Tải bản đầy đủ (.pdf) (677 trang)

sapiens Lược sử loài người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.56 MB, 677 trang )




SAPIENS – LƯỢC SỬ LỒI NGƯỜI

Tác giả
Dịch giả
Số trang
Năm
Phát hành
Nxb
Sốt
Hình màu

Yuval Noah Harari
Nguyễn Thuỷ Chung
548 trang
2017
Omega Plus
Tri Thức
Bọ Cạp, Thái Dương
Tonard


tve-4u tháng 5, 2020




Yuval Noah Harari (1976)
Nhà nghiên cứu lịch sử Israel. Ông nhận bằng Tiến sỹ của Đại


học Oxford năm 2002, hiện là giảng viên Khoa Lịch sử, Đại học
Hebrew ở Jerusalem.
Ông chuyên nghiên cứu về lịch sử thế giới, lịch sử thời trung cổ
và lịch sử quân sự. Hiện nay, ông quan tâm nghiên cứu những vấn
đề lớn mang tính khái quát về mối quan hệ giữa lịch sử và sinh học.
Các cuốn sách được xuất bản của ơng được đón nhận nồng nhiệt ở
các nước trên thế giới, tạo nên nhiều hứng thú cũng như tranh cãi
cho độc giả.




LỜI CẢM ƠN
Trong ấn bản mới này của cuốn Sapiens – Lược sử lồi người,
chúng tơi đã có một số hiệu chỉnh về nội dung với sự tham gia, đóng
góp của các thành viên Cộng đồng đọc sách Tinh hoa. Xin trân trọng
cảm ơn ý kiến đóng góp tận tâm của các q độc giả, đặc biệt là ơng
Nguyễn Hồng Giang, ông Nguyễn Việt Long, ông Đặng Trọng Hiếu
cùng những người khác. Mong tiếp tục nhận được sự quan tâm và
góp ý từ độc giả.
Cơng Ty Cổ Phần Sách Omega Việt Nam




LỜI TÁC GIẢ
(cho ấn bản tiếng Anh năm 2019)

Đã 10 năm trôi qua kể từ ngày tôi đặt bút viết cuốn Sapiens và
bản tiếng Anh của cuốn sách này đã ra mắt cũng được gần 5 năm

rồi. Tôi nghĩ giờ là lúc nên cập nhật bản thảo một chút, vì vài lý do
sau:.
Thứ nhất, nghiên cứu khoa học trong các lĩnh vực liên quan đã
có bước tiến đáng kể trong mấy năm gần đây
Thứ hai, suốt những năm vừa qua, đã có rất nhiều sự kiện xảy ra
trên thế giới, cả về chính trị và cơng nghệ.
Thứ ba, Sapiens vẫn là một cuốn sách bán chạy, và sức ảnh
hưởng về mặt văn hóa và chính trị của nó vẫn khơng ngừng gia
tăng.
Do đó, tơi thấy mình nên cập nhật một số đoạn trong cuốn
Sapiens, ví dụ như phần nội dung về trí tuệ nhân tạo và chủ nghĩa
dân tộc, vốn rất hợp lý hồi 5 hay 10 năm trước nhưng nay đều đã
trở nên lỗi thời. Và khi viết lại nội dung các phần đó, chúng ta có cơ
hội cập nhật thêm về thông tin và trau chuốt hơn về văn phong.
Ngồi ra, khi viết Sapiens, tơi đã khơng lường được mức tác
động sâu rộng của nó, và để đảm bảo sự ngắn gọn, tôi đã hạn chế




tối thiểu số chú thích cho vào cuốn sách này. Khá nhiều thơng tin
được đưa ra mà khơng có bất kỳ nguồn dữ liệu liên quan nào để tra
cứu. Lúc đó, lựa chọn cách chú giải như vậy dường như rất có lý,
song giờ tơi lại hối tiếc. Có đến hàng triệu người trên thế giới coi
Sapien là nguồn tham khảo thơng tin về lịch sử lồi người nhưng họ
khơng biết cách chứng thực những sự kiện trong sách, cũng như tìm
thêm tài liệu về sự việc họ thấy hứng thú . Vậy nên mới đây tôi đã
yêu cầu trợ lý nghiên cứu của mình biên soạn lại một danh sách tài
liệu tham khảo đầy đủ hơn cho phiên bản trực tuyến cuốn Sapiens
sẽ được xuất bản trên trang web của chúng tơi vào mùa xn năm

