Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Quan niệm " ĐỊnh chế xã hội" ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.81 KB, 9 trang )

Quan niệm " ĐỊnh chế xã hội" - Vấn đề lý luận cần thiết trong xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Trong đời sống xã hội hiện đại, xã hội với tư cách là tổng hoà những quan hệ
người thực chất là xã hội công dân – một khái niệm pháp lý luôn gắn liền với khái
niệm nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, xã hội công dân – đối tượng điều tiết pháp
lý trực tiếp của nhà nước pháp quyền tư sản – không thể bao hàm toàn bộ đời sống
xã hội dân sự. Nói cách khác, khái niệm “xã hội dân sự” luôn rộng hơn khái niệm
“xã hội công dân”. Theo quan niệm đương đại, khái niệm xã hội công dân chủ yếu
biểu thị cộng đồng xã hội, bao gồm tất cả các công dân (từ 18 hoặc 21 tuổi trở lên)
tồn tại với tư cách pháp nhân trong một quốc gia dân tộc nhất định; các pháp nhân
khác như tổ chức xã hội, tổ chức cộng đồng, tổ chức tôn giáo… bao giờ cũng là
những thể tập hợp pháp nhân của công dân. Còn khái niệm xã hội dân sự không
những dùng để chỉ cộng đồng xã hội công dân với tư cách pháp nhân, mà còn
dùng để chỉ tất cả mọi người và mọi tổ chức xã hội tồn tại và hoạt động trong cộng
đồng, kể cả những người vị thành niên, những người nước ngoài…
Ở một khía cạnh khác, nếu khái niệm xã hội công dân biểu thị mặt đối lập biện
chứng của khái niệm nhà nước pháp quyền, thì khái niệm xã hội dân sự biểu thị
mặt đối lập biện chứng của khái niệm xã hội chính trị – một khái niệm rộng hơn
rất nhiều so với khái niệm nhà nước pháp quyền. Sự thay thế của xã hội công dân
cho xã hội thần dân chính là bước chuyển cách mạng, biểu thị về phương diện tổ
chức xã hội của sự thay thế chế độ phong kiến bằng chế độ tư bản chủ nghĩa; và đi
liền với nó không thể không nói đến sự thay thế của nhà nước pháp quyền tư sản
cho nhà nước thần quyền phong kiến. Song, xét rộng hơn, sự thay thế ấy chỉ là
biểu hiện pháp lý của sự thay thế hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa cho
hình thái kinh tế – xã hội phong kiến, cả về phương diện xã hội chính trị và
phương diện xã hội dân sự. Thành thử, quan hệ giữa các nhà nước với đời sống xã
hội hiện nay mang hình thái phổ biến là quan hệ giữa nhà nước pháp quyền với
đời sống xã hội dân sự thông qua các định chế xã hội.
Về thực chất, định chế xã hội là tổng hoà giữa hệ thống tổ chức thiết chế xã hội
với hệ thống các chế định điều tiết cá nhân và cộng đồng theo những dạng thức
quan hệ tương ứng. Xã hội càng phát triển thì quan hệ giữa các cá nhân càng được


xã hội hoá, tức là con người quan hệ với nhau không chỉ với tư cách cá nhân, mà
còn luôn nhân danh một định chế xã hội nào đó mà mình tham dự. Khi xã hội có
sự phân chia giai cấp và xuất hiện nhà nước, hệ thống các định chế xã hội luôn
mang đậm tính giai cấp, đồng thời được phân định thành các định chế xã hội chính
trị và các định chế xã hội dân sự. Sự ra đời, tồn tại, phát triển và vận hành của hệ
thống các định chế xã hội chính trị luôn gắn liền với giai cấp và nhà nước, trong
khi đó định chế xã hội dân sự luôn tiêu biểu cho lịch sử phát triển trường tồn của
đời sống xã hội loài người.
Định chế xã hội chính trị là tổng hoà các phương thức quan hệ và các thiết chế xã
hội – chính trị tương ứng, như các chính đảng, các tổ chức nhà nước và bộ máy
nhà nước, các đoàn thể chính trị của quần chúng nhân dân… Trong các hình thái
kinh tế – xã hội còn có giai cấp và đấu tranh giai cấp, sự xuất hiện những quan hệ
xã hội – chính trị và hệ thống các định chế xã hội chính trị là điều không thể tránh
khỏi. Bởi vì, đó chính là hệ thống các cơ chế xã hội cho phép các thành viên của
xã hội tập hợp thành những tập đoàn xã hội và các giai cấp khác nhau tiến hành
hoạt động chính trị, nhằm điều tiết các quan hệ đặc thù ấy và duy trì, phát triển,
hoàn thiện một cấu trúc và tổ chức xã hội nhất định vì lợi ích của giai cấp thống trị
cũng như lợi ích của toàn xã hội.
Các yếu tố tạo thành hệ thống chính trị – xã hội ở Việt Nam bao gồm: Đảng Cộng
sản Việt Nam, Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đoàn Thanh niên
cộng sản Hồ Chí Minh, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ
Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến
binh Việt Nam… Trong đó, Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò lãnh đạo đối với
hệ thống chính trị và toàn xã hội; Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về mọi hoạt động xã hội.
Khác với các định chế xã hội chính trị, hệ thống các định chế xã hội dân sự chủ
yếu gắn liền với đời sống hàng ngày của nhân dân, mặc dù không thể hoàn toàn
tách rời các quan hệ xã hội – chính trị. Hệ thống này bao gồm các phương thức
quan hệ và các thiết chế xã hội phi nhà nước tương ứng, mà phổ biến nhất là các
định chế sau:

