả tính bền
vững về sinh thái và hiệu quả kinh tế. Do chủ yếu được trồng nhằm phủ xanh từ
nguồn giống thiếu chọn lọc trước đây, các lâm phần thông nhựa hiện nay có tính
kháng sâu róm (Dendrolimus punctatus Walker) rất thấp và năng suất nhựa
không ổn định. Vì vậy, việc nghiên cứu chọn lựa nguồn giống tốt để cải thiện
khả năng chống chịu sâu bệnh và tăng năng suất nhựa đối với cây thông là việc
làm rất cần thiết, thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học, nhà quản lý và các
chủ rừng.
Trước thực tế đó, Chi cục Lâm nghiệp Nghệ An đã đề xuất và được giao chủ
trì thực hiện đề tài nghiên cứu về khả năng cho nhựa và chống chịu sâu bệnh của
cây thông chóc (tên gọi của dân địa phương). Nghiên cứu này là sự kiểm chứng
khoa học đối với một thông tin quan trọng được người dân phát hiện trong quá
trình khai thác nhựa thông tại Quỳnh Lưu. Theo đó, trong các lâm phần thông
nhựa ở Quỳnh Lưu lâu nay tồn tại một số cá thể rất “đặc biệt”. Những cây thông
chóc này thường có sản lượng nhựa ổn định, nhựa nhiều mà lại được “sâu róm
chừa ra” trong các trận dịch tồi tệ nhất những năm qua.
II. Kết quả nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong các huyện có rừng thông nhựa tập trung
tại Nghệ An thì chỉ huyện Quỳnh Lưu có thông chóc với số lượng cá thể thống
kê ban đầu là 20.689 cây, chủ yếu tại các lâm phần thuộc quản lý của Công ty


TNHH Một thành viên Lâm nghiệp Quỳnh Lưu, tại các Tiểu khu 344B (Đội 1,
Quỳnh Xuân), 345A (Đội 2, Ngọc Sơn), 343A và 343B (Đội 2, Quỳnh Tân).
Về hình thái, cây thông chóc có mức độ sinh trưởng tương đồng với những cây
thông nhựa khác (dân địa phương gọi là thông xoăn) trên cùng điều kiện lập địa.
Hình thái thân cây hai loài thông cũng cơ bản giống nhau. Tuy nhiên, cành thông
chóc mọc chếch (chóc) hẳn lên phía trên, góc phân cành đa số nhỏ hơn 45
0
. Kích
thước các cành của cây trưởng thành khá đồng đều. Lá thông chóc hình kim, mọc
chủ yếu tập trung đầu cành, tủa ra, chếch thẳng về phía đầu cành tạo nên tán lá
tương đối thưa thớt. Khi dùng tay vuốt nhẹ, khóm lá thông chóc cho cảm giác
cứng hơn hẳn lá thông xoăn. Đặc biệt, khi nếm thử cho thấy vị chát pha vị cay
đậm của tinh dầu thông.
Trong khi đó, cành thông xoăn mọc ngang ra xung quanh tạo góc phân cành lớn,
thường trên 60
0
. Cành đa số có hình cung, kích thước các cành không đều nhau.
Trên cành thông xoăn, lá không chỉ mọc nhiều đầu cành mà còn rải rác đến tận
gần gốc những cành thứ cấp. Lá thông xoăn mềm mại hơn, có xu hướng rũ xuống,
tạo nên tán lá có dáng vẻ xum xuê hơn hẳn thông chóc.
Về sản lượng nhựa, kết quả bước đầu số liệu đo đếm lượng nhựa thu được từ
cả hai phương pháp đẽo máng (Cleft-hewing) và vi chích (Micro-chipping) đều
chứng tỏ thông chóc chảy nhựa nhanh hơn. Kết quả kiểm tra phân bố thực
nghiệm sản lượng nhựa (gram) trong 10 ngày (quy đổi) từ phương pháp đẽo
máng của hai loại thông bằng hàm Histogram (Microsoft Excel - Data Analysis).
Để có căn cứ khoa học khẳng định sản lượng nhựa của thông chóc có vượt trội
thông xoăn hay không, phương pháp kiểm chứng giả thuyết thống kê (H
0
: µ
tc

