Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Tìm hiểu và phân tích quan điểm của hồ chí minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở việt nam sự vận dụng quan điểm nêu trên của đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.22 KB, 17 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN NGÂN HÀNG – TÀI CHÍNH
-------***-------

BÀI TẬP LỚN
MƠN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI: Tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần
kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Sự vận dụng quan
điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển cơ cấu thành phần
kinh tế ở nước ta hiện nay.

Họ và tên SV: Lý Khánh Ly
Lớp tín chỉ: LLTT1101(122)_12
Mã SV: 11202402
Giảng viên: TS. Nguyễn Chí Thiện

Hà Nội - 2022


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................................
NỘI DUNG.......................................................................................................................
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ.2
1.1. Quan điểm của Lênin về thành phần kinh tế trong thời kì quá độ lên
CNXH.....................................................................................................................2
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ
quá độ lên CNXH ở Việt Nam...............................................................................4
2. Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển cơ cấu
thành phần kinh tế nước ta hiện nay......................................................................8
2.1.


Sự cần thiết phải sử dụng các thành phần kinh tế ở nước ta:...................8

2.2.

Bản chất và cơ cấu các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ:.............9

KẾT LUẬN.....................................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................


Tim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dangTim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dang

LỜI MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà chính trị bàn về kinh tế, tư tưởng kinh tế của
Người cơ bản là tư tưởng kinh tế - chính trị, tư tưởng ấy đã soi sáng cho cuộc đấu tranh
của nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến hết thắng lợi khác. Trên cương vị lãnh đạo quốc
gia, Hồ Chí Minh đã đưa ra những quan điểm chỉ đạo về xây dựng và phát triển kinh tế ở
một nước nông nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chưa trải qua chế độ tư bản chủ
nghĩa. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về những thành phần kinh tế là một bộ phận
đặc sắc trong tư tưởng kinh tế của Người và vẫn giữ nguyên giá trị chỉ đạo đối với đất
nước ta trong công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và định hướng
xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Thời kỳ quá độ là thời kỳ mơ hình kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp bộc lộ một
cách toàn diện mặt tiêu cực của nó mà hậu quả tập trung là cuộc cách mạng kinh tế - xã
hội sâu sắc vào cuối những năm 1970 đầu những năm 1980. Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ V của Đảng cộng sản Việt Nam đã đánh giá tình hình đất nước, đặc biệt là trong
lĩnh vực kinh tế, ln ln ở tình trạng trì trệ, chậm phát triển, đời sống nhân dân gặp rất
nhiều khó khăn, tình hình trì trệ ấy có ngun nhân khách quan như nền kinh tế đang
gánh chịu những hậu quả hết sức nặng nề của chiến tranh lâu dài, viện trợ từ bên ngoài
giảm so với thời kỳ trong chiến tranh nhưng nguyên nhân chủ yếu làm trầm trọng thêm

tình hình khó khăn về kinh tế và xã hội vẫn là mơ hình kinh tế khơng phù hợp với quy
luật kinh tế khách quan. Chính những khó khăn của đất nước buộc Đảng ta phải suy nghĩ,
phân tích tình hình ngun nhân, tìm tịi các giải pháp, trong đó Đảng ta đã khẳng định sự
cần thiết của nền kinh tế nhiều thành phần, đây là mơ hình kinh tế được xây dựng trên cơ
sở tổng kết thực tiễn xây dựng CNXH ở nước ta, vận dụng một cách sáng tạo những quan
điểm của Lênin về “chính sách kinh tế mới” vào điều kiện lịch sử ở nước ta và thế giới
ngày nay, đặc biệt là từ khi Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu sụp đổ. Thực hiện
mơ hình kinh tế mới nhằm mục tiêu căn bản cấp thiết là tăng nhanh lực lượng sản xuất,
từng bước cải thiện đời sống nhân dân, tạo cơ sở vật chất và xã hội. Chính vì vậy mà việc
tìm hiểu quan điểm Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở Việt Nam và sự vận dụng quan điểm ấy là vô cùng quan trọng, nhất là trong
giai đoạn công nghiệp hóa – hiện đại hóa hiện nay thì vấn đề đó lại càng cấp thiết hơn.