Định chế xã hội cộng đồng cư dân là hình thức tập hợp dân cư theo lãnh thổ cư
trú, theo dòng họ và gia đình, như thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố; chi tộc, đại gia
tộc… Với hệ thống chế định xã hội chủ yếu mang tính truyền thống văn hoá – đạo
đức, tính hôn nhân và huyết thống, định chế xã hội cộng đồng cư dân là mắt khâu
quan trọng nhằm phát huy tính tự quản của quần chúng nhân dân, của các “tiểu
cộng đồng” trong xã hội. Tuy chịu tác động của chế độ kinh tế, chính trị, xã hội,
song tính “tự nhiên” trong sự phát triển của nó vẫn giữ vai trò chủ đạo.
Định chế xã hội phi chính phủ bao gồm tất cả các tổ chức không thuộc bộ máy
hành chính nhà nước và không nhằm mục đích lợi nhuận, không theo đuổi mục
tiêu chính trị, được lập ra một cách tự nguyện, hợp pháp và có tư cách pháp nhân
theo luật định. Tổ chức phi chính phủ có thể được các cá nhân hay tổ chức xã hội,
thậm chí cả nhà nước, đứng ra thành lập, huy động đóng góp tài chính từ nhiều
nguồn khác nhau để thực hiện các hoạt động không phân biệt chính kiến và địa dư.
Có ba dạng chủ yếu của định chế xã hội phi chính phủ: tổ chức phi chính phủ
mang tính chất quốc gia; tổ chức phi chính phủ mang tính chất quốc tế; và tổ chức
phi chính phủ mang tính chất chính phủ.
Định chế xã hội tôn giáo, tín ngưỡng bao gồm những tổ chức và thành viên được
hình thành và hoạt động theo những chế định xã hội đặc biệt, phản ánh bản chất,
chức năng xã hội của tôn giáo, tín ngưỡng. Dưới chủ nghĩa xã hội, không thể
không thừa nhận rằng tôn giáo, tín ngưỡng vẫn còn có cơ sở để tồn tại và vẫn tồn
tại trên thực tế, nhưng định chế xã hội tôn giáo, tín ngưỡng đã mang đặc điểm
khác và vai trò của nó trong đời sống văn hoá tinh thần của cộng đồng đã không
còn vô giới hạn như trước. Đặc biệt, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội –
thời kỳ cải biến căn bản xã hội cũ để xây dựng xã hội mới “từ gốc đến ngọn”, định
chế xã hội tôn giáo, tín ngưỡng không thể không chịu ảnh hưởng của “cuộc cách
mạng trong quan hệ của chính trị đối với tôn giáo”. Chính vì vậy, khi xét đến tính
đa dạng trong sự phát triển của ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa ở nước ta, cần
khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của định chế xã hội này đối với đời sống xã hội và
nâng cao chất lượng giáo dục thế giới quan vô thần khoa học.
Định chế xã hội kinh tế bao gồm toàn bộ các tổ chức kinh tế được hình thành trong