=
µ
tx
;

H
a
: µ
tc
> µ
tx
) bằng tiêu chuẩn t của Student và tính toán chỉ số vượt trội Vt
của Hà Huy Thịnh (1999) đã được áp dụng.
Kết quả tính toán cho thấy giá trị t thống kê (t Stat = 12.439) lớn hơn t tra
bảng (t Critical one-tail = 1.685). Vì vậy, giả thuyết H
a
được chấp nhận. Điều
này có nghĩa là cây thông chóc thực sự có sản lượng nhựa nhiều hơn cây
thông xoăn.
Giá trị tính toán Vt của thông chóc chứng tỏ rằng tất cả 33 cây thông chóc dự
tuyển (Ký hiệu TC ) đều có sản lượng nhựa vượt mức trung bình của lâm phần
thông xoăn đối chứng. Về khả năng kháng sâu bệnh, tổng hợp kết quả phỏng vấn
người dân và quan trắc thực địa chỉ ra rằng thông chóc chịu ảnh hưởng của các
loại sâu bệnh chung như đối với thông xoăn nhưng nhìn chung thông chóc có khả
năng chống chịu tốt hơn, mức độ bị gây hại thấp hơn. Với sâu róm thông
(Dendrolimus punctatus Walker) - mối nguy số 1 với thông nhựa - cây thông chóc
lại dường như có sức kháng sâu rất tốt, thể hiện ở tần suất xuất hiện sâu và cường
độ gây hại của sâu thấp. Cụ thể là vào mùa sâu non xuất hiện nhiều thì thường
chúng tấn công những cây thông xoăn trước. Khi sâu xuất hiện với số lượng lớn,
hàng trăm con trên một cây, thức ăn khan hiếm hơn thì sâu róm bắt đầu chuyển

sang ăn lá thông chóc. Tuy nhiên, mức độ gây hại của sâu róm với thông chóc
thường ít ảnh hưởng tới sinh trưởng và sản lượng nhựa.
Theo những người quản lý rừng thông tại Công ty TNHH Lâm nghiệp Quỳnh
Lưu thì những cây thông chóc của họ đã vượt qua các trận dịch sâu róm mà rất ít
bị ảnh hưởng.
Đặc biệt, trong đợt dịch sâu róm năm 2005 tại Quỳnh Lưu, các lô thông chóc tại
công ty (xã Quỳnh Xuân) đã không nhiễm sâu trong khi các diện tích thông nhựa
liền kề (xã Mai Hùng, Quỳnh Nghĩa) bị dịch sâu róm nặng. Điều này một lần nữa
được kiểm chứng bởi thực tế hiện nay dịch sâu róm đang tấn công nhiều lâm phần
thông nhựa tại Nam Đàn, Nghi Lộc, Diễn Châu, Quỳnh Lưu nhưng các lô thông
chóc vẫn chưa bị ảnh hưởng.
III. Kết luận
Tổng hợp kết quả nghiên cứu có thể kết luận rằng thông chóc tại Quỳnh Lưu là
một biến chủng đặc biệt của thông nhựa (Pinus merkusii). Thông chóc có năng
suất nhựa trung bình vượt trội so với các lâm phần thông nhựa thường được trồng
cùng điều kiện lập địa. Đặc biệt, thông chóc có tính kháng sâu róm cao nên sinh
trưởng và năng suất ít bị ảnh hưởng bởi dịch sâu róm. Đây là những đặc tính cực
kỳ quý giá trong điều kiện giá nhựa thông thế giới không ngừng tăng và dịch sâu
róm thông luôn là nỗi ám ảnh lớn của chủ rừng mà đến nay vẫn chưa có biện pháp
phòng trừ triệt để. Vì vậy, cây thông chóc cần tiếp tục được nghiên cứu và nhân
giống trên diện rộng, đưa vào sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh tế và
tính năng phòng hộ của rừng thông./.

×