2019. Tơi khơng có ý định cập nhật vào bản sách giấy bởi toàn bộ
danh sách tài liệu tham khảo có thể dài hàng chục thậm chí hàng
trăm trang, thay vào đó, tơi muốn thêm vào bản in một địa chỉ trang
web nhằm giúp độc giả có nhu cầu dễ dàng tìm thấy.
Nhìn chung, các điểm chỉnh sửa trong bản in này là không quá
nhiều và hầu như ít quan trọng. Để đảm bảo số trang và phần mục
lục không thay đổi, tôi đã vô cùng cẩn trọng với mỗi câu chữ thêm
vào cũng như với các dòng lược bớt, và tổng số dòng trên từng
trang vẫn được giữ ngun. Nếu tơi có tính toán sơ suất chỗ nào
dẫn tới số trang và mục lục thay đổi, kính mong q độc giả hãy cho
tơi được biết, tơi ln có thể lược bỏ hoặc thêm vào một vài chữ
nữa.
Về mặt quảng bá, tôi không khuyến khích việc cơng bố các thay
đổi này, nên tránh việc giới thiệu các bản in sau này như một phiên
bản có cập nhật chỉnh sửa , bởi việc đó sẽ dẫn đến những kỳ vọng




thiếu thực tế và bị thổi phồng nơi độc giả. Ban đầu, tơi có ý viết lại
một cách bao qt hơn và có thể thêm vào một lời tựa mới, song
cuối cùng tơi quyết định làm ngược lại. Có lẽ một ngày nào đó tơi sẽ
làm như vậy, bởi ý tưởng ấy địi hỏi tơi phải nghiên cứu nhiều hơn
nữa, thậm chí viết lại tồn bộ cuốn sách.
Nếu bạn có bất kỳ câu hỏi hay bình luận gì , vui lịng liên hệ với
tơi.









Trong kí ức kính u về cha tơi, Shlomo Harari




MỐC SỰ KIỆN THEO DÒNG THỜI GIAN
Vật chất và năng lượng xuất hiện. Khởi đầu
13.5 tỉ năm trước của Vật lý. Các nguyên tử và phần tử xuất
hiện. Khởi đầu của Hố học.
4.5 tỉ năm trước Trái Đất hình thành.
3.8 tỉ năm trước

Các sinh vật xuất hiện. Khởi đầu của Sinh
học.

6 triệu năm trước Ngoại tổ gần nhất của con người và tinh tinh.
2.5 triệu năm Sự tiến hoá của chi Homo ở châu Phi. Công
trước cụ đá đầu tiên.
2 triệu năm trước

Từ châu Phi con người tỏa ra lục địa Á-Âu.
Sự tiến hố của các lồi người khác nhau.

500.000 năm Người Neanderthal phát triển ở châu Âu và
trước Trung Đông.
300.000 năm

Lửa được dùng trong sinh hoạt.
trước
200.000 năm
Homo sapiens phát triển ở Đông Phi.
trước
Cách mạng Nhận thức. Sự trỗi dậy của ngôn
70.000 năm
ngữ tưởng tượng. Khởi đầu của Lịch sử.
trước
Sapiens tỏa ra từ châu Phi.
45.000 năm Sapiens đặt chân đến châu Úc. Động vật lớn
trước châu Úc tuyệt chủng.
30.000 năm
Người Neanderthal tuyệt chủng.
trước
16.000 năm Sapiens đặt chân đến châu Mỹ. Động vật lớn




trước châu Mỹ tuyệt chủng.
13.000 năm Homo floresiensis tuyệt chủng. Homo sapiens
trước là lồi người duy nhất cịn sót lại.
12.000 năm Cách mạng Nông nghiệp. Cây trồng và vật
trước nuôi. Công cuộc định cư lâu dài.
5.000 năm trước

Những vương quốc đầu tiên, chữ viết và tiền
bạc. Tôn giáo đa thần.


4.250 năm trước Đế chế đầu tiên – Đế chế Akkad của Sargon.
Phát minh ra tiền xu – loại tiền tệ phổ biến. Đế
chế Ba Tư – một trật tự chính trị phổ qt “vì
2.500 năm trước lợi ích của tất cả con người”. Phật giáo ở Ấn
Độ – một chân lý phổ quát “để giải thoát
chúng sinh khỏi đau khổ”.
2.000 năm trước

Vương triều nhà Hán ở Trung Hoa. Đế chế La
Mã ở Địa Trung Hải. Ki-tô giáo.