đời sống xã hội cùng với hệ thống các chế định xã hội tương ứng. Sự phát triển
của hệ thống các chế định xã hội này trong tiến trình lịch sử luôn phản ánh thể chế
kinh tế – xã hội và trình độ phát triển của bản thân nền kinh tế. Đó là quá trình
phát triển lịch sử từ chế định công hữu giản đơn thời công xã nguyên thuỷ đến các
chế định bất bình đẳng dựa trên chế độ tư hữu, rồi cuối cùng dẫn đến sự ra đời tất
yếu của chế định công bằng và bình đẳng trên cơ sở chế độ công hữu tự giác trong
hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa. Tương ứng với lịch sử phát triển của
các chế định ấy, các tổ chức kinh tế cũng ngày càng phát triển, hoàn thiện – từ
hiệp tác giản đơn đến một hệ thống tổ chức kinh tế mang tính toàn cầu hoá cực kỳ
phức tạp.
Ngoài các định chế xã hội phổ biến nói trên, trong đời sống xã hội hiện đại còn
xuất hiện một số định chế xã hội dân sự khác, như định chế sinh hoạt cộng đồng
về thể thao, văn hoá, ngôn ngữ, giải trí, du lịch, hội đồng hương… mang tính chất
nhất thời, tôn chỉ không ổn định và phạm vi tác dụng không lớn trong đời sống xã
hội dân sự.
Ý nghĩa lý luận của việc tiếp cận quan niệm “định chế xã hội” trong xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thể hiện trước hết ở sự phân tích mối quan hệ
giữa nhà nước đó với đời sống xã hội dân sự. Xét ở góc độ chính trị – giai cấp, bản
chất của mối quan hệ giữa nhà nước với đời sống xã hội dân sự là mối quan hệ
giữa giai cấp thống trị với toàn xã hội, dù đó là nhà nước chủ nô, nhà nước phong
kiến, nhà nước tư sản hay nhà nước xã hội chủ nghĩa. Song, xét ở góc độ tổ chức
xã hội, mối quan hệ giữa nhà nước với đời sống xã hội dân sự luôn biểu hiện ra
như mối quan hệ giữa một bên là định chế xã hội đặc biệt, tức là định chế xã hội
nhà nước, với tất cả các định chế xã hội khác. Tư cách đặc biệt đó thể hiện ở chỗ,
nhà nước vừa là một định chế xã hội chính trị, vừa đóng vai trò là trung tâm nối
kết, điều tiết các định chế xã hội dân sự để xã hội tồn tại và hoạt động bình
thường. Về phương diện chế định, định chế xã hội nhà nước bao gồm hệ thống các
văn bản pháp lý như Hiến pháp, các bộ luật, các văn bản dưới luật, các pháp lệnh,
nghị định có liên quan đến những vấn đề trọng đại của quốc gia dân tộc cũng như
của từng địa phương. Về phương diện tổ chức thiết chế, định chế xã hội nhà nước

bao gồm các thể chế tương ứng như quốc hội, chính phủ, toà án, viện kiểm sát, toà
thị chính, hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân… Cả hai phương diện này hợp
thành một hệ thống cấu trúc xác định, cho phép nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa vừa đóng vai trò là một bên quan hệ, vừa là yếu tố quyết định việc xác lập
cơ chế quan hệ giữa nó với các định chế xã hội, cũng như chi phối sâu sắc mối
quan hệ giữa các định chế xã hội khác nhau, nhất là về phương diện quản lý nhà
nước bằng pháp luật.
“Đối diện” với nhà nước, các tổ chức xã hội không thuộc hệ thống bộ máy nhà
nước luôn đóng vai trò là một pháp nhân nhất định, tức là được nhà nước thừa
nhận như một định chế xã hội, có quyền và nghĩa vụ pháp lý theo tư cách pháp
nhân của mình. Hơn thế, với tư cách là pháp nhân chính thống do nhà nước pháp
quyền thừa nhận, mỗi định chế xã hội hoàn toàn đủ tư cách đóng vai trò là thể
nhân khi “đối diện” với các định chế xã hội khác, tức là tự thể hiện ra với tư cách
là một thực thể xã hội, tồn tại trên thực tế. Trong truyền thống văn hoá dân tộc,
tâm thức của con người Việt Nam chủ yếu dành cho các quan hệ cộng đồng cụ thể,
ít thấy có những quan hệ trực tiếp giữa cá nhân với cộng đồng lớn, trừu tượng;
đồng thời, thế ứng xử trong các quan hệ chủ yếu là “duy tình”. Cho nên, quyền lực
nhà nước thường không can thiệp vào các định chế xã hội, trừ khi các định chế đó
có dấu hiệu sai phạm, ảnh hưởng xấu tới nhà nước. Tuy nhiên, không thể tuyệt đối
hoá tính độc lập của các định chế xã hội không thuộc bộ máy chính quyền nhà
nước đến mức tạo ra tình trạng các định chế đó không tuân theo luật pháp, coi
thường và có khi tự phát chống trả luật pháp. Chính vì vậy, với tư cách là định chế
xã hội đặc biệt, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cần tạo cho mọi thành viên
trong từng định chế xã hội thói quen sống, làm việc và quan hệ theo đúng Hiến
pháp và pháp luật. Đây là việc làm đầy khó khăn, phức tạp, đòi hỏi cán bộ, đảng
viên và các cơ quan nhà nước phải am hiểu, thông thạo luật pháp, am hiểu tâm lý
cộng đồng, giải quyết “thấu tình đạt lý” mọi vấn đề liên quan tới các định chế xã
hội.
Tư cách định chế xã hội đặc biệt của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa còn
thể hiện ở chỗ, cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước khi tham gia hoạt

