TÌM HIỂU THÊM VỀ LỄ HỘI OK- OM- BOK CỦA NGƯỜI
KHMER NAM BỘ
04/11/2011 13:31 | 208 lượt xem
Thả đèn gió trong đêm lẽ hội Ok - om - bok
TÌM HIỂU THÊM VỀ LỄ HỘI OK- OM- BOK
CỦA NGƯỜI KHMER NAM BỘ
Mỗi năm chỉ có một lần, vào ngày 14 và 15 tháng 10 âm lịch,
người Khmer ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long lại mở hội Ok-
om- bok (còn gọi là lễ Cúng trăng) ở các chùa, phum, sóc, và tổ chức
đua ghe ngo, thả đèn gió, đèn nước rất vui. Ở Nam Bộ có khoảng 1,4
triệu người dân tộc Khmer sinh sống. Trong đó 3 tỉnh có đồng bào
Khmer đông nhất là Trà Vinh, Sóc Trăng, Hậu Giang. Lễ hội Ok-om-
bok nhằm tôn thờ nữ thần Mặt trăng, giúp con người có mùa màng
tươi tốt, khí hậu mát mẻ, sông rạch nhiều tôm cá, người người khỏe
mạnh, nhà nhà êm ấm hạnh phúc, mọi sự cầu được ước thấy, quốc
thái dân an…
Lễ cúng Trăng:
Đúng đêm rằm 15 tháng 10 (có nơi cúng đêm 14) lễ cúng trăng được
tiến hành rất trang trọng trong các khuôn viên nhà chùa hay trước sân
nhà, hoặc nơi rộng rãi có thể trông rõ mặt trăng nhất. Người ta đào lỗ cắm
hai cây trụ có đà ngang làm cổng, trang trí bằng hoa lá rất đẹp. Bên dưới
bày bàn lễ vật để cúng gồm: cốm dẹp, trái cây như dừa, khóm (dứa),
bưởi, cam, khoai lang, khoai môn, khoai mì (sắn) cùng nhiều bánh kẹo tự
sản xuất…
Theo tín ngưỡng của người Khmer, Mặt trăng là vị thần cai quản thời
tiết và mùa màng trong năm. Lúc thần Mặt trăng lên cao, dâng cúng các
sản vật của mùa màng trong năm vừa thu hoạch, cầu mong thần Mặt
trăng cho năm sau được mưa thuận gió hòa, cây cối tốt tươi.
Mọi người ngồi trang nghiêm ngắm trăng và cầu nguyện. Tới khi trăng
lên cao, tròn và sáng đẹp nhất thì mới đốt nhang, đèn cầy, rót trà, rượu
mời chủ lễ (thường gọi là lục cả, tức sư trụ trì ở chùa) hoặc có khi mời một
cụ lão có uy tín thay mặt cho mọi người đứng cúng. Chủ lễ khấn vái, tỏ
lòng biết ơn thần mặt trăng đã phù hộ cho mọi người khỏe mạnh, mùa
màng trúng vụ, mưa thuận gió hoà, không có tật bệnh, không còn giặc dã.
Cúng xong, chủ lễ gọi một đứa trẻ vào (thường là con trai đẹp và khoẻ
mạnh) để đút cốm dẹp vào miệng, và vuốt lưng, hỏi nó muốn gì? Căn cứ
câu trả lời của đứa trẻ, chủ lễ đoán vận “hên” “xui” của dân làng trong năm
đó. Do vậy, lễ cúng Trăngcòn gọi là lễ đút cốm dẹp. Vì đây là nghi lễ
quan trọng nhất. Xong lễ người ta quây quần ăn uống, nhảy múa, hò hát
thâu đêm suốt sáng, như: hát du-kê, hát rô-băm, hát à-day, múa lăm-thol.
Hoặc tổ chức thi kéo co, đấu võ, đấu cờ ốc, đi cà kheo, nhảy bao bố, biểu
diễn trang phục dân tộc giữa các phum sóc. Tiếng trống xa-dăm, tiếng
chiêng, thanh la não bạt vang vọng cả một vùng trời đất, sông nước.