1.400 năm trước Hồi giáo
Cách mạng Khoa học. Nhân loại thừa nhận
sự ngu dốt và bắt đầu đạt được sức mạnh
chưa từng có. Người châu Âu bắt đầu chinh
500 năm trước
phục châu Mỹ và các đại dương. Toàn bộ
hành tinh trở thành một đấu trường lịch sử
duy nhất. Sự trỗi dậy của chủ nghĩa tư bản.
Cách mạng Cơng nghiệp. Gia đình và cộng
đồng được thay thế bằng chính quyền và thị
200 năm trước
trường. Sự tuyệt chủng trên diện rộng của
động thực vật.
Hiện tại Con người vượt qua ranh giới Trái đất. Vũ khí
hạt nhân đe dọa sự sống còn của nhân loại.
Các sinh vật ngày càng được định hình nhờ





thiết kế thơng minh thay vì nhờ chọn lọc tự
nhiên.
Thiết kế thơng minh có trở thành ngun tắc
Tương lai của sự sống? Homo sapiens sẽ bị thay thế
bằng siêu nhân?




Phần 1
CÁCH MẠNG NHẬN THỨC

Hình 1. Một dấu tay con người có niên đại từ 30.000 năm trước trên tảng đá ở hang ChauvetPont-d’Arc miền Nam nước Pháp. Ai đó muốn nói rằng: “Tơi từng ở đây!”




1
MỘT ĐỘNG VẬT KHÔNG NỔI TRỘI

Khoảng 13,5 tỉ năm trước, vật chất, năng lượng, thời gian và
khơng gian được hình thành trong một sự kiện gọi là Big Bang (Vụ
nổ Lớn). Câu chuyện về những đặc tính cơ bản này của vũ trụ
chúng ta được gọi là Vật lý.
Khoảng 300.000 năm sau khi xuất hiện, vật chất và năng lượng
bắt đầu hợp nhất tạo thành các cấu trúc phức tạp, gọi là những
nguyên tử, sau đó chúng kết hợp thành những phân tử. Câu chuyện
của các nguyên tử, phân tử và những tương tác giữa chúng được
gọi là Hoá học.

Khoảng 3,8 tỉ năm trước, trên một hành tinh được gọi là Trái đất,
một số phân tử nhất định đã kết hợp tạo thành những cấu trúc đặc
biệt lớn và phức tạp, được gọi là các sinh vật. Câu chuyện về các
sinh vật được gọi là Sinh học.
Khoảng 70.000 năm trước đây, các sinh vật thuộc lồi Homo
sapiens bắt đầu hình thành một cấu trúc thậm chí cịn tinh vi hơn gọi
là văn hố. Q trình phát triển văn hố này của con người được gọi
là Lịch sử.




Có ba cuộc cách mạng quan trọng định hình tiến trình lịch sử:
Cách mạng Nhận thức đã khởi động lịch sử cách đây khoảng
70.000 năm. Cách mạng Nông nghiệp đã tăng tốc lịch sử vào
khoảng 12.000 năm trước đây. Còn Cách mạng Khoa học, mới bắt
đầu cách đây 500 năm, biết đâu sẽ kết thúc lịch sử và bắt đầu một
thứ gì đó hồn tồn khác biệt. Cuốn sách này kể câu chuyện về việc
ba cuộc cách mạng đó đã tác động đến loài người và những sinh vật
cùng sống với họ ra sao.
*
Lồi người đã có mặt từ lâu trước khi có lịch sử. Động vật gần
giống với con người hiện đại xuất hiện lần đầu khoảng 2,5 triệu năm
trước. Nhưng qua rất nhiều thế hệ, chúng chẳng có gì nổi trội hơn
so với vơ số các sinh vật khác cùng chia sẻ mơi trường sống với
mình.
Nếu lặn lội ngược về Đơng Phi 2 triệu năm trước, có lẽ bạn sẽ
bắt gặp những cảnh tượng quen thuộc của những lồi giống như
con người: những bà mẹ lo lắng ơm ấp đứa con nhỏ của mình bên
đám trẻ em vơ tư chơi đùa trong bùn đất; đám thanh niên hiếu thắng

chống lại những định kiến của xã hội còn những cụ già mệt mỏi chỉ
muốn sống trong yên bình; những đấng mày râu ưỡn ngực cố gây
ấn tượng với những bóng hồng xung quanh, trong khi bà chủ gia
đình thơng thái đã chứng kiến tất cả những chuyện này. Những con
người tối cổ này yêu thương, chơi đùa, kết bạn thân thiết và đấu
tranh cho địa vị và quyền lực – nhưng vẫn giống hệt như những loài
tinh tinh, khỉ đầu chó và voi. Họ chẳng có gì q đặc biệt. Khơng có