động của các tổ chức cộng đồng xã hội ở những cấp độ khác nhau vừa phải đóng
vai trò là thành viên của định chế xã hội đó, vừa phải thực hiện đúng vị trí, vai trò
và phát huy ảnh hưởng tích cực của một nhân viên nhà nước trong xây dựng cộng
đồng. Cán bộ, công chức nhà nước cũng là những con người bình thường, tồn tại
và hoạt động trong một hệ thống các quan hệ xã hội rộng lớn, nên không thể cấm
đoán họ tham gia các định chế xã hội ngoài bộ máy nhà nước. Hơn thế, do trong
từng quan hệ cụ thể thì con người luôn xác định một “tư cách cụ thể”, nên khi ở
trong một tổ chức cộng đồng xã hội nào đó, mỗi cán bộ, công chức nhà nước thể
hiện đúng mình với tư cách là thành viên hoặc vị thế xã hội mà cộng đồng trao cho
để có cách ứng xử phù hợp trong đời sống cộng đồng. Việc cố “thể hiện” tư cách
cán bộ, công chức nhà nước một cách cứng nhắc theo kiểu “quan cách mạng” chắc
chắn sẽ vừa gây trở ngại cho hoạt động của cộng đồng, vừa tạo sự cách biệt, xuyên
tạc hình ảnh cán bộ, công chức nhà nước, làm phương hại đến quan hệ giữa nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với các định chế xã hội.
Quan hệ giữa nhà nước pháp quyền với đời sống xã hội dân sự thông qua các định
chế xã hội luôn dựa trên hệ thống các nguyên tắc cơ bản. Trong đó, một số nguyên
tắc quan trọng hàng đầu là: các quyền (cả quyền công dân và quyền của nhà nước)
không chỉ có sự phân công, phân định, phối hợp mà còn phải có sự đối trọng và
kiềm chế; nhà nước và xã hội dân sự cũng như các định chế xã hội phải bình đẳng
về phương diện pháp luật, mặc dù nhà nước trực tiếp nắm giữ và sử dụng pháp
luật; các chế định xã hội – pháp luật được đề cao, song không thể vô hạn độ, kể cả
nếu toà án tối cao xét xử sai pháp luật thì vẫn phải có cơ chế sửa sai và có một loại
thiết chế nào đó để điều chỉnh (chẳng hạn như Toà Hiến pháp). Quan hệ giữa nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với đời sống xã hội dân sự cũng mang đầy đủ
các đặc trưng nói trên, song do bản chất của giai cấp cầm quyền nên quan hệ ấy
còn chứa đựng những đặc trưng riêng. Nhà nước xã hội chủ nghĩa được tổ chức
theo tiêu chí nhà nước pháp quyền thực chất vẫn là chuyên chính của giai cấp công
nhân, là kiểu “nhà nước nửa nhà nước” với những chức năng khác hẳn các nhà
nước của giai cấp thống trị bóc lột. Sự thống nhất giữa lợi ích cơ bản của giai cấp
thống trị – giai cấp công nhân – với lợi ích của quần chúng nhân dân lao động

