Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Một số cây họ đậu cải tạo đất và làm thức ăn chăn nuôi pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.49 KB, 6 trang )

Một số cây họ đậu cải tạo đất và làm thức ăn chăn nuôi
Trong sản xuất nông nghiệp, việc xác định một cơ cấu cây trồng phụ trồng xen
trong diện tích cây lâu năm vừa có tác dụng che phủ, chống xói mòn và giữ ẩm
cho đất, vừa làm phân bón cho cây trồng, đồng thời có thể sử dụng nguồn chất
xanh làm thức ăn cho gia súc là cần thiết. Bài viết giới thiệu một số cây họ đậu
thân bò phủ đất tốt và sử dụng chất xanh làm thức ăn gia súc giàu protein rất có
khả năng phát triển ở vùng đồi trồng cây ăn quả, cây công nghiệp của Nghệ An.
Trong nửa thế kỷ qua, Phủ Quỳ đã trở thành vùng chuyên canh của nhiều cây
công nghiệp, cây ăn quả. Nếu trước kia diện tích trồng trọt được mở rộng bằng
khai hoang rừng tự nhiên thì nay người dân phải canh tác lại trên diện tích đã qua
2-3 nhiệm kỳ sản xuất mang tính độc canh, độ màu mỡ của đất đã suy giảm
mạnh do bị xói mòn, rửa trôi qua quá trình canh tác và tác động của thiên nhiên.
Vì vậy, bên cạnh khai thác nguồn phân hữu cơ từ gia súc, phân hữu cơ vi sinh, đã
đến lúc cần phải tạo ra nguồn sinh khối từ các cây họ đậu nhằm bổ sung chất hữu
cơ và dinh dưỡng cho đất để sản xuất bền vững các cây lâu năm.
Từ đầu những năm 60, bên cạnh việc phát triển các cây lâu năm, tại Trạm thí
nghiệm cây nhiệt đới Tây Hiếu (Trung tâm nghiên cứu cây ăn quả, cây công
nghiệp Phủ Quỳ bây giờ) đã có một tập đoàn cây phân xanh phủ đất có lúc lên
tới trên 40 loài. Nhiều thí nghiệm trồng xen cây phủ đất trong vườn cà phê, cao
su được đặt tại các nông trường. Tuy nhiên, vấn đề này chưa được người sản
xuất nhìn nhận đúng mức. Người ta cho rằng thu nhập từ cây trồng xen phải tính
được giá trị bằng tiền, sản phẩm bán được ra thị trường, đáp ứng nhu cầu cuộc
sống trước mắt như các cây đậu, lạc. Chính vì thế mà việc ứng dụng tiến bộ kỹ
thuật trồngcây phủ đất bị hạn chế.
1. Cây đậu lông
Cây đậu lông (Calopogonium mucunoides Desv) là loài cây bò trên mặt đất,
phát triển rất nhanh, thân có nhiều lông, phân nhánh mạnh, đạt chiều dài 2-3m,
tạo thành thảm phủ dày 30-40cm, mỗi mắt lá đều phát sinh rễ chùm ăn cạn, mang
nhiều nốt sần, lá có 3 lá chét, nhiều lông với kích thước phổ biến là 4x7cm,
cuống lá dài 10-11cm, hoa tự ở nách lá, có màu tím, ra vào tháng 8, quả có lông,
chín vào tháng 12, quả tự tách để hạt rụng xuống đất. Nếu không thu hoạch kịp