ai, kể cả con người, có bất cứ ý niệm mơ hồ nào về việc con cháu
của họ một ngày nào đó sẽ dạo bước trên Mặt trăng, phân tách các
nguyên tử, hiểu được mã di truyền và viết sách lịch sử. Điều quan
trọng nhất cần biết về con người thời tiền sử rằng đây là những
động vật bình thường như bao lồi khác, với tác động của họ lên
mơi trường chẳng hơn gì các lồi khỉ đột, đom đóm hoặc sứa.
Các nhà sinh học phân chia sinh vật thành các loài. Động vật
được cho là cùng loài nếu chúng có xu hướng giao phổi với nhau,
sinh con hữu thụ.” Ngựa và lừa có cùng một tổ tiên gần gũi và có
chung nhiều đặc điểm về thể chất. Nhưng chúng lại tỏ ra ít quan tâm
về tính dục với nhau. Chúng sẽ ghép đôi nếu bị bắt buộc – nhưng
con cái của chúng, được gọi là la, sẽ khơng có khả năng sinh sản.
Do đó, các đột* biến ADN ở lồi lừa khơng bao giờ có thể truyền
sang lồi ngựa hồ ngược lại. Vì thế hai lồi động vật trên được coi
là hai loài tách biệt đi theo những con đường tiến hố riêng. Ngược
lại, chó mặt xệ và chó tai cụp có thể trơng rất khác nhau, nhưng
chúng lại cùng loài, chia sẻ chung cái kho ADN. Chúng sẽ vui vẻ
ghép đôi, con của chúng sẽ lớn lên và ghép đơi được với các con
chó khác, tạo ra nhiều hậu duệ hơn.

Các lồi tiến hố từ một tổ tiên chung được tập hợp lại thành một
“chi”. Sư tử, hổ, báo và báo đốm là các loài khác nhau trong chi
Panthera. Các nhà sinh học đặt cho mỗi loài sinh vật một cái tên
Latin gồm hai phần, tên chi rồi đến tên lồi. Sư tử, ví dụ, được gọi là
Panthera leo, tức lồi leo thuộc chi Panthera. Có lẽ, tất cả những ai
đọc cuốn sách này đều thuộc về Homo sapiens – loài sapiens (tinh




khôn) của chi Homo (người).
Tới lượt các chi lại được nhóm thành các họ, chẳng hạn như họ
mèo (sư tử, báo gepa, mèo nhà), họ chó (chó sói, cáo, chó rừng) và
họ voi (voi, voi ma-mút, voi răng kiếm). Mọi thành viên của một họ
lần theo dịng dõi của mình ngược về một bà tổ hoặc ơng tổ. Ví dụ,
tất cả loài mèo, từ con mèo nhà nhỏ nhất đến những con sư tử hung
dữ nhất, có chung một tổ tiên là loài mèo sống cách đây khoảng 25
triệu năm trước.
Homo sapiens cũng vậy, thuộc về cùng một họ. Thực tế vơ vị này
đã từng là một trong những bí mật được giữ kín nhất trong lịch sử.
Từ khá lâu, Homo sapiens thích coi mình tách biệt với các lồi động
vật, một đứa trẻ mồ côi bị tước mất gia đình, thiếu anh chị em ruột
hoặc anh chị em họ, và quan trọng nhất là khơng có cha mẹ. Nhưng
đó khơng phải sự thật. Dù thích hay khơng, chúng ta đều là thành
viên của một gia đình lớn và đặc biệt ổn ào, gọi là vượn loại lớn. Họ
hàng gần nhất của chúng ta bao gồm tinh tinh, khỉ đột và đười ươi.
Tinh tinh là loài gần nhất. 6 triệu năm trước đây, một con vượn cái
có hai con gái. Một trở thành tổ tiên của loài tinh tinh, một là bà
ngoại của chúng ta.
Những bí mật được giấu kín

Homo sapiens đã giữ kín một bí mật thậm chí cịn đáng lo hơn.
Chúng ta khơng chỉ có những người anh em họ man rợ mà từng có
lúc, lồi người cịn có một vài anh chị em khác. Chúng ta ln tự cho
rằng mình là những con người duy nhất, bởi vì trong 10.000 năm trở




lại đây, chúng ta đã thực sự là loài người duy nhất tồn tại. Song, ý
nghĩa thực sự của từ Con người là “một con vật thuộc chi Homo”, và
nó được dùng để chỉ nhiều loài khác thuộc chi này bên cạnh Homo
sapiens. Hơn nữa, như chúng ta sẽ thấy trong chương cuối cùng
của cuốn sách, trong tương lai không xa, chúng ta một lần nữa có
thể phải đối mặt với con người không phải sapiens. Để làm rõ điểm
này, tôi sẽ thường xuyên sử dụng thuật ngữ “Sapiens” để chỉ các
thành viên của loài Homo sapiens, trong khi dành riêng thuật ngữ
“con người” để chỉ tất cả các thành viên cịn lại của chi Homo.