chiếm đại đa số trong xã hội tạo cho nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực
sự trở thành một định chế xã hội hoàn toàn của dân, do dân, vì dân; làm cho đời
sống xã hội dân sự phát triển hài hoà trên cơ sở đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu
của nhân dân.
Trong điều kiện xây dựng theo tiêu chí nhà nước pháp quyền, quan hệ giữa nhà
nước xã hội chủ nghĩa với đời sống xã hội dân sự sẽ ngày càng hoàn thiện theo
hướng giữa nhà nước với các định chế xã hội vừa có sự phân định rõ ràng, vừa có
sự phối hợp và kết hợp chặt chẽ trên cơ sở thống nhất giữa lợi ích cá nhân, cộng
đồng và xã hội. Nhân dân tham gia quản lý nhà nước và thắt chặt quan hệ với nhà
nước vừa trực tiếp với tư cách công dân, vừa thông qua các định chế xã hội. Nhà
nước vừa đóng vai trò chủ thể trực tiếp quản lý toàn bộ đời sống xã hội bằng Hiến
pháp và pháp luật, đồng thời được củng cố, hoàn thiện và tổ chức, hoạt động trên
cơ sở Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước và tất cả các định chế xã hội cũng như
mỗi người dân đều bình đẳng trước Hiến pháp và pháp luật. Đó là những vấn đề
có tính quy luật.
Quá trình phát triển, hoàn thiện mối quan hệ giữa Nhà nước với đời sống xã hội
dân sự nước ta trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân cũng không nằm ngoài tính quy luật chung ấy. Chính vì
vậy, việc phát huy dân chủ trực tiếp của quần chúng nhân dân lao động trên mọi
phương diện của đời sống xã hội cần được kết hợp chặt chẽ, hài hoà với việc xây
dựng, củng cố, nâng cao sức mạnh quản lý bằng pháp luật của Nhà nước, đặc biệt
là việc xây dựng, củng cố, phát huy vai trò của các định chế xã hội. Cùng với hệ
thống giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy chính quyền nhà nước
các cấp, hoàn thiện hệ thống Hiến pháp và pháp luật, thì việc coi trọng lợi ích và
“tìm” ra sự phù hợp của các nhóm xã hội về mặt lợi ích, coi trọng nâng cao dân trí
và sự phát triển đồng đều của mặt bằng dân trí phải trở thành những giải pháp cơ
bản hàng đầu. Đặc biệt, việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, không ngừng
mở rộng và phát huy dân chủ có ý nghĩa quan trọng bậc nhất để phát triển quan hệ
ưu việt giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với đời sống xã hội
dân sự trước tác động của nhân tố thời đại, sự chuyển hoá so sánh lực lượng cách

mạng trong khu vực và thế giới, sự phát triển của cách mạng khoa học – công
nghệ, kinh tế tri thức…
Sự phù hợp về tổ chức và hoạt động của chính quyền nhà nước trong quan hệ với
định chế xã hội cộng đồng dân cư cho phép phát huy đến mức cao nhất tính tự
quản của nhân dân và sự quản lý chặt chẽ theo pháp luật của nhà nước. Sự thống
nhất giữa các quy định về tổ chức và hoạt động của cộng đồng với hành lang pháp
lý là một trong những biểu hiện đậm nét tính ưu việt của nền pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong thực hiện yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân ở nước ta hiện nay. Những mâu thuẫn nảy sinh trong quan
hệ giữa nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với các tổ chức cộng đồng là vấn
đề bất cập cần được giải quyết, điều chỉnh từ cả hai phía: tự quản của nhân dân và
quản lý theo pháp luật của chính quyền nhà nước.
Các định chế xã hội dân sự khác như định chế xã hội phi chính phủ, định chế xã
hội – tôn giáo, tín ngưỡng, định chế xã hội – kinh tế… đều phải chịu sự quản lý về
phương diện hành chính – pháp nhân của nhà nước và được tổ chức, hoạt động
trong khuôn khổ của Hiến pháp, pháp luật. Song, sự phù hợp giữa tôn chỉ, mục
đích tổ chức và hoạt động của các định chế đó… với pháp luật hiện hành sẽ cho
phép chúng vừa hoàn thiện cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động, vừa đóng
góp tích cực vào quá trình xây dựng nhà nước. Ngược lại, sự vững mạnh của nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là cơ sở để nhà nước quản lý vĩ mô có hiệu quả
đối với toàn bộ đời sống xã hội dân sự, cũng như ngày càng thắt chặt quan hệ với
từng định chế, thể hiện đúng bản chất nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân .

×