Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

(Tiểu luận) môn tư tưởng hồ chí minh đề tài tìm hiểu về mô hình cnxh và sự sụp đổ cnxh của liên xô và đông âu từ đó rút ra bài học kinh nghiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436.93 KB, 27 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
--o0o--

BÀI TẬP LỚN
MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài: Tìm hiểu về mơ hình CNXH và sự sụp đổ CNXH của Liên Xô và
Đông Âu. Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm.

Họ và tên: Phạm Hồng Anh
Mã sinh viên: 11210688
Lớp học phần : TTHCM (44)
GV hướng dẫn: TS. Lê Thị Hoa

Hà Nội, tháng 9 năm 2022

c


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 2
NỘI DUNG ......................................................................................................... 3
I. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC Ở LIÊN XÔ..................................... 3
1.1. Sự ra đời của hệ thống các nước Xã hội chủ nghĩa (XHCN) ............ 3
1.2. Các giai đoạn phát triển của hệ thống XHCN.................................... 4
1.3. Những thành tựu của CNXH hiện thực............................................. 6
II. SỰ SỤP ĐỔ CỦA MƠ HÌNH CNXH XƠVIẾT VÀ NGUYÊN NHÂN
CỦA NÓ .......................................................................................................... 8
2.1. Sự khủng hoảng và sụp đổ của mơ hình CNXH Xơ Viết .................. 9
2.2. Ngun nhân dẫn đến sự khủng hoảng và sụp đổ của mơ hình CNXH
Xơ Viết .................................................................................................... 11


III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ SỰ TAN RÃ CỦA CNXH LIÊN XÔ . 21
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 26

1

c


(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

MỞ ĐẦU
Một trong những vấn để khó khăn và phức tạp nhất của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội (CNXH) chính là việc xác định được mơ hình của một chế độ xã hội mới. Đây
là một trong những định hướng hết sức quan trọng, giúp cho các Đảng Cộng sản để ra con
đường đúng, bước đi phù hợp, tránh những sai lầm, khuyết điểm không đảng cỏ. Điều này
được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã từng chỉ rõ. Ngay trước cách mạng
Tháng Mười, Lênin viết: “Chúng ta không kỳ vọng rằng Mức hay những người theo chủ
nghĩa Mác đều hiểu biết mọi mặt cụ thể của con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Như thế
sẽ là phi lý. Chúng ta chỉ biết phương hưởng của con đường đỏ và những lực lượng giai
cấp nào dẫn đến con đường đỏ; còn như về cụ thể và trên thực tế con đường đó ra sao, thì
kinh nghiệm của hàng triệu con người sẽ chỉ rõ, khi họ bắt tay vào hành động.”
Thực tiễn quá trình xây dựng mơ hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông
Âu qua hơn 70 năm tồn tại, tuy mới trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển, nhưng
những thành tựu mà nó mang lại khơng thể nào phủ nhận được; cả về chính trị, kinh tế, xã
hội, quân sự và khoa học kỹ thuật.... Từ một nước kinh tế kém phát triển, sau một thời gian
ngắn Liên Xô đã trở thành một cưởng quốc kinh tế, quân sự; đủ tiềm lực đánh bại chủ
nghĩa phát xít, cứu lồi người thốt khỏi thảm hoạ nơ dịch, tạo điều kiện cho sự ra đời của
hàng loạt nước xã hội chủ nghĩa... Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng đã mắc phải những
sai lầm chủ quan, duy ý chỉ kéo dài dẫn đến sự sụp đổ mô hình CNXH hiện thực ở Liên

Xơ và Đơng Âu. Bên cạnh đó, trước sự điều chỉnh, thích nghi, phát triển của CNTB hiện
đại và căn cứ vào những hạn chế, hiện tượng tiêu cực cịn tồn đọng trong q trình đổi mới,
phát triển nền kinh tế thị trưởng định hướng XHCN của thời kì quá độ lên CNXH, một số
người tỏ ra bi quan, dao động, nghi ngờ tính đúng đắn của CNXH. Các thế lực thủ địch lợi
dụng, ra sức chống phả CNXH cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Chúng cho rằng
Việt Nam ta đã chọn sai đường, “cần gì phải đi con đường XHCN, chủ nghĩa nào cũng
được, miễn là cuộc sống no đủ", được giàu có và tự do, “Liên Xơ hùng mạnh thể mà cịn
thất bại, Việt Nam liệu có xây dựng được CNXH khơng?”, rằng Việt Nam ta “miệng nói
CNXH nhưng thực ra đang phát triển CNTB”, “đỏ vỏ xanh lòng”. ... Vì vậy, nghiên cứu
làm rõ những nguyên nhân, những bài học kinh nghiệm rút ra từ sự sụp đổ mô hình CNH
hiện thực ở Liên Xơ và Đơng Âu cũng như làm sáng tỏ sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta
về xác định mơ hình xây dựng CNXH là vấn đề có ý nghĩa to lớn cả lý luận và thực tiễn
đối với sự nghiệp cách mạng nước ta hiện nay.
(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

c


(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

NỘI DUNG
I. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC Ở LIÊN XÔ
1.1. Sự ra đời của hệ thống các nước Xã hội chủ nghĩa (XHCN)
Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Đảng Cộng Sản ở nhiều nước châu Âu và châu Á
đã lãnh đạo quần chúng nhân dân cùng với Hồng qn Liên Xơ thành lập mặt trận chống
phát xít. Chính sự lớn mạnh của Đảng Cộng Sản trong thời kì chiến tranh là cơ sở để khi
chủ nghĩa phát xít bị đánh bại, Đảng Cộng Sản nhiều nước tổ chức đấu tranh vũ trang
giành chính quyền, thành lập nhà nước dân chủ nhân dân. Trong thời gian 5 năm (từ năm
1944 đến năm 1949) đã có 11 nước ở châu Âu, châu Á giành được chính quyền và đi lên
CNXH. Có được thành tựu này là nhờ Đảng Cộng sản lãnh đạo bằng ba phương thức:


- Phương thức thứ nhất chủ yếu dựa vào lực lượng vũ trang của nhân dân nước mình,
xây dựng các căn cứ địa cách mạng, khi thời cơ đến đã lãnh đạo nhân dân đứng lên
giành chính quyền như: Cộng hịa Nhân dân Liên bang Nam Tư (1944), Nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa (1945), Cộng hòa Nhân dân Anbani (1946) và Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa (1949).

- Phương thức thứ hai chủ yếu dựa vào Hồng qn Liên Xơ giải phóng đồng thời phối
hợp vũ trang của nhân dân nước mình như Cộng hịa Nhân dân Ba
Lan (1945), Bungari (19460, Rummani (1948), Hunggari và Tiệp Khắc
(1946),…

- Phương thức thứ ba hoàn toàn do Hồng qn Liên Xơ giải phóng và dưới sự giúp
đỡ của Liên Xô để đi lên con đường CNXH như Cộng hòa Dân chủ Đức (10/1949).
Vậy là sau chiến tranh thế giới thứ hai, CNXH từ một nước mở rộng ra nhiều nước ở
châu Âu và châu Á. Với thắng lợi của cách mạng dân chủ ở Cuba năm 1959, phong trào
26 tháng 7 do Fidel Castro lãnh đạo, nước Cộng hòa Cuba chuyển sang CNXH. Như vậy
CNXH đã mở rộng đến Châu Mỹ Latin. Những nước này về hình thái đều lấy chủ nghĩa
Mác – Lênin làm tư tưởng chỉ đạo. Về chính trị hình thành phe CNXH do Liên Xơ đứng
đầu, về qn sự ở châu Âu hình thành tổ chức thông qua Hiệp ước Warszawa. Về quan hệ
kinh tế, đó là những nước có chung một kiểu cơ sở kinh tế - xã hội, quyền sở hữu về tư
liệu sản xuất và thông qua các hiệp ước song phương, Hội đồng tương trợ kinh tế để giúp

(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

c


(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem


đỡ lẫn nhau xây dựng cộng đồng thị trường thế giới XHCN. CNXH trở thành hệ thống
tồn tại song song với hệ thống TBCN.
Năm 1960, tại Moskva, Hội nghị 81 Đảng Cộng sản và công nhân của các nước trên
thế giới đã tuyên bố và khẳng định: “Đặc điểm chủ yếu của thời đại chúng ta là hệ thống
XHCN thế giới đang trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội loài người”.
1.2. Các giai đoạn phát triển của hệ thống XHCN
Cách mạng tháng 10 Nga đã mở đầu thời đại mới - thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH
trên phạm vi toàn thế giới, thời đại đấu tranh cho hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
CNXH, là thời đại đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học và công nghệ nhằm chuẩn bị
những tiền đề vật chất chín muồi cho sự xuất hiện CNXH.
Vladimir Ilyich Lenin (Lênin) khẳng định, tính phức tạp trong sự vận động của lịch
sử nhân loại, song có thể chia thời đại từ Cách mạng Tháng Mười tới nay thành 4 giai
đoạn:
Giai đoạn I: Từ sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917 tới kết thúc Chiến tranh thế
giới lần thứ hai năm 1945 (Giai đoạn này là giai đoạn CNXH mới hình thành trên
phạm vi một số nước như Liên Xô, Mông Cổ …).
Cuộc Cách mạng Tháng Mười là cuộc cách mạng đầu tiên trong lịch sử đưa nhân dân
lao động từ những người nô lệ làm thuê trở thành những người làm chủ đất nước. Với
khí thế lao động của những con người được giải phóng, thơng qua chính sách kinh tế
mới, thơng qua con đường hợp tác hố trong nơng nghiệp, cơng nghiệp hố đất nước,
sau 20 năm Liên Xô đã tạo ra sự phát triển mạnh mẽ trong nền kinh tế.
Giai đoạn II: Từ sau năm 1945 tới đầu những năm 1970 (Đây là giai đoạn CNXH
phát triển thành hệ thống XHCN thế giới).
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, hàng loạt các nước XHCN ra đời, nhất là từ sau
khi nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa xuất hiện, cùng với những thành tựu to lớn
của hệ thống các nước XHCN về kinh tế, xã hội, văn hoá, khoa học kỹ thuật … Hệ
thống XHCN thế giới đã trở thành chỗ dựa vững chắc cho phong trào đấu tranh vì hồ
bình, tiến bộ trên thế giới, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh của những thế lực phản động
quốc tế.