Hình 2. Các họ hàng thân thuộc của chúng ta, dựa theo hình ảnh phỏng đốn được tái tạo (từ
trái sang): Homo rudoltensis (Đơng Phi); Homo erectus (Đông Á); và Homo neanderthalensis
(châu Âu và Tây Á). Tất cả họ đều là con người.

Con người bắt đầu tiến hố ở Đơng Phi khoảng 2,5 triệu năm
trước, từ một chi trước của loài vượn gọi là Australopithecus, có
nghĩa là “vượn cổ phương Nam”. Khoảng 2 triệu năm trước, một số




nam giới và nữ giới cổ đại đã rời bỏ quê hương để bắt đầu cuộc

hành trình xuyên qua và dừng lại định cư tại các khu vực Bắc Phi,
châu Âu và châu Á rộng lớn. Do môi trường sống trong các khu
rừng tuyết phủ của Bắc Âu yêu cầu những đặc tính di truyền khác
biệt so với các khu rừng nhiệt đới nóng bức của Indonesia, nên
quần thể người đã tiến hoá theo những hướng khác nhau. Kết quả
là tạo ra một số loài khác biệt, mỗi loài trong đó được các nhà khoa
học đặt cho cái tên Latin rất kêu.
Con người ở châu Âu và Tây Á đã tiến hoá thành Homo
neanderthalensis (“Người đến từ thung lũng Neander”), thường
được gọi đơn giản là “Neanderthal”. Neanderthal, đô con và lực
lưỡng hơn Sapiens chúng ta, đã thích nghi rất giỏi với khí hậu lạnh
của thời kỳ băng hà vùng Tây Á. Những khu vực xa hơn về phía
đơng của châu Á là nơi tập trung đơng đảo của nhóm Homo erectus,
“Người có dáng đứng thẳng”, sinh sống ở đó gần 2 triệu năm, là loài
người tồn tại lâu nhất từ trước tới nay. Kỷ lục này khó có thể bị phá
vỡ ngay cả với chính lồi người chúng ta. Người ta hồi nghi là liệu
Homo sapiens có cịn tồn tại trong 1.000 năm nữa kể từ bây giờ hay
không, cho nên 2 triệu năm thực sự là quá sức đối với chúng ta.
Trên đảo Java ở Indonesia, có Homo soloensis (“Người đến từ
thung lũng Solo”) sinh sống, loài người này được cho là phù hợp với
cuộc sống ở vùng nhiệt đới. Trên một hòn đảo nhỏ khác của
Indonesia là Flores, người cổ đại đã trải qua một quá trình thu nhỏ
lại. Những người đầu tiên đặt chân lên Flores khi mực nước biển
xuống thấp bất thường, và rất dễ dàng đi từ đất liền ra đảo. Khi biển




lại dâng lên, một số người bị mắc kẹt trên đảo, vốn rất nghèo tài
nguyên. Những người to lớn, cần nhiều thức ăn, chết đầu tiên.

Người nhỏ hơn dễ sống sót hơn nhiều. Trải qua nhiều thế hệ, người
dân Flores đã trở thành người lùn. Loài người độc đáo này, được
các nhà khoa học đặt tên là Homo floresiensis, đạt chiều cao tối đa
chỉ khoảng một mét và nặng không quá 25 kg. Tuy nhiên, họ có thể
chế tác các cơng cụ bằng đá, và thậm chí đơi khi vẫn có thể săn bắt
được một vài con voi trên đảo, dù rằng đây cũng là một dạng voi lùn,
cho có vẻ công bằng.
Năm 2010, một người anh em ruột thịt khác đã biến mất của lồi
người được cứu thốt khỏi sự quên lãng, khi các nhà khoa học khai
quật hang Denisova ở Siberia phát hiện ra một phần xương ngón
tay hố thạch. Phân tích gen đã cho thấy các ngón tay này thuộc về
một loài người chưa từng được biết đến trước đây, được đặt tên là
Homo denisova. Ai mà biết được còn bao nhiêu họ hàng của chúng
ta đang chờ đợi để được khám phá trong các hang động, trên các
đảo và trong những vùng khí hậu khác.
Trong khi con người đã phát triển ở châu Âu và châu Á, q trình
tiến hố ở Đơng Phi cũng diễn ra không ngừng. Cái nôi của nhân
loại tiếp tục nuôi dưỡng nhiều loài mới, chẳng hạn như Homo
rudolfensis, “Người tới từ hổ Rudolf”, Homo ergaster, “Người lao
động”, và cuối cùng là loài người chúng ta ngày nay, được chúng ta
đặt tên một cách không khiêm tốn là Homo sapiens, “Người tinh
khôn”.
Những thành viên của một số lồi kể trên có vóc dáng rất to lớn,