1
Tim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dangTim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dang


Tim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dangTim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dang

NỘI DUNG
1.
1.1.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ.
Quan điểm của Lênin về thành phần kinh tế trong thời kì quá độ lên CNXH.

Kế thừa những luận điểm của C.Mac và Ph.Ănghen, VI.Lênin đưa ra nhiều luận
điểm quan trọng về đặc điểm của thời kỳ quá độ như sau: Thứ nhất, thời kỳ quá độ là thời
kỳ xét trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội, do thành phần không thuần nhất cấu tạo nên. Đó
là thời kỳ có sự đan xen, thâm nhập vào nhau giữa CNTB và CNXH, đúng như Lênin đã

viết:“Ngày nay, chúng ta không thể không đặt vấn đề CNTB nhà nước và CNXH, vấn đề
chúng ta cần có thái độ như thế nào trong thời kỳ quá độ; trong thời kỳ này... một mẩu
nhỏ CNTB và một mẩu nhỏ CNXH tồn tại cạnh nhau”. Thứ hai, đó là thời kỳ mà sự phát
triển của cái cũ, của những trật tự cũ đôi khi lấn át những mầm mống của cái mới. Lênin
cho rằng, những mảnh vụn của trật tự cũ đôi khi chất đống lại một cách nhanh chóng,
trong khi đó những mầm mống của cái mới lại phát triển chậm chạp và không phải bao
giờ thấy rõ ngay được. Thứ ba, đó là thời kỳ xét trên mọi phương diện đều có sự phát
triển của tính tự phát tiểu tư sản, là thời kỳ chứa đựng mâu thuẫn khơng thể dung hồ
được giữa tính kỷ luật nghiêm ngặt của giai cấp vơ sản và tính vơ chính phủ, vơ kỷ luật
của tầng lớp tiểu tư sản. Lênin cho rằng, tính tự phát tiểu tư sản là kẻ thù giấu mặt hết sức
nguy hiểm và còn nguy hiểm hơn bọn phản cách mạng công khai. Mâu thuẫn giữa tính tự
phát tiểu tư sản và tính kỷ luật nghiêm ngặt của giai cấp vô sản là một trong những đặc
điểm nổi bật của “giai đoạn đặc biệt”, giai đoạn quá độ. Thứ tư, đó là thời kỳ lâu dài với
rất nhiều khó khăn phức tạp, phải trải qua nhiều lần thử nghiệm để rút ra những kinh
nghiệm, những con đường đúng đắn; và trong quá trình thử nghiệm ấy, nói như C. Mác,
có thể sẽ phải trả giá cho những sai lầm nghiêm trọng. Lênin đã sớm nhận thức được điều
đó khi ơng viết: “Cịn chúng ta thì biết rằng việc chuyển từ CNTB lên CNXH là cuộc đấu
tranh vơ cùng khó khăn. Nhưng chúng ta sẵn sàng chịu hàng nghìn khó khăn, thực hiện
hàng nghìn lần thử, và khi chúng ta đã thực hiện được hàng nghìn lần thử rồi, thì chúng
ta sẽ giữ cái lần thứ một nghìn lẻ một”. VI.Lênin cịn nhận thấy những nước có nền kinh
tế lạc hậu, chẳng hạn như nước Nga có nền kinh tế tiểu nơng, khi q độ lên CNXH càng
gặp nhiều khó khăn, phức tạp, càng phải trải qua nhiều bước quá độ , nhiều bước thử
nghiệm. Ông nhắc lại nhiều lần quan điểm này vào những năm năm 1918 - 1921. Chẳng
hạn, tháng 10/1921, Lênin đã nói: “Kể từ năm 1917, khi nhiệm vụ nắm chính quyền được
đề ra và được những người bạn Bơn-sê-vích nói rõ cho tồn thể nhân dân biết, thì các
tác phẩm lý luận của ta đã nhấn mạnh một cách rõ ràng rằng: Tất yếu phải có một thời
kỳ quá độ lâu dài và phức tạp từ XHTBCN (xã hội đó càng ít phát triển, thì thời kỳ đó
càng dài)... tiến lên xã hội cộng sản chủ nghĩa”.