(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

c


(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

Mặt khác, những thành tựu xây dựng CNXH của các nước XHCN đã cổ vũ mạnh mẽ
phong trào đấu tranh vì dân sinh, dân chủ, tiến bộ xã hội trong các nước TBCN, đã
động viên nhân dân các nước thuộc địa đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc. Trong
những năm 60 thế kỷ XX, khoảng 100 quốc gia giành được độc lập dân tộc với những
mức độ khác nhau.
Bên cạnh những kết quả đó, trong giai đoạn này, trong phong trào cộng sản và cơng
nhân quốc tế đã có những bất hồ. Trong “Di chúc” chủ tịch Hồ Chí Minh, phần về
phong trào cộng sản thế giới, Người viết: “… tôi càng tự hào với sự lớn mạnh của
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu thì tơi càng đau lịng bấy nhiêu
vì sự bất hồ hiện nay giữa các Đảng anh em…”. Đây là giai đoạn cơ bản nhất biểu
hiện tính ưu việt của CNXH hiện thực. CNXH hiện thực trở thành hệ thống trên
phạm vi toàn thế giới và đạt nhiều thành tựu rực rỡ mang lại hịa bình độc lập dân tộc,
tiến bộ xã hội.
Giai đoạn III: Từ cuối những năm 1970 đến cuối những năm 1991 (Đây là giai đoạn
khủng hoảng của mơ hình CNXH).
Ngun nhân: Trong giai đoạn này, ở nhiều nước XHCN không chú ý tới công tác
xây dựng Đảng, nhiều kẻ cơ hội chui vào hàng ngũ cộng sản. Một số cá nhân mắc vào
tệ sùng bái cá nhân, kiêu ngạo cộng sản, không đánh giá đúng những thay đổi trong
chính sách của CNTB. Ở khơng ít nước XHCN, bộ máy nhà nước trở nên quan liêu,
vi phạm những quyền dân chủ của nhân dân. Trong xây dựng kinh tế chủ quan, nóng
vội, lạc hậu. Trong lĩnh vực xã hội, thực hiện bao cấp tràn lan, khơng kích thích được
tính tích cực cá nhân.
Những sai lầm kéo dài đã hạn chế phát triển kinh tế - xã hội, dẫn tới tình trạng khủng

hoảng kinh tế - xã hội ở nhiều nước, buộc các nước phải cải cách đổi mới.
Trong quá trình cải cách đổi mới, nhiều Đảng Cộng Sản mắc những sai lầm mang tính
nguyên tắc. Do vậy những thế lực thù địch đã tấn công làm sụp đổ chế độ XHCN ở
Đông Âu và Liên Xô những năm 80 của thế kỷ XX.
Giai đoạn IV: Giai đoạn từ đầu những năm 1991 tới nay (Giai đoạn hiện nay, CNXH
thế giới tạm thời lâm vào thoái trào).

(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

c


(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

Sự sụp đổ của chế độ XHCN ở các nước Đông Âu và Liên Xô đã làm cho nhiều nước
dân tộc chủ nghĩa đã định hướng lên CNXH, nhưng giờ đây mất chỗ dựa về vật chất
và tinh thần, các lực lượng phản động giành lại chính quyền và đưa đất nước theo
con đường khác.
Khó khăn hiện nay là: Những thế lực phản động quốc tế đang tìm mọi cách để xoá bỏ
chủ nghĩa Mác – Lênin và phá hoại sự nghiệp xây dựng CNXH của các nước XHCN
còn lại
Để vượt qua khó khăn đó, địi hỏi các nước XHCN phải tự đổi mới, phải khắc phục
những yếu kém, nhược điểm hạn chế trong lĩnh vực đời sống xã hội. Mặt khác, không
ngừng nâng cao năng suất lao động, cải thiện đời sống nhân dân, để nâng cao sức
mạnh mọi mặt của đất nước.
Thời đại ngày nay: “CNXH trên thế giới, từ những bài học thành công và thất bại
cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiên và khả năng tạo
ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, lồi người nhất định sẽ tiến
tới CNXH” (Trích Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX).
1.3. Những thành tựu của CNXH hiện thực

Khi bắt đầu sự nghiệp cải tạo và xây dựng CNXH, các nước XHCN có những đặc
điểm khác nhau nhưng điểm chung nổi bật đều từ điểm xuất phát thấp về kinh tế - xã hội,
nhiều nước đi lên CNXH từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu. Ở Châu Âu, tuy kinh tế
tư bản chủ nghĩa (TBCN) đã phát triển ở trình độ nhất định nhưng giai cấp tư sản trước
đó cũng chưa tạo được một nền cơng nghiệp tương đối hồn chỉnh. Ở châu Á, các nước
đi lên CNXH như Việt Nam, Trung Quốc, Triều Tiên, Mông Cổ đều là những nước lạc
hậu từ sản xuất nhỏ, chưa qua TBCN đi lên CNXH. Hơn nữa các nước đi lên CNXH đều
phải trải qua những cuộc chiến tranh kéo dài, đất nước bị tàn phá nặng nề. Có thấy hết
những khó khăn khi bắt tay vào thực hiện những nhiệm vụ chưa từng có tiền lệ trong lịch
sử mới thấy được những thành tựu trong quá trình xây dựng CNXH mà các nước tạo ra.
Không thể phủ nhận được sự thật là Liên Xơ và các nước XHCN khác đã có một thời kì
phát triển rực rỡ và đạt được những thành tựu to lớn sau đây:

- Chế độ XHCN đã từng bước đưa nhân dân lao động lên làm chủ xã hội, xố bỏ chế
độ người bóc lột người, đưa nhân dân lao động lên làm chủ đất nước, quản lý xã hội.
(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

c


(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

Chính vì lẽ đó, Hồ Chí Minh đã từng khẳng định nước Nga có chuyện lạ đời, đem
người nơ lệ thành người tự do. Đi cùng với việc xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp,
CNXH còn thiết lập một quan hệ quốc tế bình đẳng giữa các quốc gia, dân tộc. Điều
này, hoàn toàn xa lạ với việc dân tộc này áp bức, bóc lột dân tộc khác như trước đây.
CNXH ra đời đã xây dựng một mối quan hệ quốc tế hoàn toàn mới, tốt đẹp, tạo điều
kiện cho các quốc gia, dân tộc giúp đỡ lẫn nhau để cùng phát triển. Chế độ XHCN
không chỉ đảm bảo quyền làm chủ trên thực tế của nhân dân lao động ở các nước
XHCN, mà hơn thế nữa nó còn thúc đẩy trào lưu đấu tranh cho quyền tự do dân chủ

ở các nước TBCN và trên toàn thế giới.

- Bên cạnh đó, trong khoảng giữa những năm 50 và 60 của thế kỉ XX mặc dù phải trải
qua chiến tranh thế giới thứ II, chịu hậu quả nặng nề nhưng các nước XHCN nhờ bản
chất chế độ xã hội tốt đẹp lại động viên được tinh thần hăng say của nhân dân lao
động nên đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên lĩnh vực kinh tế. Trong vịng 20 năm
đó tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước XHCN đạt được mức trung bình trên
7%/năm. Trong khoảng 30 năm gần đây, Trung Quốc luôn giữ được tốc độ tăng
trưởng kinh tế xấp xỉ 9%/năm (Năm 1993 đạt 13.4%), Việt Nam được xem là nước
phát triển cao thứ hai Châu Á (sau Trung Quốc) đã gần 20 năm nay giữ tốc độ tăng
trưởng xấp xỉ 8%/năm. Không những trên lĩnh vực kinh tế mà ở lĩnh vực văn hố,
khoa học cơng nghệ, các nước XHCN cũng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn đáng
tự hào. Trước khi cách mạng XHCN thành cơng thì hầu hết các nước này trình độ học
vấn của nhân dân cịn rất thấp kém, số người mù chữ chiếm tỷ lệ lớn (nước Nga trước
Cách mạng Tháng Mười có đến trên 75% số người mù chữ) thế mà sau một thời gian
xây dựng CNXH trình độ học vấn của người dân các nước XHCN tương đối cao và
đồng đều (năm 1987 Liên Xơ có 154 triệu người có trình độ học vấn từ trung học phổ
thông trở nên). Trong lĩnh vực khoa học công nghệ Liên Xô và một số nước XHCN
cũng đạt được một số thành tựu đáng trân trọng. Ở giai đoạn đầu Liên Xô luôn là nước
đi đầu trong việc nghiên cứu, chinh phục vũ trụ. Năm 1957 Liên Xơ phóng thành cơng
Vệ tinh nhân tạo, năm 1961 có người bay vào vũ trụ trên tàu Phương Đông I. Một sự
kiện đáng ghi nhớ vào ngày 04/3/1961 lần đầu tiên trên thế giới Liên Xô đã dùng tên
lửa V1000 bắn trúng tên lửa ở tầng bình lưu. Điều đó chứng tỏ kỹ thuật máy tính của
Liên Xơ lúc đó rất khá. Sự kiện này phải mất mấy chục năm sau Mỹ mới đạt được.