còn số khác lại rất nhỏ. Một số là những thợ săn đáng sợ và số khác
lại trở thành chuyên gia hái lượm. Một số nhóm chỉ sống trên một
hịn đảo duy nhất, trong khi nhiều nhóm lại chinh phục toàn bộ các

châu lục. Nhưng tất cả bọn họ đều thuộc về chi Homo. Tất cả họ
đều là con người.
Một quan niệm sai lầm phổ biến là cho rằng các loài này đã được
sắp xếp theo một đường thẳng đi lên, với việc ergaster tiến hoá
thành erectus, erectus lại tiến hố thành Neanderthal, và
Neanderthal tiến hố thành chúng ta. Mơ hình tuyến tính này tạo ra
ấn tượng nhầm lẫn rằng tại bất kỳ thời điểm nào cũng chỉ có một
lồi người trên Trái đất, và rằng tất cả các loài trước đó là những
phiên bản lỗi thời của chúng ta. Sự thật là từ khoảng 2 triệu năm
trước cho đến khoảng 10.000 năm trở lại đây, tại cùng một thời
điểm, thế giới là ngơi nhà của một số lồi người. Tại sao lại khơng?
Ngày nay có nhiều lồi cáo, gấu và lợn. Trái đất của 100 thiên niên
kỷ trước đã in dấu chân của ít nhất sáu lồi người khác nhau. Sự
độc quyền hiện tại của chúng ta, chứ không phải của đa loài trong
quá khứ là điều kỳ dị và có lẽ là tội ác. Như chúng ta sẽ sớm thấy,
Sapiens chúng ta có các lý do hợp lý để kiềm chế kí ức về những
người anh em ruột thịt của mình.
Cái giá của tư duy
Mặc dù có nhiều sự khác biệt, nhưng tất cả các loài người đều
cùng chung một số đặc tính rõ nét. Đáng chú ý nhất, con người có
bộ não cực lớn so với các lồi động vật khác. Động vật có vú nặng




60 kg có kích thước não trung bình là 200 cm³. Những nam giới và
nữ giới xuất hiện đầu tiên vào khoảng 2,5 triệu năm trước đã có bộ
não khoảng 600 cm³. Bộ não trung bình của Sapiens hiện đại có
kích thước vào khoảng 1.200-1.400 cm³. Bộ não của Neanderthal
thậm chí cịn lớn hơn.

Q trình tiến hố chọn lọc những bộ não lớn hơn với chúng ta là
điều dường như khơng cần phải bàn cãi. Chúng ta say mê trí thơng
minh bậc cao của mình đến mức cho rằng sức mạnh não bộ càng
lớn càng tốt. Nhưng nếu vậy, họ nhà mèo cũng sẽ sinh ra những
con mèo biết làm tốn. Tại sao chỉ mỗi chi Homo trong tồn bộ thế
giới động vật có được bộ óc lớn tới như vậy?
Thực tế là một bộ não khổng lồ giống như một ống cống vĩ đại
hút cạn năng lượng của cơ thể. Thật khơng dễ dàng để mang nó,
đặc biệt khi được bọc kín trong một hộp sọ lớn. Tiếp nhiên liệu cho
não cịn khó khăn hơn. Ở Homo sapiens, bộ não chiếm khoảng 23% tổng trọng lượng cơ thể, nhưng nó sử dụng tới 25% năng lượng
của cơ thể khi cơ thể ở trạng thái nghỉ ngơi. Để so sánh, bộ não của
các lồi vượn khác chỉ địi hỏi có 8% năng lượng trong thời gian
nghỉ ngơi. Người cổ đại phải trả giá cho bộ não lớn của họ theo hai
cách. Thứ nhất, họ mất nhiều thời gian hơn để tìm thức ăn. Thứ hai,
cơ bắp của họ bị teo lại. Giống như việc chính phủ hướng ngân
sách tư quốc phòng sang giáo dục, con người cũng hướng năng
lượng từ bắp tay đến tế bào thần kinh. Khó có thể khẳng định rằng
cuộc đổi chác này là một chiến lược tồn tại tốt trên đồng cỏ. Một con
tinh tinh không thể giành chiến thắng khi tranh luận với một Homo




