Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Bàn về triết lý cây cảnh docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.3 KB, 3 trang )

Bàn về triết lý cây
cảnh
Cỏ cây hoa lá có một sức hấp dẫn diệu kỳ đối với người Á
Đông, nhứt là nhân dân ta đã coi thú chơi cây kiểng như một
hoạt động văn hóa vừa mang tính thẩm mỹ vừa thể hiện một lối
sống. Ngay từ thời xa xưa, ông cha ta đã từng gắn bó với hoa
thảo và muốn gởi gắm vào gốc cây, chậu kiểng những ước mơ,
hoài bão cao cả của mình.

Trên đường tìm về lẽ sống, ai cũng muốn đem cái tâm nhỏ
bé của mình hòa vào cái tâm bao la của trời đất để được gần gũi
với thiên nhiên vì thiên nhiên hiền hòa giống như một bà mẹ.
Thiên nhiên đẹp và hấp dẫn, ai cũng thấy điều đó nhưng bàn về
giá trị thẩm mỹ và ý nghĩa triết lý của cây kiểng thì lại có quá
nhiều ý kiến khác nhau. Trường phái tự nhiên cho rằng cây
kiểng đẹp phải toát lên từ giá trị mỹ cảm, còn trường phái xã hội
thì lại cho rằng cây kiểng đẹp phải có mối quan hệ gắn bó với
đời sống con người, nhứt là đời sống tinh thần. Chẳng hạn như
mai, trúc, tùng đẹp vì nó tượng trưng cho những đức tính cao
quý “ngự sử mai, quân tử trúc, trượng phu tùng”. Mai, đào khả
ái, thanh cao lại còn là hoa Tết, là sứ giả của mùa Xuân. Cây
liễu tượng trưng cho vẻ đẹp của phụ nữ “mình liễu, liễu yếu đào
tơ”. Thơ ca Trung Quốc và Việt Nam thường ca ngợi “tùng
hùng vĩ, mai thanh kỳ, trúc thanh nhã, liễu yểu điệu như thiếu
nữ”, lại còn coi Tùng - Trúc - Mai là tam kiệt hoặc tam hữu (*).
Trái lại cũng có một số cây bị người đời xa lánh vì nó không
đem lại niềm vui, hạnh phúc cho người “ma cây gạo, cú cáo cây
đề”.
Cây cũng có thứ thanh cao, có thứ tầm thường, có thứ nhã,
có thứ tục (**) nên hầu hết những người sành điệu đều chọn
những cây có ý nghĩa thanh cao và có giá trị nghệ thuật để đưa


vào chậu, chẳng hạn như sung, ngâu, nguyệt quới, mai vàng,
khế, lựu hoặc những cây mang tính trầm mặc, u tĩnh, tiêu biểu
cho sự ẩn dật như sanh, si, gừa, bồ đề Thời phong kiến, các
bậc vua chúa còn phân chia cây kiểng ra làm nhiều thứ bậc: vua
chơi cây trắc bá, quan đại thần chơi cây loan, nho sĩ chơi cây si
và bậc phong lưu chơi cây liễu. Người chơi cây kiểng ít nhiều
đều chịu ảnh hưởng của triết lý phương Đông. Lão Tử cho rằng
“Đại khối trầm tĩnh vô ngôn”, một cây kiểng sống lâu năm cũng
giống như một ông già minh triết đang trầm tư trước trời đất bao
la. Vì vậy, người chơi kiểng rất thích băng rừng lội suối để săn
tìm những dáng cây độc đáo, thân hình vặn vẹo, có gốc rễ ngoằn
ngoèo, tượng trưng cho sự sống trơ trụi một mình giữa đỉnh hú
mây ngàn mà vẫn hiên ngang vượt qua phong ba bão táp.
Mỗi người đều nhìn vẻ đẹp bằng cái tâm, bằng sự thể
nghiệm, cũng như nhà văn Sơn Nam cho rằng cây kiểng đóng
vai trò viên ngọc, cái đỉnh đồng. Nó gần gũi với con người và
thơ mộng như một bài thơ siêu thoát, hiền lành. Có người say
mê đến nỗi muốn thổi hồn vào từng gốc cây và trân trọng như
gìn vàng giữ ngọc. Nhà thơ Cao Bá Quát cả đời chỉ bái phục có
hoa mai “nhứt sinh đê thủ bái mai hoa”. Nguyễn Trung Ngạn coi
mai hơn hẳn các loài hoa khác “Dã mai cốt cách nguyên phi
tục”. Phan Kế Bính đã từng viết: “Nhàn cư vô sự”, lúc nhàn hạ
ông cha ta tiêu khiển bằng cách đắp đá trồng cây để ký thác hoài
bão, di dưỡng tính tình và giữ cho thần chí được k h o a n khoái.
Cây cảnh có trăm ngàn cái đẹp, đẹp về hình thức lẫn nội dung,
đặc biệt là ý nghĩa xã hội, nhưng cái đẹp thường là cái không thể
cắt nghĩa được. Do đó nhà văn Sơn Nam đã viết: “Non bộ và
cây kiểng bắt nguồn từ một triết lý, nói nôm na là một đạo nghệ,
đạo nghĩa”.


×