(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

c



(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

- Với sự lớn mạnh tồn diện, CNXH có ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống chính trị thế
giới, đóng vai trò quyết định đối với sự sụp đổ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế
quốc, mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và thời đại quá độ lên CNXH
trên phạm vi toàn thế giới. Chế độ XHCN được thiết lập đã góp phần làm phát triển
mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc. Năm 1919, các nước thuộc địa và nửa thuộc
địa chiếm 72% diện tích và 70% dân số thế giới, tới nay chỉ cịn 0,7% diện tích và
5,3% dân số thế giới. Tính đến nay, hàng trăm nước đã giành được độc lập. Trên 100
nước tham gia vào Phong trào không liên kết.

- CNXH hiện thực đã đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hủy diệt, bảo vệ hịa bình thế giới.
- CNXH đã cổ vũ nhân dân lao động ở các nước phương Tây đấu tranh đòi quyền dân
sinh, dân chủ, khiến giai cấp tư sản phải nhượng bộ.
Tóm lại, từ tháng 11 năm 1917 cho đến sự kiện tháng 8 năm 1991, CNXH ở
Liên Xô đã tồn tại hơn 70 năm, ở các nước Đông Âu hơn 40 năm kể từ năm 1945. Sự ra
đời của hệ thống các nước XHCN là một bước ngoặt lớn đánh dấu sự trưởng thành của
phong trào cách mạng chống áp bức bóc lột trên tồn thế giới. Tuy trong q trình hình
thành, phát triển hồn thiện cịn gặp nhiều thách thức, khó khăn nhưng với những cố gắng
của những người trực tiếp lãnh đạo Đảng và sự đồng lòng của các tầng lớp bị bóc lột, các
nước đi theo con đường XHCN đã từng bước khắc phục khó khăn và đạt được nhiều thành
tựu trên mọi mặt của đời sống xã hội. Đây là một minh chứng cho sự đúng đắn của mơ
hình XHCN và lý luận Mác-Lê nin, khơng ai có thể phủ nhận những thành quả mà XHCN
mang lại.
II. SỰ SỤP ĐỔ CỦA MƠ HÌNH CNXH XƠVIẾT VÀ NGUN NHÂN CỦA NĨ
Bắt đầu từ cuối những năm 80 của thế kỉ XX, Liên Xô và các nước XHCN ở Đông
Âu đi vào thời kì khủng hoảng. Từ tháng 4/1989 đến tháng 9/1991, chế độ XHCN ở Đông
Âu và Liên Xô lần lượt sụp đổ, tạo nên “cơn chấn động” chính trị lớn nhất trong lịch sử
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Vấn đề đặt ra là vì sao chế độ XHCN lại bị
thất bại ở Liên Xô và Đông Âu? Cho đến nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã có

rất nhiều cơng trình nghiên cứu về hiện tượng lịch sử này, đưa ra nhiều nguyên nhân cả
sâu xa và trực tiếp, cả bên trong và bên ngồi để cắt nghĩa, lí giải về sự khủng hoảng và
sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông
(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

c


(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

Âu…
2.1. Sự khủng hoảng và sụp đổ của mơ hình CNXH Xô Viết
Ra đời và tồn tại trong điều kiện bao vây của chủ nghĩa đế quốc, để tồn tại và phát
triển, V.I. Lenin đã từng thể nghiệm hai phương thức xây dựng CNXH: Cộng sản thời
chiến và chính sách kinh tế mới. Sau khi Lênin mất, Iosif Vissarionovich Stalin (Stalin)
đã thực hiện công cuộc xây dựng CNXH theo mô hình:

- Cơng nghiệp hóa và tập thể hóa nơng nghiệp với tốc độ tập trung cao trong đó ưu tiên
phát triển cơng nghiệp nặng.

- Nhanh chóng xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất, dưới hai hình thức sở hữu tồn dân và sở hữu tập thể. Xóa bỏ thị trường tự do,
thiết lập nền kinh tế hiện vật.

- Nhà nước trực tiếp điều hành nền kinh tế theo kế hoạch tập trung thống nhất, Đảng
giữ vai trò lãnh đạo nhưng thực chất Đảng trực tiếp điều hành nhà nước. Với mơ hình
tổ chức kinh tế xã hội như vậy, CNXH đã biến tất cả mọi thành viên trong xã hội trở
thành người làm công ăn lương cùng với cơ chế kế hoạch hóa tập trung, làm hạn chế
khả năng, sức sáng tạo của người lao động.
Song sự ra đời, tồn tại của CNXH kiểu Xô Viết không phải là sản phẩm thuần túy mà

bắt nguồn từ hoàn cảnh và nhu cầu lịch sử cụ thể. Khi CNTB đã bộc lộ những mặt xấu xa
của nó thì CNXH ra đời như là nhân tố chống lại những mặt xấu đó và nó được tổ chức
mang những đặc trưng đối lập với CNTB. Chính vì thế nó đã phát huy được sức mạnh
giúp cho Liên Xô trước đây và Việt Nam sau này tập trung được sức mạnh trong cuộc
chiến tranh giải phóng.
Tuy nhiên, mơ hình CNXH Xơ Viết được xây dựng trên cơ sở chưa đủ chín muồi về
cơ sở vật chất, nên trong thực tế đã vi phạm quy luật kinh tế khách quan: Quan hệ sản
xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trong điều kiện lực
lượng sản xuất chưa phát triển và cịn ở nhiều trình độ khác nhau, nhưng đã vội xác lập
quan hệ sản xuất công hữu và phương thức phân phối mang tính bình qn, bao cấp, từ
đó hạn chế tính sáng tạo của người lao động. Những mâu thuẫn trong việc tổ chức xã hội
theo mơ hình Xô Viết trong những điều kiện lịch sử nhất định lại bị che khuất bởi phục
vụ cho những mục tiêu chính trị cao hơn. Khi mục tiêu chính trị đã được giải quyết thì
(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

c


(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

những mâu thuẫn đó bắt đầu bộc lộ, nhưng do chưa kịp thời tổng kết những bài học thực
tiễn xây dựng CNXH để bổ sung, phát triển, làm cho CNXH hiện thực lâm vào tình trạng
khó khăn, khủng hoảng vào cuối những năm 80 của thế kỉ XX. Lúc đầu các cuộc khủng
hoảng diễn ra trong kinh tế, sản xuất đình đốn, người lao động chán nản, từ đó dẫn đến
xáo trộn về chính trị, xã hội.

- Bắt đầu ở Ba Lan, cơng nhân đình cơng năm 1987, thành lập cơng đồn đồn kết, trở
thành đảng đối lập ở Ba Lan.

- 9/11/1989: Đông Đức tuyên bố giải tỏa bức tường Béclin, giải tỏa biên giới giữa Đông

và Tây Đức.

- 2/12/2989: Cuộc gặp khơng chính thức giữa Xơ – Mỹ, tun bố chấm dứt “chiến tranh
lạnh”.

- 3/12/1989: Ủy ban trung ương Đảng XHCN thống nhất Đức từ chức tập thể.
- 21/12/1989: Chính quyền ở Rumani bị lật đổ bằng bạo lực, tổng bí thư Đảng
Ceaucescu bị tử hình.

- 15/1/1990: Đảng cơng nhân thống nhất Ba Lan chấm dứt hoạt động.
- 5/2/1990: Liên Xô chấp nhận đa đảng.
- 27/2/1990: Liên Xô thực hiện theo chế độ tổng thống theo thể chế chính trị phương
Tây.
Sau chính biến ngày 19/8/1991, Mikhail Sergeyevich Gorbachyov (Gcbachốp) từ
chức, tuyên bố giải thể Đảng Cộng Sản. Liên Xô chính thức tan rã.
Trong những năm 1989 – 1991, chế độ XHCN đã bị sụp đổ ở Liên Xô và các nước
Đông Âu, chế độ mới được dựng lên với những nét chung nổi bật: - Tuyên bố từ bỏ chủ
nghĩa Mác - Lênin và CNXH.

- Thực hiện đa nguyên chính trị và chế độ đa đảng.
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền đại nghị và nền kinh tế theo cơ chế thị trường. - Các
chính đảng vơ sản đều đổi tên đảng và chia rẽ thành nhiều phe phái.