Thả đèn gió :
Khi lễ cúng Trăng xong là hội thả đèn gió (còn gọi thả đèn trời). Đèn
gió được làm từ tre, giấy quyến và dây kẽm, gồm 2 loại đèn: vuông và
tròn, đèn tròn thông dụng hơn. Người ta dùngnhững nan tre chuốt nhẵn
làm thành những vòng tròn có đường kính chừng 1m. Liên kết những nan
tròn ấy lại thành khối trụ có chiều cao chừng 2m, tất cả đều được dán kín
bằng giấy quyến, đáy đèn để trống và gắn vào đó những dây kẽm lớn phủ
lớp gòn, tẩm ướt bằng dầu phộng hoặc dầu lửa. Gòn được đốt cháy, nhiều
người nâng đèn lên cao, sức nóng làm giấy căng phồng, người nâng đèn
nương tay theo và cùng buông tay khi lực đẩy không khí nóng trong đèn
đủ sức thì nâng đèn bay lên, mà không chao nghiêng dễ gây cháy.
Đèn bay lên cao, tiếng reo hò vỗ tay của người xem rộ lên, tiếng nhạc
trổi dậy làm vỡ òa cả màn đêm buông xuống. Hàng chục chiếc đèn được
thả lên bầu trời, đung đưa theo gió, sáng lấp lóa thật đẹp. Người ta tin
rằng những chiếc đèn sẽ mang đi những tai ương, rủi ro bất trắc để phum
sóc yên bình. Đèn mang theo lời khấn nguyện của người dân tới thần mặt
trăng. Đèn tượng trưng cho những ước vọng, niềm tin của con người gửi
tới thần mặt trăng và họ luôn nghĩ thần đang nhìn mình, ủng hộ mình. Khi
nào lửa tắt thì đèn mới rớt.
Ngoài đèn gió còn có đèn nước, đáy làm bằng thân cây chuối hoặc
tre. Trên cắm cờ phướn, đèn cầy, hoa lá và bày cốm dẹp, trái cây, bánh
kẹo, khoai, muối. Mọi người đốt đèn, khấn vái, đọc kinh rì rầm rồi thả đèn
xuống sông cho trôi theo dòng nước, hoặc bập bềnh trên ao, cầu mong
thần nước giúp cho mọi người gặp được nhiều điều tốt lành trong năm.
Nhiều đôi tình nhân rủ nhau làm những chiếc đèn nhỏ xinh xinh thả trên
sông nước, mong cho tình duyên lứa đôi được bền chặt mãi mãi và sớm
có con cháu.
Đua ghe Ngo:
Hàng năm cứ vào cuối tháng 10 âm lịch, là các phum sóc của đồng
bào Khmer lại rộn rã hẳn lên. Người ta tu chỉnh lại chùa chiền, tượng Phật,
sơn phết lại ghe, và làm đèn gió, đèn nước để chuẩn bị cho lễ hội Ok-om-
bok. Lễ hội thường được bắt đầu bằng cuộc đua ghe Ngo (Um-Tuk-Ngua)
diễn ra vào khoảng 12 giờ trưa trên sông Long Bình ở Trà Vinh, sông
Sung Đinh (Maspero) ở Sóc Trăng, hay trên sông Xà No, đoạn chảy qua
Thị xã Vị Thanh (Hậu Giang), hoặc sông Cái Lớn ở Gò Quao (Kiên Giang)
…
Ghe Ngo (tiếng Khmer là Tuk-ngo), mỗi địa phương đầu tư mỗi năm từ
20 đến 80 triệu đồng (kể cả một phần kinh phí nhà nước hỗ trợ) để đóng
mới, tu sửa và bồi dưỡng đội đua. Ghe được làm bằng loại gỗ cây “sao”
rất cứng và dẻo, chịu nước tốt. Chiếc ghe dài hơn chục mét được khoét từ
thân cây “sao” bự, nó giống như thuyền độc mộc của người Kinh, và được
trang trí rất cầu kỳ, đẹp mắt từ đầu đến mũi lái ghe. Đầu mũi ghe được vẽ
những hình linh thiêng như: rồng, sư tử, rắn thần, ó biển, đại bàng, và
chạy dọc theo thân là những hoa văn mang hoạ tiết, màu sắc dân tộc
Khmer, thường vẽ bằng màu gốc (màu nóng). Ở mũi ghe là hình con rồng,
con rắn uốn lượn chồm về phía trước, sẵn sáng phóng tới. Trước mũi ghe
đôi khi có một cây lộng nhỏ sặc sỡ che cho một tượng Phật nhỏ uy
nghiêm. Người chỉ huy (còn gọi là người cầm “trịch” hay đội trưởng) đầu
đội khăn đỏ, tay cầm cái dầm ngồi trước mũi ghe múa may, la hét điều
khiển. Giữa ghe có một người cầm một caí chiêng nhỏ đánh nhịp và một
người hoá trang tay hề chọc cho các tay chèo cười vui. Cuối nghe là
người cầm lái giỏi, đã có nhiều kinh nghiệm. Các tay chèo là những thanh
niên khoẻ mạnh, mặc đồng phục, ngồi thành hai dãy song song trong tư
thế chèo. Tất cả đều phối hợp nhịp nhàng, đồng loạt để tạo nên sức mạnh.
