Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.34 KB, 4 trang )
Công dụng của tê giác
Tê giác còn gọi là Tê ngưu giác, Ô tê giác là sừng của nhiều loại Tê giác như
Rhinoceros unicoris L. (Độc giác tê), Rhinoceros sondaicus Desmarest (tiểu
Độc giác tê), Rhinoceros sumatrensis (Song giác tê) Thành phần hoá học chủ
yếu của Tê giác là Keratin, ngoài ra còn có Canxi cacbonat, Canxi photphat;
khi thuỷ phân, Tê giác sẽ cho các axit amin như Tyrosin, Axit tiolatic, Xystein.
Theo y học cổ truyền, Tê giác vị chua mặn, tính lạnh, vào hai đường kinh Tâm và
Can, có công dụng thanh nhiệt lưỡng huyết, định kinh giải độc và cầm máu,
thường được dùng để chữa các chứng bệnh như thương hàn ôn dịch mà nhiệt nhập
huyết phận, sốt quá hoá điên cuồng, co giật, sốt vàng da, ban chẩn, thổ huyết, chảy
máu cam, ung độc, hậu bối
Trong Nam dược thần hiệu, Tuệ Tĩnh đã viết: Tê giác – Sừng tê ngưu, vị mặn,
đắng, chua, tính hàn, không độc, giải các nhiệt độc, trị nhọt lở, cổ trướng, bệnh mất
máu, phong cuồng, sốt rét và ôn dịch. Hải Thượng Lãn Ông ghi nhận trong Lĩnh
Nam bản thảo:
"Tê giác tục gọi cái sừng Tê,
Lạnh, mặn, đắng, chua, tính lành thật
Giải nhiệt độc, trùng cổ, mụn ung,
Mọi xuất huyết, cuồng phong, chướng tật".
Trong Dược phẩm vậng yếu, ông cũng viết về công dụng của Tê giác: Sáng mắt an
thần, nó là thuốc chủ yếu để thanh tâm trấn can, tiêu đàm chỉ lỵ, lương huyết tán tà,
trúng phong mất tiếng, chữa phiền nóng, thổ huyết, nục huyết, tiện huyết, ứ huyết,
chữa chứng thương hàn phát cuồng, phát hoảng, phát ban, nói sảng cùng trẻ con
phong nhiệt gây thành kinh giản, chữa chứng đậu nóng dữ và còn nọc độc