thời, hạt rất dễ tự mọc vào mùa mưa năm sau, có thể duy trì sức nảy mầm lâu
trong đất. Đậu lông có nguồn gốc từ châu Mỹ, được phát triển ra nhiều nước
nhiệt đới, là cây hàng năm nhưng có thể để lâu năm, đầu mùa khô thân lá rụng
nhưng sang năm sau hạt tự rụng lại mọc lên nhanh chóng tạo thành thảm phủ,
sau đó được phân giải thành chất hữu cơ tạo độ tơi xốp cho đất. Năng suất chất
xanh tại Phủ Quỳ là 19,39 tấn/ha trên đất phiến thạch mỏng lớp trong năm đầu,
lượng lá rụng và thân khô là 2,5 tấn/ha ở năm thứ 2, chất hữu cơ quy theo hệ số
phân giải 0,4 là 1 tấn/ha/năm. Các nhà khoa học đã phân tích hàm lượng dinh
dưỡng trong thân lá đậu lông như sau: protein 4%, lipit 0,6%, hydratcacbon hòa
tan 11,4%, chất xơ 8,1%, trơ 1,6%, chất khô 25,7%. Tại các nước châu Phi, Ấn
Độ, đậu lông được sử dụng làm thức ăn cho trâu bò bằng cách gieo lẫn với cỏ
hòa thảo trên đồng cỏ chăn thả. Đậu lông có thể trồng thuần cải tạo đất, thu chất
xanh cho gia súc hay trồng xen trong vườn cây lâu năm, khả năng chịu bóng tốt.
2. Cây Kudzu nhiệt đới
Cây Kudzu nhiệt đớihay đậu Java còn có tên là sắn rừng, tên khoa học
Pueraria phaseoloides Benth (không nên nhầm lẫn cây này với đậu lông như có
người viết Kudzu là Calopogonium là hoàn toàn sai). Kudzu sinh trưởng rất khỏe,
thân bò dài 3-5m, tốc độ che phủ nhanh hơn đậu lông, cũng là cây leo quấn cao,
rễ có nhiều nốt sần, lá hình ô van với 3 lá chét, có lông, hoa tự ở nách lá, cuống
lá dài 15-20cm, kích thước lá trong khoảng 5- 12cmx4-10cm, cụm hoa dài 10-
20cm, quả hơi dẹt, chín có màu đen, dài 8-10cm, rộng khoảng 3-4mm, hạt nhỏ
dài khoảng 3mm, màu tối. Năng suất chất xanh đạt trên 30 tấn/ha. Theo tài liệu
của thế giới, Kudzu nhiệt đới là cây bản địa được tìm thấy ở vùng đất thấp tại
Malaysia và được phát triển ra các nước châu Á, châu Mỹ. Kudzu là loài cây
sống lâu năm, chỉ rụng lá vào mùa khô để lại thân cành vẫn tươi, sang mùa mưa
năm sau lại tái sinh trên thân cũ.
Kết quả phân tích hàm lượng dinh dưỡng trong thân lá Kudzu như sau: N 3%,
P 0,26%, K 0,75%, Ca 0,53%, Mg 0,26%. Ngoài tác dụng phủ đất tốt, Kudzu
cũng là nguồn thức ăn bổ sung đạm cho gia súc, thích hợp với động vật ăn cỏ.
Kết quả phân tích đã được công bố của Nguyễn Đăng Khôi cho thấy: trong thân