- Tên nước, Quốc kì, Quốc huy và ngày Quốc khánh thay đổi, theo hướng chung gọi là
các nước cộng hòa.
(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

c



(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

2.2. Nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng và sụp đổ của mơ hình CNXH Xơ Viết
Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại đã mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử lồi người
– kỷ ngun xuất hiện hình thái kinh tế - xã hội mới là CNXH. Nước Nga trở thành nước
XHCN đầu tiên và do vậy, bản thân nó phải giải quyết những vấn đề nẩy sinh trong sự
nghiệp xây dựng đất nước trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và trên phương
diện thực tiễn hồn tồn khơng có tiền lệ. Tuy vậy, CNXH hiện thực được xây dựng ở
Nga và về sau là Liên bang Xô viết đã đạt được những thành tựu đáng kể mà bất kỳ ai, kể
cả những người theo khuynh hướng chống cộng sản, cũng không thể phủ nhận. Một vấn
đề đặt ra cho đến nay là tại sao một nước XHCN hùng mạnh như Liên Xô lại bị sụp đổ
một cách nhanh chóng, nguyên nhân nào dẫn đến sự kiện đó, là cơ bản và triển vọng của
CNXH trên phạm vi tồn thế giới hoặc ít ra cũng trở thành lực lượng đối trọng với CNTB
trong tương lai sẽ ra sao?
Cho đến nay, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu thận trọng và phân tích kỹ lưỡng
những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của CNXH hiện thực ở Liên Xô. Đặc biệt, các học
giả Nga cũng đã đưa ra nhiều cách tiếp cận khác nhau về vấn đề này, tựu trung lại, họ chú
trọng không chỉ đến những nguyên nhân chủ quan và khách quan mà rộng hơn, là phân
tích những nguyên nhân bên trong và bên ngồi đất nước Liên Xơ.
Những ngun nhân bên trong xuất phát từ tồn tại xã hội Xô viết qua các chặng
đường xây dựng CNXH, hình thành nên CNXH hiện thực ở Liên Xô. Ngay cả ở những
giai đoạn được gọi là thắng lợi của CNXH trên nhiều lĩnh vực đời sống xã hội cũng đã
tiềm ẩn những bất cập chậm được khắc phục, dẫn đến sự khủng hoảng và sụp đổ của mơ
hình xã hội hiện thực đó. Tiếp theo là những sai lầm nghiêm trọng của Đảng Cộng sản
Liên Xơ mà đứng đầu là Tổng Bí thư M.Gcbachốp, được những người có trách nhiệm
trong hàng ngũ lãnh đạo của Đảng phân tích, đánh giá một cách chính xác từng hành vi
chính trị của con người này sau khi Liên Xơ sụp đổ.
Những ngun nhân bên ngồi là sự chống phá của các thế lực thù địch với CNXH
mà Liên Xơ được xem là thành trì của phe XHCN. Những khẩu hiệu được nêu ra vào thời
“hai phe”, “lưỡng cực” thể hiện quyết tâm của các nước XHCN muốn bằng những tiến bộ

về kinh tế, chính trị và xã hội để giải quyết vấn đề “ai thắng ai” rốt cuộc đã khơng thu
được kết quả, thậm chí cịn chuốc lấy sự thất bại thảm hại của mơ hình XHCN hiện thực
với nhiều khiếm khuyết của nó. Sở dĩ có tình trạng như vậy là vì các nước XHCN thời
(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

c


(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

bấy giờ chỉ chú trọng về mặt hình thức, phơ trương một số mặt tiến bộ của CNXH trong
việc giải quyết vấn đề về sở hữu để xóa bỏ chế độ người bóc lột người, để mọi cơng dân
của nó đều được hưởng thụ những gì nhà nước đem lại mà khơng có những điều chỉnh
trong chính sách kinh tế, làm cho nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung, bao cấp trở nên bất
cập trước xu thế của thời đại. Trong khi đó, các nước tư bản lại khơng ngừng điều chỉnh
về nhiều mặt nhằm làm cho mức sống của người lao động ở đó được nâng cao và làm dịu
đi các mâu thuẫn xã hội và đấu tranh giai cấp. Mặt khác, để xóa bỏ chế độ XHCN trên
toàn thế giới, các nước đế quốc, đứng đầu là Mỹ đã ráo riết hoạt động chống phá Liên Xô,
từ chỗ không thể dùng sức mạnh quân sự, chúng đã sử dụng đến các biện pháp khác như
ly khai, “diễn biến hịa bình” và cuối cùng, là liệu pháp tha hóa những chính khách của
các nước XHCN.
Các quan điểm đề cập đến hệ nguyên nhân bên trong thuộc ba lĩnh vực cơ bản: Chính
trị, kinh tế, văn hóa - xã hội. Ngồi ra, cịn có các quan điểm về sự phản bội của nguyên
Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xơ M.Gcbachốp, hay nói đúng hơn là về âm mưu và
hành động của ơng ta trong việc xóa bỏ Đảng Cộng sản Liên Xô và làm tan rã Liên bang
Xô viết.
Thứ nhất, các quan điểm về ngun nhân chính trị.
Có thể nói, đây là nguyên nhân căn bản nhất, bởi nó liên quan đến một loạt vấn đề về
đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô, về thực chất của hệ thống chính trị ở đất
nước Xơ viết trong suốt 74 năm tồn tại của nó và cuối cùng, về hệ quả của công cuộc cải

tổ (perestroika) trong những năm 1985 – 1991.
Trong cơng trình hợp tác Việt – Nga: “Vận mệnh lịch sử của CNXH”, nhà nghiên cứu
V.N.Sépchencô cho rằng, “nét khác biệt của CNXH Xô Viết với tư cách là nước XHCN
đầu tiên là sự độc tài của một đảng, tức là sự lãnh đạo của đảng đối với tồn bộ tiến trình
xây dựng CNXH, khi đó bất cứ vấn đề nào, chẳng hạn kinh tế, văn hóa, thể thao, v.v.,
đương nhiên được xem là những vấn đề do đảng tổ chức. Đó là dấu hiệu đặc trưng của
mơ hình tổng động viên về phát triển xã hội”.
Sai lầm của Đảng khơng phải hồn tồn ở tính độc tài của một đảng; thêm nữa, đã
từng có những thời kỳ mà mơ hình tổng động viên đã phát huy tác dụng, chẳng hạn Đảng
lãnh đạo phát triển kinh tế những năm 30 và cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại của nhân
dân Xô viết trong thế kỷ qua. Song, từ những năm 60, khi Liên Xô tuyên bố đã xây dựng
(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

c


(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

thành công CNXH và bắt đầu chuyển sang thời kỳ mới – thời kỳ xây dựng CNXH phát
triển, thì tình hình đã thay đổi. Điều đó kéo theo sự thay đổi về mặt lý luận là phải hiểu
bước quá độ mới đó như một q trình cách mạng khơng phải từ “trên”, mà phải làm cho
nhân dân hiểu rõ đó là sự nghiệp của chính
bản thân họ, tạo ra sức mạnh tổng hợp của cả “bên dưới”. Điều đó đã không được thực
hiện, lại thêm tệ quan liêu và sùng bái cá nhân những người lãnh đạo đã trở nên cố hữu mà
theo học giả Ngô Hoan, đã làm cho “Đảng Cộng sản Liên Xô trở thành quyền lực tối cao,
hịa trộn chức năng giữa Đảng và chính quyền, dẫn tới Đảng có sự bao biện, làm thay các
cơ quan nhà nước, các tổ chức quần chúng, làm cho bộ máy của Đảng cồng kềnh, hoạt
động kém hiệu quả, không tập trung được vào cơng việc chủ yếu của mình”. Nhận định
này cũng gần gũi với quan điểm của V.N.Sépchencô cho rằng, “trong nhiều khiếm khuyết
[của Đảng] có một khiếm khuyết căn bản – đó là sự già cỗi của toàn bộ hệ thống điều hành

tổng lực của đất nước. Sự toàn quyền của bộ máy Đảng – Nhà nước, sự thiếu vắng trên
thực tế những hình thức kiểm tra thực sự đối với hoạt động của Đảng, - tất thảy điều đó
làm xuất hiện các hành vi mới và ngày càng nguy hiểm của chủ nghĩa duy ý chí”. Sự độc
tài, chuyên quyền dễ dàng dẫn đến buông lỏng việc thanh tra, kiểm soát, hạn chế đến tối đa
quyền dân chủ của nhân dân. Tình trạng này kéo dài trong nhiều năm đã làm mất đi sự phản
biện xã hội về các chủ trương, đường lối của Đảng, dù nó xuất phát từ bộ máy quan liêu,
từ quan điểm duy ý chí và mệnh lệnh vẫn được cho là duy nhất đúng, là sáng suốt.
Tình trạng vơ chính phủ có ngun nhân từ sự hạ thấp vai trị lãnh đạo của Đảng thời
cải tổ. Tổng Bí thư- Chủ tịch nước Việt Nam- ông Nguyễn Phú Trọng cho rằng, “trong
hành động thực tế, người ta không chăm lo củng cố các tổ chức Đảng, không giữ vững các
tổ chức và sinh hoạt Đảng, xem nhẹ vấn đề lãnh đạo nhà nước thông qua các tổ chức Đảng
làm cho hệ thống của Đảng tan rã, kỷ luật lỏng lẻo, tổ chức Đảng không kiểm tra, giám
sát được đảng viên, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng quá yếu”. Như vậy, trong
đường lối lãnh đạo của Đảng, việc ôm đồm trách nhiệm của Đảng đối với các cơ quan nhà
nước cũng như việc buông lỏng sự chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng đối với các cơ quan đó đều
dẫn đến tình trạng vơ tổ chức, khơng chỉ làm cho sức chiến đấu của Đảng suy yếu, mà tệ
hại hơn, còn làm tan rã hệ thống của Đảng.
Tuy nhiên, một trong những nguyên nhân quan trọng nhất trong đường lối lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Liên Xô là từ bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin. Thông qua công cuộc cải tổ,
(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