Mũi và lái ghe có treo cờ phướn, cắm bùa, cắm nhang để cúng cô hồn
trước khi tranh tài. Mỗi ghe đua có thể chứa được một đội từ 40 đến 60
người.
Khi tiếng trống của trọng tài báo hiệu cuộc đua bắt đầu, các đội đưa
ghe vào vị trí có xuất phát. Đường đua dài chừng 3 km tính tới vạch phao
quy định. Khi ghe tới vạch phao rồi, liền quay ngay lại, phóng về điểm xuất
phát ban đầu. Khi trọng tài phất cờ, các ghe bắt đầu tranh tài. Hai hàng tay
chèo trên ghe chèo rất điêụ nghệ, nhịp nhàng theo tiếng người cầm “trịch”.
Cứ thế tốc độ tăng dần theo tiếng hô “Muôn ơi muôn” (có nghĩa là “Một ơi
một”) của người đội trưởng. Hai bên bờ, người coi đứng đông nghịt hò la,
đập trống, chiêng, đập thùng hay một vật liệu gì có thể phát ra âm thanh
để cổ vũ. Người hò cứ hò, người coi cứ hét, không khí như sôi lên cho tới
khi kết thúc cuộc thi. Tỉnh Sóc Trăng là nơi có nhiều ghe đua đẹp nhất, có
gần 40 đội đua của 92 chùa và phum sóc thường xuyên luyện tập, và
nhiều năm dẫn đầu các cuộc đua ghe Ngo ở khu vực Đồng bằng sông
Cửu Long.
Ngoài cuộc đua chính diễn ra ở lễ hội Ok-om-bok, đua ghe Ngo còn
được tổ chức vào một số ngày lễ lớn như ngày quốc khánh 2- 9, ngày giải
phóng miền Nam 30- 4. Đua ghe Ngo của đồng bào Khmer Nam Bộ là
một môn thể thao có nhiều ý nghĩa văn hoá, tâm linh. Nó trở thành nét đẹp
truyền thông không những của đồng bào Khmer Nam Bộ mà còn của các
dân tộc khác như Kinh, Hoa, Chăm cộng cư ở vùng sông nước này.
Bên cạnh việc vui chơi trong những ngày lễ hội, nhiều đơn vị kinh
doanh còn tổ chức bán hàng khuyến mãi phục vụ bà con các dân
tộc.Ngoài racòn có nhiều hoạt động phục vụ đồng bào Khmer, như: Triển
lãm chuyên đề tranh ảnh nghệ thuật về phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội
của đồng bào Khmer tại Bảo tàng tỉnh; triển lãm hình ảnh các dân tộc thiểu
số Việt Nam và thành tựu kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh, tổ chức Hội
diễn nghệ thuật quần chúng và trình diễn trang phục của người Khmer.
Riêng ở Sóc Trăng, theo nguyện vọng của đồng bào Khmer, lễ hội Ok-
om-bóc sẽ được nâng cấp thành Festival Ok-om-bok. Xong những ngày lễ
hội, đồng bào Khmer lại lao vào sản xuất để chuẩn bị đón tết Nguyên Đán
cùng đồng bào Kinh, và chuẩn bị cho tết Chon-chnam-thmay là tết lớn
nhất trong năm của người Khmer ở Nam Bộ.
LÊ
XUÂN