sapiens, nhưng một con vượn có thể xé xác bạn giống như một con
búp bê vải.
Ngày nay, bộ não lớn của chúng ta là một món hời, bởi vì chúng
ta có thể sản xuất ra xe hơi và súng, những thứ cho phép chúng ta
di chuyển nhanh hơn nhiều so với tinh tinh, và bắn chúng từ một
khoảng cách an tồn thay vì đấu trực tiếp. Nhưng xe hơi và súng là
những sản phẩm hiện đại. Trong hơn 2 triệu năm, mạng lưới nơron

của con người tiếp tục phát triển khơng ngừng, nhưng ngồi một số
thứ như dao bằng đá và gậy vót nhọn, con người chẳng có gì nhiều
để khoe khoang. Vậy điều gì đã thúc đẩy sự tiến hoá của bộ não
khổng lồ của con người trong suốt 2 triệu năm đó? Thành thật mà
nói, chúng ta khơng biết.
Một điểm riêng biệt nữa của con người là chúng ta đứng thẳng
trên hai chân. Nhờ đứng lên, ta có thể rà quét các đồng cỏ để săn
bắt hoặc phát hiện kẻ thù dễ dàng hơn, và đôi tay khi khơng cịn cần
thiết cho vận động thì được tự do làm những việc khác, như ném đá
hoặc ra hiệu. Đôi bàn tay có thể làm được nhiều việc hơn thì người
chủ của chúng càng thành cơng hơn, vì vậy áp lực tiến hoá khiến
các dây thần kinh và cơ bắp tinh chỉnh tập trung ngày càng nhiều
vào lòng bàn tay và ngón tay. Kết quả là con người có thể thực hiện
các nhiệm vụ rất phức tạp với đôi bàn tay của mình. Đặc biệt, họ có
thể chế tác và sử dụng các công cụ tinh vi. Bằng chứng đầu tiên về
việc này xuất hiện vào khoảng 2,5 triệu năm trước, và đây là những
tiêu chí mà các nhà khảo cổ nhận biết được về sự tồn tại của con
người cổ đại.




Song, đi thẳng có nhược điểm của nó. Tổ tiên lồi linh trưởng
của chúng ta có bộ xương phát triển trong hàng triệu năm giúp họ đi
bằng bốn chân và có một cái đầu tương đối nhỏ. Khi điều chỉnh
sang dáng đứng thẳng là một thách thức khá lớn, đặc biệt khi bộ
khung xương phải hỗ trợ một hộp sọ cực lớn. Lồi người đã phải trả
giá cho việc có được tầm nhìn cao và bàn tay khéo léo bằng các
bệnh đau lưng và vơi hố đốt sống cổ.
Phụ nữ còn phải trả giá đắt hơn. Dáng đi thẳng làm cho hông hẹp

lại, chèn ép đường sinh – và điều này xảy ra khi mà đầu của trẻ sơ
sinh ngày càng trở nên lớn hơn. Chết khi sinh nở đã trở thành một
mối nguy hiểm lớn đối với phụ nữ. Những phụ nữ sinh non, khi não
và đầu của trẻ sơ sinh vẫn cịn tương đối nhỏ và mềm, thì có sức
khỏe tốt hơn và cơ hội sống sót để có thêm con. Chọn lọc tự nhiên
do đó ủng hộ việc sinh non. Và quả thực so với các động vật khác,
con người được sinh sớm, khi nhiều bộ phận quan trọng vẫn còn
chưa phát triển. Một con ngựa con có thể đứng dậy ngay sau khi
được sinh ra; một con mèo con có thể tự kiếm ăn khi chỉ mới một vài
tuần tuổi. Còn những đứa trẻ sơ sinh thì bất lực, phụ thuộc nhiều
năm vào bố mẹ để nhận sự nuôi dưỡng, bảo vệ và giáo dục.
Thực tế này đã đóng góp rất nhiều cho các năng lực mang tính
xã hội kỳ diệu của lồi người và các vấn đề xã hội chỉ mình nó có.
Một bà mẹ đơn độc khó có thể kiếm đủ thức ăn cho mình và con cái
khi chúng đang cần được chăm bẵm. Ni con địi hỏi sự giúp đỡ
liên tục từ các thành viên khác trong gia đình và hàng xóm. Cả một
bộ tộc phải cùng chung sức nuôi dưỡng một con người. Do đó, tiến