c


(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

Ban lãnh đạo Đảng mà đứng đầu là Tổng Bí thư Goócbachốp đã loại dần những người
trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin. Khơng chỉ thế, ơng cịn cho rằng, học thuyết Mác
– Lênin đã lỗi thời, thậm chí cịn sai lầm. Từ đó, đúng như nhận định của ông Nguyễn Phú
Trọng, “người ta đã xem nhẹ vấn đề đấu tranh giai cấp, nhấn mạnh những giá trị chung

toàn nhân loại, xem nhẹ chun chính vơ sản, nhấn mạnh hịa hỗn, nhân quyền, cho rằng
CNTB đã thay đổi bản chất, xét lại sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, nhấn mạnh
vấn đề dân tộc, xem nhẹ chủ nghĩa đế quốc, nhấn mạnh vấn đề công khai, xem nhẹ vấn đề
kỷ luật tập trung trong Đảng... dẫn đến sự sụp đổ của CNXH hiện thực và làm tan rã Đảng
về mặt tư tưởng”. Hậu quả nghiêm trọng đó, theo ơng Trọng, “chính là vì người ta hiểu
sai và làm sai chủ nghĩa Mác – Lênin: Sai cả về thực hiện các nguyên lý cơ bản, về vận
dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng”.
Nguyên nhân chính trị tiềm ẩn ngay trong hệ thống chính trị đã trở thành nguyên nhân
sâu xa dẫn đến sự sụp đổ của CNXH hiện thực ở Liên Xô và sự tan rã của Đảng Cộng sản
Liên Xô. Và, từ khi Đảng này chủ trương cải tổ thì ngun nhân đó trở thành nguyên nhân
trực tiếp - đó là tệ quan liêu. V.N.Sépchencô cho rằng, “tệ quan liêu của Đảng – Nhà nước
là tội phạm cơ bản giết chết CNXH. Trong lúc những người dân bình thường đang đấu
tranh vì nền dân chủ, vì tự do chính trị và các quyền công dân, tệ quan liêu của giới chức
quyền đã lẳng lặng dựa vào quyền sở hữu để thu vén cho mình những miếng béo bở nhất
vốn của sở hữu tồn dân nay bỗng chốc trở thành vô chủ. Sở hữu có được một cách phi
pháp đó về sau được thừa nhận về mặt pháp lý sau khi tiêu diệt bằng bạo lực các thể chế
Đảng - Xơviết của chính quyền và quản lý”.
Chính tệ quan liêu trong hệ thống chính trị đã vi phạm một cách thô bạo nguyên tắc tập
trung dân chủ. Ngay cả trong thời kỳ tưởng như ổn định nhất của hệ thống chính trị, sự vi
phạm đó đã xẩy ra; cịn vào thời cải tổ, dưới chiêu bài “dân chủ hóa”, “cơng khai hóa” sự
vi phạm đó đã bộc lộ một cách rõ nét hơn, nó tạo điều kiện cho “những phần tử cực đoan,
bất mãn lợi dụng để nói xấu Đảng, xuyên tạc, vu cáo Đảng làm tổn hại nghiêm trọng đến
thanh danh, uy tín chung của toàn Đảng”. Sự vi phạm này đã tạo đà cho sự suy thoái đạo
đức, lối sống ở những đảng viên của Đảng, khiến họ chỉ còn biết chú trọng đến việc tranh
giành địa vị, tham ô, hối lộ, lạm dụng chức quyền, từ đó dẫn đến tình trạng xa rời quần
chúng, làm mất đi niềm tin và sự ủng hộ của quần chúng đối với Đảng. Nói tóm lại, chính

(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

c



(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

những người cộng sản đã “tự phá mình”, đồng thời tạo điều kiện cho sự phát sinh những
nguyên nhân bên ngồi để phá nát khơng chỉ bản thân Đảng, mà cả thể chế của đất nước.
Một nguyên nhân căn bản trong các nguyên nhân chính trị, như trên đã đề cập, đã trở
thành nguyên nhân bên trong và trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ của CNXH là sự nghiệp cải tổ
của Liên Xô những năm 80. Thoạt đầu, chủ trương đổi mới, cải tổ được coi như là cái tất
yếu nhằm khắc phục tình trạng trì trệ kéo dài nhiều năm mà vốn được gọi là nguyên nhân
sâu xa. Sai lầm đó đã đẻ ra một loạt các sai lầm khác, từ chỗ có mục đích khắc phục những
khiếm khuyết hình thành nên nguyên nhân sâu xa, Đảng ngày càng sa lầy trong lĩnh vực
cải tổ. Cụ thể, tại Đại hội lần thứ XXVIII của Đảng, người ta không hề nhắc tới nguyên tắc
tập trung dân chủ mà chỉ nói tới dân chủ trong mối liên hệ của nó tới đa nguyên chính trị.
Ban đầu là những ý kiến mang tính đa ngun, đa chiều, sau đó dẫn tới đa ngun chính
trị và hệ quả tất yếu của nó là đa đảng.
Việc đa đảng và hiện tượng các tổ chức chính trị - xã hội xuất hiện khơng phải khơng
có ngun nhân và chưa hẳn đã là tai họa cho đất nước. Lấy thí dụ như ở Trung Quốc, một
đất nước khơng chỉ có một đảng mà vẫn tiếp tục phát triển theo con đường CNXH. Vấn đề
là ở chỗ, sự đấu tranh giữa các đảng phái, các tổ chức chính trị có đem lại sự định hướng
đúng đắn cho đất nước phát triển hay không, hay chỉ là sự đấu tranh vì những mục đích
khác, thậm chí do các thế lực chống phá bên ngoài xúi giục để làm hại đất nước. Hiện
tượng nêu trên của sự nghiệp cải tổ đã gây ra những mâu thuẫn, đấu tranh vì nhiều mục
đích khác nhau trong bản thân Đảng Cộng sản Liên Xơ là điều vơ cùng tai hại; nó đã phá
vỡ sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng, làm yếu đi sự lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng và hệ quả như chúng ta đều thấy. Vấn đề này được chúng tôi đề cập tới trong phần
nói về vai trị của Gcbachốp.
Thứ hai, các quan điểm về nguyên nhân kinh tế.
Nguyên nhân kinh tế dẫn đến sự sụp đổ của CNXH hiện thực ở Liên Xô là nguyên
nhân bên trong, bao hàm cả nguyên nhân sâu xa. Xem xét trên 3 phương diện cơ bản: Sai

lầm về sở hữu, về sự vận hành một nền kinh tế trái quy luật và sau cùng, là sai lầm trong
chính sách quản lý kinh tế.
Sai lầm về sở hữu, có thể nó, xuất phát từ sai lầm trong cách hiểu và vận dụng quan
niệm về CNXH của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin. Theo M.I.Voeicốp, “khái
niệm CNTB và CNXH chứa nội dung chính trị rõ ràng, và về mặt lý luận có thể quy kết một
(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

c


(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

cách rất thiển cận rằng, CNXH là một xã hội công bằng hơn, nhân văn hơn và dân chủ
hơn CNTB. CNXH là giai đoạn kế tiếp của CNTB trong lịch sử phát triển. Đó khơng phải
là một giai đoạn lịch sử song hành, mà là hậu TBCN”.
Tán thành quan điểm này, Iu.K.Plétnicốp cho rằng, “C.Mác và Ph.Ăngghen không
phân biệt khái niệm chủ nghĩa cộng sản và CNXH… Các giai đoạn phát triển của hình thái
xã hội hậu TBCN được C.Mác xác định như là giai đoạn thấp và giai đoạn cao của xã hội
cộng sản chủ nghĩa”(14). Giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản thường được đồng nhất với
chủ nghĩa cộng sản tồn vẹn, ở đó cơng bằng xã hội cho mọi người chỉ có một nghĩa, đó là
thủ tiêu giai cấp và sự khác biệt giai cấp.
Tuy nhiên, để thực hiện được điều đó, như V.I.Lênin đã từng chỉ ra, “chẳng những
phải lật đổ bọn bóc lột, bọn địa chủ và bọn tư bản, chẳng những phải xóa bỏ quyền sở hữu
của chúng mà cịn phải xóa bỏ hết thảy mọi quyền tư hữu về tư liệu sản xuất, phải xóa bỏ
cả sự khác nhau giữa thành thị và nông thôn cũng như sự khác nhau giữa những người lao
động chân tay và lao động trí óc. Đấy là cơng việc rất lâu dài. Muốn hồn thành cơng việc
đó, phải thực hiện một bước tiến khổng lồ trong sự phát triển lực lượng sản xuất, phải
chiến thắng sự phản kháng (thường là tiêu cực, đặc biệt dai dẳng và đặc biệt khó khắc
phục) của nhiều tàn dư của sản xuất nhỏ, phải chiến thắng sức mạnh to lớn của tập quán
và thói quen thủ cựu gắn liền với những tàn dư đó”. Qua đó cho thấy, quan điểm của