lá tươi có hàm lượng protit 6,7%, lipit 0,2%, glucit 17,3%, celluloz 10,5%, lượng
protit tiêu hóa trong 1kg tươi là 41,5g, lipit tiêu hóa trong 1kg tươi là 1,0g; trong
thân lá khô, protit 9,3%, lipit 1,8%, glucit 44,7%, celluloz 23,6%, lượng protit
tiêu hóa trong 1kg khô là 51,4g, lipit tiêu hóa trong 1kg khô là 1,3g. Kudzu có
thể trồng thuần cải tạo đất bỏ hóa, đất nghèo kiệt trước khi trồng lại cây trồng
chính, trồng xen trong vườn cây lâu năm, hỗn hợp gieo với cỏ hòa thảo để xây
dựng đồng cỏ chăn thả. Kudzu còn có một chủng là Pueraria thunbergiana
Benth hoặc Pueraria lobata phát triển kém hơn Pueraria phaseoloides (J w
Puraeglove) được trồng tại Nhật Bản, Trung Quốc và một số nước cận nhiệt đới.
3. Cây đậu bướm
Cây đậu bướm (Centrosema Pubescens Benth) có nguồn gốc từ châu Mỹ đã
phát triển ra nhiều nước nhiệt đới. Ở nước ta, nó đã trở thành như một cây bản
địa trên nhiều vùng đồi núi, chứng tỏ đã được du nhập vào từ rất lâu. Đây là loài
cây thân bò, sinh triển nhanh, thân và các nhánh vươn dài từ 3-5m, có đường
kính nhỏ khoảng 1,5-2mm, tốc độ phân nhánh mạnh, cuống lá dài 4-5cm, có 3 lá
chét, 2 lá chét bên có kích thước khoảng 3,5x6,5cm, lá giữa khoảng 5x8cm, mặt
trên lá màu xanh đậm, dưới nhạt hơn, bộ rễ ăn cạn mang nhiều nốt sần, ra hoa
tháng 8-10, hạt chín tháng 12, hạt dễ mọc tự nhiên. Cây sống lâu năm, mùa khô
sinh trưởng chậm lại, thân sẽ sinh trưởng trở lại cùng với hạt mọc tự nhiên vào
mùa mưa năm sau, nhanh trở thành thảm phủ dày 30-50cm, khả năng lấn át cỏ
dại mạnh. Tại Malaysia, đậu bướm cùng với đậu lông và Kudzu được sử dụng
trồng xen trong vườn cao su, dừa và cọ dầu. Tại châu Phi, người ta thường gieo
lẫn cỏ này với cỏ hòa thảo trên đồng cỏ chăn thả tự nhiên gia súc do nó chịu dẫm
đạp. Ngoài phủ đất, đậu bướm cũng là cây làm nguồn thức ăn gia súc dạng tươi
hoặc khô hoặc nghiền thành bột dự trữ trong mùa khô. Theo tài liệu của tác giả
Nguyễn Đăng Khôi, hàm lượng protein trong chất khô là 5,4%, lipit 0,6%,
hydratcacbon hòa tan 8,5%, xơ 7,5%, trơ 2,3%, chất khô chiếm 24,3%. Các nhà
khoa học thế giới khuyến cáo trồng phủ đất hỗn hợp giữa 3 loại cây theo tỷ lệ hạt
đậu bướm + Kudzu + đậu lông là 1:2:2 ở Tây Phi và 4:1:5 ở châu Á
(C.N.Williams, W.Y.Chen và J.A. Rajaratnam).

4. Đậu Lablab
Đậu Lablab (Lablab bean, Dolichos lablab L, Lablab vulgaris Savi, Lubia bean
(Sudan), Indian bean…) có nguồn gốc từ Ấn Độ, đã di chuyển sang châu Phi và
phát triển ra nhiều nước nhiệt đới, là cây chịu được đất nghèo, đất cát, vùng khô
hạn ít mưa. Cây được sử dụng làm phân xanh phủ đất rất tốt, dùng luân canh sau
vụ cây trồng chính như bông, mì, lúa mạch ở Sudan. Tại Chiengmai - Thái Lan,
việc luân canh, xen canh phổ biến
với đậu Lablab (chủng Lablab purpureus), đậu bò (Vigna unguiculata) và đậu
gạo (Rice bean) được coi là biện pháp hữu hiệu nhằm phục hồi đất canh tác trong
thời bỏ hóa (Somchai Ongparasert và Kluas Prinz). Ở nước ta, cây này chính thức
đưa về từ Chiengmai, Thái Lan và được nghiên cứu tại Trung tâm nghiên cứu cây
ăn quả, cây công nghiệp Phủ Quỳ từ năm 1992, sử dụng làm cây phủ đất trong
vườn cam và cũng được trồng thuần trên diện tích sau nhiệm kỳ trồng cam cần cải
tạo.
Đậu Lablab thuộc họ cánh bướm (Papilionaceae), bộ đậu, thân bò, có tua
cuốn, phát cành mạnh, có thể dài 6-7m ở đất bazan, lá có 3 thùy hình ô van, có
kích thước 9,5x10,2cm ở 2 thùy bên 12x9,5cm, không cân xứng về hình dạng
giữa 2 thùy bên, mặt trên lá nhẵn, mặt dưới có lông mịn, chiều dài cuống lá
24,8cm, khoảng cách lá 21,5cm, chiều dài cuống hoa 2mm, chiều dài cánh hoa
2,9cm, rộng 1,2cm, chiều dài nhị 2,8cm. Hoa có 4 cánh 6 nhị mọc ở nách lá
màu tím, ra hoa giữa tháng 10 khi bắt đầu mùa khô, ra từng đợt rải rác cho đến
tháng 11, tỷ lệ đậu quả gần như 100%, hạt dài 1,63cm, rộng 1,21cm có nhiều
màu sắc như trắng, đen, nâu, trọng lượng 100 hạt từ 95-98g, năng suất hạt tại
Phủ Quỳ đạt 2-3 tấn/ha.
Đậu Lablab có thể sống 2-3 năm, mùa khô thân rụi nhưng gốc vẫn tái sinh
trong mùa mưa năm sau, hạt rụng xuống rất dễ mọc trong tự nhiên, từ gieo đến ra
hoa 213 ngày, từ ra hoa đến chín 60 ngày, tốc độ tăng trưởng chiều dài cực
nhanh, trên 4cm/ngày, sau 6 tháng có thể che phủ kín diện tích cam kiến thiết cơ
bản giữa hàng với tốc độ phủ 0,11cm
2