hố ủng hộ những ai có thể hình thành các mối quan hệ xã hội chặt
chẽ. Ngoài ra, do con người được sinh ra khi chưa phát triển hoàn
thiện, nên họ có thể được giáo dục và xã hội hố ở một mức độ lớn
hơn nhiều so với bất kỳ động vật nào. Hầu hết bào thai của động vật
có vú giống như đất nung đã tráng men trong lò, mọi nỗ lực ép vào
khuôn sẽ làm xước hoặc phá hỏng chúng. Cịn bào thai người giống
như thủy tinh nóng chảy trong lị. Có thể xe chúng thành sợi, kéo dài
và định hình dễ dàng đến ngạc nhiên. Đó là lý do mà hơm nay chúng
ta có thể giáo dục con cái trở thành một tín đồ Ki-tơ hay Phật giáo,

theo tư bản hay chủ nghĩa xã hội, hiếu chiến hay u hịa bình.
*
Chúng ta giả định rằng với một bộ não lớn, khả năng sử dụng
công cụ, học tập đỉnh cao và hình thành các cấu trúc xã hội phức
tạp là những lợi thế to lớn. Dường như hiển nhiên là những đặc
điểm kể trên đã góp phần tạo nên lồi động vật có sức mạnh nhất
trên Trái đất. Nhưng dù con người được hưởng tất cả những lợi thế
đó trong 2 triệu năm, trong khoảng thời gian đó họ vẫn là sinh vật
yếu đuối và ngồi rìa. Như vậy, dù có bộ não lớn và các cơng cụ
bằng đá sắc nhọn, nhưng con người cách đây 1 triệu năm luôn sống
trong sợ hãi bởi những kẻ săn mồi, hiếm khi săn bắt lớn, và sống
đơn độc chủ yếu bằng cách hái lượm cây cỏ, thu vét côn trùng, rình
rập động vật nhỏ, và ăn thịt thối rữa do các động vật ăn thịt mạnh
mẽ khác để lại.
Một trong những tác dụng phổ biến nhất của các công cụ bằng
đá thời kỳ đầu là để đập vỡ xương và lấy tủy. Một số nhà nghiên




cứu tin rằng đây là ưu thế ban đầu của chúng ta. Cũng như chim gõ
kiến chuyên moi côn trùng từ các thân cây, những con người đầu
tiên chuyên hút tủy từ xương. Tại sao lại là tủy? Vâng, giả sử bạn
quan sát những con sư tử đầy kiêu hãnh hạ gục và ngấu nghiến một
con hươu cao cổ. Bạn kiên nhẫn chờ đợi cho đến khi chúng dùng
xong bữa. Nhưng vẫn chưa tới lượt bạn đâu, vì đầu tiên sẽ có các
con linh cẩu và chó rừng tới nhặt nhạnh thức ăn thừa, và bạn không
dám cạnh tranh với chúng. Chỉ sau khi chúng bỏ đi, bạn cùng cả
nhóm mới dám tiếp cận những gì cịn sót lại, thận trọng nhìn xung
quanh và moi móc những mẩu cịn ăn được.

Đây chính là chìa khố để hiểu được lịch sử và tâm lý của chúng
ta. Vị trí của chi Homo trong chuỗi thức ăn, cho đến gần đây vẫn trụ
vững ở giữa. Trong hàng triệu năm, con người săn bắt những sinh
vật nhỏ hơn và thu thập tất cả những gì họ có thể, trong khi ln bị
săn đuổi bởi những kẻ săn mồi lớn hơn. Chỉ 400.000 năm trước đây,
loài người mới bắt đầu săn thú lớn một cách thường xuyên, và chỉ
trong 100.000 năm vừa qua – với sự gia tăng của Homo sapiens –
con người mới nhảy lên đứng đầu chuỗi thức ăn.
Bước nhảy vọt ngoạn mục từ vị trí giữa lên đầu chuỗi thức ăn
mang đến những hệ quả to lớn. Các động vật ở đỉnh kim tự tháp,
như sư tử và cá mập, đạt được vị trí đó rất từ từ qua hàng triệu
năm. Điều này cho phép các hệ sinh thái có thể phát triển một cơ
chế tự kiểm soát và cân bằng để ngăn chặn sư tử và cá mập không
gây ra thiệt hại quá lớn. Khi sư tử trở nên hung dữ hơn, thì linh
dương cũng tiến hố để chạy nhanh hơn, linh cẩu hợp tác tốt hơn,




×