V.I.Lênin về bước quá độ lên chủ nghĩa cộng sản là vơ cùng khó khăn và phức tạp, địi hỏi
phải kiên trì bền bỉ trong thời gian dài khơng thể xác định. Trái với điều này, Đảng Cộng
sản Liên Xô lại ấn định và chủ trương thực hiện bước quá độ đó trong “tổng số thời gian”
của các kế hoạch 5 năm qua một số thành tựu chưa thể gọi là đủ cho sự khẳng định Liên
Xô là một nước có năng suất lao động cao do phát triển lực lượng sản xuất mạnh mẽ và
vượt trội các nước TBCN vào những năm 30 của thế kỷ trước. Nói cách khác, đó là tư
tưởng nóng vội, khơng luận chứng một cách khoa học về thực chất và tính lâu dài của thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản.
Vào những năm 20 của thế kỷ trước, sau khi kết thúc nội chiến (1918 – 1920), nước Nga
Xô viết đã đứng trước những thách thức to lớn về mặt kinh tế và chính sách cộng sản thời
chiến cần phải được thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ. Với tỷ lệ áp
đảo của phần lớn dân cư nước Nga thời đó là nơng dân, V.I.Lênin đã đưa ra chính sách
kinh tế mới (NEP) nhằm giải quyết mối liên hệ kinh tế giữa công nghiệp XHCN (quốc hữu
(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

c


(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

hóa) và kinh tế nơng dân. Mặc dù Cương lĩnh của Đảng Cộng sản (năm 1919) xác định
trong sự quá độ từ CNTB lên CNXH diễn ra sự xóa bỏ nền sản xuất hàng hóa, thị trường
và tiền tệ, nhưng “thay vì trao đổi sản phẩm (trao đổi hàng hóa) - theo V.I.Lênin - là sự
mua bán, mậu dịch bình thường”. Có thể nói, (NEP) - phản ánh khá rõ nét sự thay đổi quan
điểm của V.I.Lênin về CNXH, theo đó việc xây dựng CNXH “khơng phải bằng cách trực
tiếp dựa vào nhiệt tình, mà là với nhiệt tình do cuộc cách mạng vĩ đại sinh ra, bằng cách
khuyến khích lợi ích cá nhân, bằng cách áp dụng chế độ hạch toán kinh tế”. Với đặc thù
của nước Nga là một nước tiểu nông bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN, vấn đề nông dân
được V.I.Lênin đặc biệt quan tâm, đó là làm thế nào để giải quyết mối quan hệ giữa lợi ích
cá nhân với lợi ích chung, nhằm thu hút quần chúng nông dân vào sự nghiệp xây dựng

CNXH. Để làm được việc đó, vấn đề mấu chốt là cải tạo hợp tác xã lao động thành hình
thức kinh tế XHCN, kết quả tất yếu của nó là hình thành nên CNXH sơ khai với hai hình
thức sở hữu cơ bản – sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể. Theo Iu.K.Plétnicốp, thay vì “cần
phải có cách tiếp cận mới đối với việc giải quyết vấn đề về hình thức kế hoạch hóa, về vận
mệnh của nền sản xuất hàng hóa, thị trường, quy luật giá trị, v.v.”, người ta đã cấp bách
hóa vấn đề chuyển hướng kinh tế giữa các thành phần kinh tế nói trên.
Nói tóm lại, thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH là một thời đoạn lịch sử lâu dài, ở đó
ln tồn tại một đặc trưng về kinh tế - xã hội là nền kinh tế hỗn hợp, hay còn gọi là nền
kinh tế nhiều thành phần và song hành với nó là các hình thức sở hữu tương ứng.
Iu.K.Plétnicốp cho rằng, “nền kinh tế hỗn hợp là nền kinh tế nhiều thành phần mà ở đó,
cùng tồn tại và tác động lẫn nhau của các kiểu sở hữu khác nhau về tính chất hình thái của
mình trong lịch sử”. Song, thay vì tiếp tục kế thừa nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của
nhà nước dưới chế độ XHCN, Nhà nước Xô Viết trong một thời gian dài đã thực hiện việc
cung cấp tư liệu sản xuất cho các ngành kinh tế quốc dân, trao đổi hàng hóa trong nội bộ
với giá trị của nhà nước. Sự bất hợp lý này đã bộc lộ những hạn chế của nó, bởi nhu cầu
hàng tiêu dùng của con người khơng bao giờ dừng lại ở mức độ thỏa mãn về lượng, mà cả
về chất, tức là cả phương diện thỏa mãn thị hiếu thẩm mỹ, làm cho nhân dân luôn luôn phải
mua những thứ hàng tiêu dùng (cả mậu dịch lẫn phi mậu dịch) với giá rất cao từ các nước
tư bản. Đó là chưa kể đến việc thiếu hụt thường xuyên các mặt hàng thiết yếu cho nhân
dân, tạo cơ hội cho những kẻ thối hóa, biến chất trong bộ máy nhà nước tạo ra sự thiếu
thốn nghiêm trọng các mặt hàng đó vào cuối những năm 80 của thế kỷ trước.

(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

c


(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

Có thể nói, việc khơng tơn trọng quy luật giá trị và không chấp nhận nền kinh tế thị

trường do hoạt động bình thường của các thành phần kinh tế đáng ra phải tiếp tục duy trì
đã làm cho nền kinh tế Liên Xơ ngày càng gặp nhiều khó khăn do cơ chế xơ cứng, ở đó
các cơ sở khơng có quyền chủ động, thậm chí tâm lý thụ động ln thường trực, chờ đợi
sự “rót xuống” từ trên, khiến cho nền kinh tế đó trở nên kém hiệu quả và trên thực tế, đã
trở thành “một nền kinh tế không chú trọng đầy đủ tới đặc điểm của nền kinh tế hàng hóa
và quy luật giá trị, tới cơ cấu đa dạng của sản phẩm hàng hóa có chất lượng và giá trị cao
để cạnh tranh trên thị trường”. Tình trạng này cộng thêm tệ quan liêu, mệnh lệnh hành
chính ngày càng trầm trọng trong lãnh đạo, quản lý kinh tế đã dẫn đến sự sụp đổ của CNXH
hiện thực ở Liên Xô.
Thứ ba, các quan điểm về nguyên nhân văn hóa - xã hội.
Các quan điểm bàn về nguyên nhân này khá nhiều và tương đối thống nhất. Đó là “sự
vi phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân, sự không nghiêm minh trong việc thực
hiện pháp luật, kỷ luật cũng như những hạn chế trong việc thực hiện cơng bằng xã hội.
Tính hình thức và bệnh giáo điều đã làm cho công tác giáo dục hệ tư tưởng và ý thức xã
hội xa rời thực tế cuộc sống, lý luận tách rời thực tiễn. Các hoạt động văn hóa tinh thần
vốn là hình thức biểu hiện sự phong phú về nhân cách và các cá tính sáng tạo đã có thời
kỳ rơi vào sự đơn điệu, nghèo nàn, không phản ánh một cách chân thực và khách quan đời
sống của xã hội và của cá nhân với sự tăng lên không ngừng nhu cầu văn hóa tinh thần
của nó”.
Ngồi những ngun nhân nói trên cịn nhiều nguyên nhân khác về văn hóa – xã hội.
Đó là việc ứng dụng các thành tựu nghiên cứu khoa học cơ bản vào thực tiễn đời sống
không được thực hiện một cách thường xuyên, một mặt, do sự quy định quá ngặt nghèo
của nền kinh tế kế hoạch hoá cứng nhắc; mặt khác, trong kinh tế đối ngoại, Đảng và Nhà
nước Liên Xô đã không quan tâm thoả đáng đến vấn đề tiếp thu công nghệ tiên tiến của
các nước tư bản trên thế giới, làm cho năng suất lao động ngày càng sụt giảm, sự tiêu thụ
năng lượng quá cao làm cho giá thành sản phẩm cao, mất hẳn thế cạnh tranh trên thị trường
quốc tế.
Từ khi Liên Xơ tiến hành cải tổ, chủ trương dân chủ hóa xã hội và cơng khai hóa đã
dẫn đến chỗ làm mất niềm tin của nhân dân vào chủ nghĩa Mác – Lênin, đến sự xuất hiện
tràn lan những tờ báo vượt ra ngồi vùng kiểm sốt chính trị của Đảng, tạo đà cho các thế