/ngày.
So với các cây phủ đất họ đậu khác thì đậu Lablab cho năng suất rất cao, sau
6 tháng đã cho trên 2 tấn chất xanh/ha tương đương 700kg chất khô, kể cả
lượng lá rụng sau mùa sinh trưởng để lại thì có trên 15 tấn/ha chất khô. Đây là
nguồn tạo chất hữu cơ cải tạo đất rất lớn. Do giá trị dinh dưỡng trong thân lá
khá cao, nhiều nước đã sử dụng làm thức ăn xanh cho gia súc, hạt khô cũng là
nguồn chế biến thức ăn cho gia súc, đặc biệt dự trữ thức ăn trong mùa khô, ở
Ấn Độ còn sử dụng quả non và chồi ngọn làm rau xanh cho người.
Qua thử nghiệm tại Phủ Quỳ, kết quả cho thấy lợn bò, hươu, thỏ, cá trắm cỏ đều
rất thích ăn lá tươi của 4 loài cây trên./.



Tài liệu tham khảo
1. Lê Đình Định. Một số kết quả nghiên cứu về cây phân xanh đất đồi trồng cà
phê, cao su vùng Phủ Quỳ. Nghiên cứu đất phân tập 4. Nxb Khoa học và Kỹ thuật
Hà Nội, 1974.
2. Nguyễn Đăng Khôi, Nguyễn Văn Phú. Một số cây bộ đậu thân bò, thân leo
làm thức ăn gia súc của miền Bắc Việt Nam. Tập san Sinh vật địa học, Hà Nội
1975.
3. Lê Đình Định. Cây phân xanh phủ đất vùng Phủ Quỳ Nghệ An (Báo cáo tại
hội nghị cây phân xanh phủ đất vùng đồi núi miền Bắc Việt Nam) Hà Nội 1997.
4. C.N.Williams,W.Y.Chew và J.A.Rajaratum. Tree and Field Crops of the
Wetter Regions of the Tropic.
5. JW Purseglove. Tropical Crops Dicotyledons.
6. Somchai Ongparaser và kluas Prinz. Sử dụng và quản lý các loại đậu trong
thời gian bỏ hóa của chu kỳ du canh dài và ở vườn cây ăn quả thuộc miền Bắc
Thái Lan (Báo cáo tại hội nghị cây phân xanh phủ đất vùng đồi núi miền Bắc Việt
Nam) Hà Nội 1997.
7. Rene` Coste. Coffee - The plant and the product.


×