(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

c


(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

lực phản động nước ngoài chia rẽ, ly khai. Ngay trong nội bộ Đảng và bộ máy nhà nước
cũng xuất hiện một thế hệ các nhà lãnh đạo hữu khuynh, cơ hội, luôn giành cho bản thân
những đặc quyền, đặc ân để chiếm đoạt tài sản của đất nước và làm giàu cho bản thân.
Chính sự tham nhũng của họ là nguyên nhân đầu tiên tạo ra sự phân hóa giàu nghèo trong
xã hội XHCN vốn tơn trọng sự bình đẳng, công bằng.
Thứ tư, các quan điểm về sự phản bội của M.Goócbachốp.
Như chúng ta đều biết, tên tuổi của M.Gcbachốp gắn liền với sự nghiệp cải tổ ở Liên
Xơ, kể từ khi ơng bắt đầu làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xơ năm 1985. Theo
V.N.Sépchencơ, “mục đích của cải tổ mà M.Goócbachốp triển khai giữa thập niên 80 là
sự cải tổ căn bản tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, và theo nghĩa đó thì sự cải tổ có
khuynh hướng cách mạng. Những bước đầu tiên của cải tổ được thực hiện đúng hướng.
Chúng đều hướng vào việc đẩy nhanh tiến bộ khoa học - kỹ thuật, nâng cao hiệu quả kinh
tế của đất nước, điều đó đã tạo được sự nhiệt tình to lớn trong xã hội. Nhưng sau đó,
M.Goócbachốp lại muốn tiến hành cải cách chính trị, như chính ơng ta bộc lộ, nhằm phá
nát hệ thống hành chính mệnh lệnh. Thực ra thì ơng ta mở toang cửa cho sự ăn cướp vô
tội vạ sở hữu nhà nước, thế là các cuộc tư bản hóa đất nước được bắt đầu. Từ việc thay
đổi hệ thống kiểm tra đã xảy ra sự tan rã thực sự toàn bộ hệ thống xã hội – từ bộ máy Đảng
và Nhà nước đến những thiết chế giá trị của nhân dân Xô viết. Sự phê phán những khiếm
khuyết có thật cũng như bịa đặt của chế độ đều biến thành sự phủ định chế độ đó rất nhanh.
Các cuộc cải cách chính trị dẫn tới sự đổ vỡ nền kinh tế và xã hội, đồng thời cũng tạo điều
kiện tốt cho hoạt động của các thế lực chống CNXH”.
Trong cuốn sách tham khảo với nhan đề “Sự phản bội của Goócbachốp”, có 5 bài viết
về sự sụp đổ của chế độ XHCN hiện thực ở Liên Xơ và một số nước khác mà ở đó, bản

thân Gcbachốp đóng vai trị quan trọng cho thảm họa to lớn đó. Bài viết của Thiếu tướng
KGB (Uỷ ban An ninh Quốc gia) - Étduard Iacôvlép đã vạch trần những thủ đoạn phá hoại
của vị Tổng Bí thư cuối cùng này đối với Đảng và Nhà nước Liên Xơ. Đó là: trong lĩnh
vực chính trị, ơng ta đã thay dần những người trung thành với học thuyết của chủ nghĩa
Mác – Lênin và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô bằng những phần tử cơ
hội, tham nhũng cùng chí hướng với mình vào bộ máy của Đảng và Nhà nước, tước bỏ
nguyên tắc tập trung dân chủ trong lãnh đạo của Đảng, v.v.. Trong lĩnh vực kinh tế, ơng ta
đã tiến hành tư bản hóa, cổ phần hóa tài sản của quốc gia và của các tập thể lao động hơn
(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

c


(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

70 năm gây dựng bằng cách gây ra sự thiếu thốn giả tạo về các mặt hàng tiêu dùng thiết
yếu của nhân dân để phủ nhận vai trò điều tiết kinh tế của Nhà nước, v.v.. Trong lĩnh vực
văn hóa - xã hội, ông ta đã nới lỏng việc quản lý báo chí, đồng thời cho ra đời nhiều tờ báo
cổ súy cho những sai lầm của chính ơng ta và các cộng sự, nhất là những sai lầm về “dân
chủ hóa” và “cơng khai hóa”. Chính các tờ báo thuộc loại như vậy đã cổ vũ sự ly khai, phủ
nhận những nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về
CNXH…
Điểm đáng lưu ý là trước những mưu toan phá hủy CNXH như vậy của một vị Tổng
Bí thư mà các tổ chức đảng, những đảng viên của Đảng Cộng sản Liên Xơ lại tỏ ra bất lực,
hồn tồn đánh mất tính chiến đấu để bảo vệ Đảng. Điều đó có nguyên nhân sâu xa, một
mặt, là do tệ sùng bái cá nhân lãnh tụ của Đảng; mặt khác, là do sự sắp đặt một cách bài
bản, buộc tất cả các đảng viên phải tuyệt đối tin theo sự nghiệp cải tổ và sẵn sàng trừng trị
những ý kiến trái ngược với chủ trương cải tổ, làm cho những ý kiến phản biện xã hội
không thể xuất hiện hoặc bị vơ hiệu hóa như trên chúng tơi đã đề cập tới.
Thứ năm, sự chống phá của các thế lực thù địch nước ngoài đối với Đảng và Nhà

nước Liên Xơ.
Có thể nói, Liên Xơ vốn được xem là thành trì của CNXH trước đây, đồng thời cũng
là mục tiêu chống phá của các thế lực thù địch. Trong cuộc chiến tranh lạnh kéo dài hàng
chục năm, các thế lực chống phá bên ngồi Liên Xơ đã sử dụng mọi thủ đoạn, từ thông tin
đại chúng đến “diễn biến hịa bình” nhằm chia rẽ cộng đồng các dân tộc Xô viết. Tuy nhiên,
kẻ thù nguy hiểm nhất, đồng thời cũng là chủ thể của mọi hoạt động phá hoại chính là “lực
lượng theo khuynh hướng TBCN khốc những chiếc áo dân tộc... Trên bề mặt thì tất cả
đều yên tĩnh, vang lên những lời nói vui vẻ về tình hữu nghị giữa các dân tộc, nhưng ở bên
trong thì âm ỉ những lò lửa của sự hằn thù”. Lực lượng này đã tiếp tay cho các hoạt động
gián điệp kích động việc chống phá nhà nước, bơi nhọ chế độ XHCN và lý luận của chủ
nghĩa cộng sản khoa học. Trong điều kiện cải tổ, những nhân vật chính trị của Mỹ đã lợi
dụng khẩu hiệu “dân chủ hóa”, “cơng khai hóa” để phát triển các thế lực chống phá từ bên
trong ở các nước cộng hòa.
Các thế lực chống phá bên ngoài đã ráo riết “loại bỏ vai trò thống trị của hệ tư tưởng
Mác – Lênin trên đất nước Xơ viết, thủ tiêu lịng trung thành của những cán bộ cốt cán
cũng như của nhân dân đối với hệ tư tưởng đó, tạo ra làn sóng chống đối của dân chúng
(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

c


(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

vào chế độ xã hội đương thời, truyền bá ý thức hệ tư sản và lối sống phương Tây vào Liên
Xơ, từng bước làm xói mịn dẫn tới mất niềm tin cộng sản của mọi thành viên trong xã hội
Xô viết vào chính chế độ xã hội mà họ đang sống”.
Tuy nhiên, các thế lực thù địch, nếu khơng có sự hậu thuẫn của những mưu đồ phản
bội, phá hoại CNXH của người đứng đầu Đảng và Nhà nước Liên Xơ là Gcbachốp và
những “đồng chí” thân cận do ơng ta đưa vào Bộ Chính trị, như Jacốplép, Sêvadnadze,
Gaida, v.v., cũng như sự thiếu ý thức chính trị của các đảng viên thời bấy giờ, thì những

điều tai hại nhất đã không xẩy ra. Các thế lực thù địch từ bên ngoài đã tăng cường hoạt
động chống phá, lên kế hoạch hết sức cụ thể mà chủ tịch KGB thời bấy giờ là “Criusơcốp
báo cáo trước phiên họp kín của Xô viết tối cao về kế hoạch của phương Tây làm tan rã
Liên Xô và đây là lần đầu tiên nói đến cơ quan tình báo nước ngồi sử dụng cái gọi là điệp
viên gây ảnh hưởng”. Bản thân Goócbachốp khơng những “khơng tin vào điều đó”, mà cịn
tỏ ra bực bội và khơng chỉ thế, ơng ta cịn tin tưởng vào phương Tây, hy vọng vào khoản
viện trợ kinh tế để khắc phục khó khăn do chính mục đích phá hoại của ông gây ra, nghĩa
là “dựa vào sự chân thành” của ông đối với phương Tây về chiến lược qn sự của Liên
Xơ, thực hiện “dân chủ hóa” và “cơng khai hóa” để lấy lịng phương Tây, chờ đón sự viện
trợ của phương Tây. Qua nhiều tài liệu cho thấy, sự trớ trêu đến không tưởng đã diễn ra
trong một lãnh tụ đầy mưu kế như Goócbachốp nhưng lại ấu trĩ trước những “chiếc bánh
vẽ” của các thế lực thù địch mà đứng đầu là Mỹ. Sự kết hợp “hài hịa” giữa “thù trong” và
“giặc ngồi” được thể hiện qua thái độ của nước Mỹ không những xem ngày Gcbachốp
lên làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô là ngày cách mạng Nga lần thứ hai, mà cịn
khẳng định rằng “Gcbachốp đã hồn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình”.
III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ SỰ TAN RÃ CỦA CNXH LIÊN XÔ

Từ sự sụp đổ và tan rã của CNXH ở Liên Xơ, chúng ta có thể rút ra được những bài
học bổ ích sau đây:
Một là, phải thường xuyên chăm lo xây dựng đảng để giữ vững vai trị cầm quyền của
Đảng, bộ máy chính quyền trong sạch vững mạnh và gắn bó với nhân dân. Xây dựng đảng
vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, ln ln gắn bó mật thiết với nhân dân, nắm
chắc quần chúng và động viên được sức mạnh của nhân dân.

(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

c


(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem


Đảng lãnh đạo bằng đường lối, có đường lối lãnh đạo đúng đắn nhưng đường lối đó
chỉ trở thành sức mạnh vật chất khi quần chúng nhân dân hiện thực hóa trong đời sống xã
hội. Do vậy, địi hỏi mỗi đảng cộng sản phải trung thành với lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin,
vận dụng sáng tạo các nguyên lý cách mạng để đề ra đường lối chiến lược, sách lược đúng
đắn và phù hợp với thực tiễn. Để lãnh đạo, quản lý điều hành đất nước có hiệu quả, Đảng
cầm quyền, bộ máy chính quyền phải gắn bó mật thiết với nhân dân, được lòng dân, nắm
chắc dân và quy tụ được sức mạnh của nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Khi Đảng và chính quyền bị tha hóa biến chất, xa dân và sách nhiễu dân, mối
quan hệ với nhân dân bị rạn vỡ cũng đồng nghĩa với Đảng sẽ mất quần chúng, nhà nước và
chế độ sẽ đánh mất cơ sở xã hội chính trị thì tất yếu bị lật đổ.
Đảng ln ln phải giữ vai trị cầm quyền, có nghĩa là Đảng Cộng sản phải thể hiện
quyền lực chính trị, quyền lãnh đạo về chính trị và khơng bao giờ chia sẻ quyền lực đó cho
bất kỳ lực lượng nào khác. Đảng mất là mất hết, vì Đảng lãnh đạo toàn bộ các mặt, các lĩnh
vực của xã hội, lãnh đạo hệ thống chính trị, nhân sự cán bộ… Lãnh đạo Nhà nước thực
hiện tốt chức năng, cụ thể hóa đường lối của Đảng, quản lý tốt xã hội, kiến tạo xã hội mới,
định ra chính sách xã hội đúng đắn đáp ứng lợi ích chính đáng của nhân dân, thực sự dân
chủ, lắng nghe và tôn trọng những nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Đảng và bộ máy
chính quyền là “xương sống” của chế độ nên phải vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu
quả, thực sự vì nhân dân, thực hiện có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý
điều hành xã hội, mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân thì mới bảo đảm cho sự tồn tại
của chế độ xã hội và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Hai là, vấn đề then chốt có ý nghĩa quyết định là xây dựng và thực hiện tốt chiến lược
công tác cán bộ, nhất là cán bộ chủ trì và xây dựng nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý kế cận,
kế tiếp ở các cấp từ Trung ương đến địa phương. Trong công tác tổ chức sắp xếp cán bộ,
nhất là những vị trí chủ chốt cần lựa chọn đúng những người thực sự tiêu biểu về bản lĩnh
chính trị, đạo đức và lối sống, năng lực trí tuệ và trình độ tổ chức thực tiễn, gần gũi nhân
dân và được tín nhiệm, bảo đảm sự vững vàng về chính trị. Kiên quyết loại khỏi bộ máy
lãnh đạo của Đảng và cơ quan Nhà nước những phần tử cơ hội thực dụng, tha hóa về chính
trị tư tưởng và đạo đức, lối sống, sách nhiễu dân và xa dân, khơng được tín nhiệm. Thực

hiện tốt công tác quản lý cán bộ, đánh giá và sử dụng cán bộ vì đó là gốc của mọi công

(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

c


(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

việc, không để mất cảnh giác để các thế lực thù địch cài cắm các phần tử cơ hội, phần tử
chống đối phản bội chui sâu, leo cao trong bộ máy của Đảng và Nhà nước.
Ba là, xây dựng nền kinh tế ổn định và phát triển vững chắc, giữ được độc lập tự chủ
trong hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý
của Nhà nước đối với nền kinh tế. Sự ổn định và phát triển vững chắc của nền kinh tế là
nền tảng vật chất bảo đảm sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước. Khi kinh tế lâm
vào khủng hoảng suy thoái, đất nước dễ lâm vào mất ổn định chính trị, tạo điều kiện cho
các thế lực thù địch lơi kéo, kích động nhân dân chống lại Đảng và chính quyền, làm chuyển
hóa chế độ xã hội theo quỹ đạo của CNTB. Cần giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, sự quản
lý của Nhà nước đối với nền kinh tế, bảo đảm đúng định hướng phát triển của quốc gia,
không để cho bất kỳ một thế lực nào điều khiển và thao túng nền kinh tế. Cần duy trì được
tốc độ tăng trưởng hợp lý và ổn định, phát huy tốt năng lực nội sinh, tạo được nhiều việc
làm để tăng thu nhập của người dân, bảo đảm công bằng xã hội, an sinh xã hội, tạo cơ sở
vật chất để đất nước ổn định và phát triển bền vững. Mở rộng hội nhập quốc tế trong điều
kiện tồn cầu hóa, đặc biệt là hợp tác về kinh tế là xu thế khách quan mà các nước XHCN
phải tham gia, nếu không thì khó có thể tồn tại và phát triển được. Vấn đề đặt ra là các nước
XHCN mở rộng hội nhập quốc tế để tận dụng được những thành tựu khoa học cộng nghệ,
tận dụng được nguồn lực tài chính của các nước phát triển làm cho sản xuất của đất nước
ngày càng lớn mạnh đủ sức canh tranh, lợi ích quốc gia - dân tộc và cơ sở vật chất của
CNXH ngày càng được củng cố.
Bốn là, tăng cường cơng tác chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức, trách nhiệm và

bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên, nhân dân; phịng, chống có hiệu quả chiến lược
“diễn biến hịa bình” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Công tác tư tưởng, lý luận phải
trở thành vấn đề quan trọng hàng đầu trong điều kiện Đảng cầm quyền, trước hết phải quan
tâm thường xuyên đến công tác giáo dục lý luận chính trị cho các đối tượng trong xã hội,
đặc biệt là đội ngũ cán bộ, đảng viên phải là những người nắm vững bản chất các nguyên
lý cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thì mới trở thành những
người tiên phong. Nhận thức sâu sắc nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của CNXH ở Liên xô
và Đông Âu, với những nguyên nhân chủ quan và khách quan. Giáo dục mục tiêu, lý tưởng
của Đảng, quán triệt kịp thời những nghị quyết đến cán bộ, đảng viên. Tuyên truyền, vạch
trần âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch chống phá sự nghiệp xây dựng,
(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

c


(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

bảo vệ Tổ quốc XHCN. Củng cố niềm tin có cơ sở khoa học của cán bộ, đảng viên, của
nhân dân vào con đường đi lên CNXH trong giai đoạn hiện nay. Cần huy động được sức
mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và tồn xã hội trong tiến hành cơng tác chính trị
tư tưởng, đặc biệt là phải phát huy vai trò của cơ quan và cán bộ chuyên trách từ Trung
ương đến cơ sở.
Năm là, Đảng cầm quyền phải nắm chắc lực lượng vũ trang, đặc biệt chăm lo xây
dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân thực sự trung thành, tin cậy về chính trị, có
chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao, làm nòng cốt trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc. Việc nắm chắc và chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang, nhất là quân đội nhân dân
và công an nhân dân vững mạnh, thực sự trung thành và tin cậy về chính trị là một nguyên
tắc chiến lược của đảng cầm quyền, liên quan trực tiếp đến sự sống còn của quốc gia dân
tộc và chế độ. Đảng cầm quyền phải thường xuyên làm tốt công tác giáo dục chính trị tư
tưởng và rèn luyện bản chất giai cấp công nhân của lực lượng vũ trang, luôn trung thành

với Đảng, với nhân dân. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm, bản lĩnh chính trị, quyết tâm
chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ quân đội và công an, sẵn sàng nhận và thực hiện thắng lợi
mọi nhiệm vụ được giao trong các tình huống khơng để bất ngờ xảy ra. Đảng ln ln giữ
vững vai trị lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp và toàn diện về mọi mặt đối với lực lượng vũ
trang, nhất là quân đội và công an; đặc biệt chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội và
công an vừa hồng, vừa chuyên... Sự vững mạnh của lực lượng vũ trang không chỉ là lực
lượng nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc, mà còn là đội quân lao động sản xuất, đội quân công
tác, lực lượng chính trị tin cậy của Đảng và Nhà nước. Đây là lực lượng nịng cốt để cùng
tồn dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, chủ động xử lý kịp thời và đập
tan âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá con đường đi lên CNXH.

(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem(Tieu.luan).mon.tu.tuong.ho.chi.minh.de.tai.tim.hieu.ve.mo.hinh.cnxh.va.su.sup.do.cnxh.cua.lien.xo.va.dong.au..tu.do.rut.ra.bai.hoc.kinh.nghiem

c


×