2

Tim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dangTim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dang


Tim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dangTim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dang

Những năm sau cách mạng tháng Mười (trước chính sách kinh tế mới) VI. Lênin
có nhiều luận điểm về sự không thuần nhất, sự đan xen giữa CNTB và CNXH trong thời
kỳ quá độ. Đặc điểm đó được biểu hiện trong tất cả các lĩnh vực của cuộc sống xã hội,
nhưng rõ nét nhất là trong lĩnh vực kinh tế. VI Lênin đã định nghĩa danh từ “ thời kỳ quá
độ” trong lĩnh vực kinh tế : “Vậy danh từ q độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế có
nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của
cả CNTB lẫn CNXH khơng? Bất cứ ai cũng thừa nhận là có”. Như vậy, trước khi có
chính sách kinh tế mới, Lênin mới chỉ vạch ra những nét đại thể của thành phần kinh tế
phi XHCN, đó là tính tự phát của người tiểu tư hữu; là sự phản kháng ngoan cố của
CNTB dưới nhiều hình thức. Nhưng ngay sau khi có chính sách kinh tế mới, cả trong lý
luận cũng như trong thực tiễn, Lênin lại thừa nhận có 5 thành phần kinh tế đồng thời tồn
tại trong thời kỳ quá độ. Các thành phần kinh tế hoàn toàn mới so với trước là thành phần
kinh tế tư bản và thành phần CNTB nhà nước. Lênin đã xếp thứ tự các thành phần kinh tế
như sau:
1. Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng.
2. Sản xuất hàng hóa nhỏ.
3. Chủ nghĩa tư bản tư nhân.
4. Chủ nghĩa tư bản nhà nước.
5. Chủ nghĩa xã hội.
Trong q trình thực hiện chính sách kinh tế mới, Lênin ln đánh giá cao vị trí,
vai trị của thành phần kinh tế chủ nghĩa tư bản nhà nước, sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà
nước dưới hình thức tô nhượng, hợp tác xã, tư nhân đại lý, cho tư nhân thuê cơ sở sản
xuất,...được xem là “chiếc cầu nhỏ vững chắc xuyên qua” chủ nghĩa tư bản để đi vào chủ
nghĩa xã hội. Phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước không chỉ là biện pháp “quá độ đặc
biệt” mà còn là khâu “trung gian” để chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội.

Về kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ, điểm xuất phát trong q trình xây dựng nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần là phải đáp ứng lợi ích kinh tế cho đại đa số nông dân, mà
trước hết là từ nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dựa vào khôi phục và phát triển kinh tế
tiểu nông để khôi phục và phát triển đại công nghiệp. Ngay Đại hội X Đảng cộng sản
Bơn-sê-vích Nga, Lênin đã u cầu chính quyền Xơ Viết phải nhanh chóng phát triển nền
sản xuất tiểu nơng bằng cách khuyết khích nền kinh tế nơng dân cá thể với những biện
pháp “quá độ”, những hình thức “trung gian” có khả năng cải tạo nơng dân, đổi mới nông
thôn và chuyển đổi nền kinh tế tiểu nông của những người nông dân cá thể thành nền sản
xuất tập thể có tính xã hội chủ nghĩa, diễn ra một cách tuần tự, có tính kế thừa, thận
trọng. Về kinh tế tư bản tư nhân, khi chính sách kinh tế mới được áp dụng trong thực tiễn
nước Nga, Lênin hiểu rõ có thể chủ nghĩa tư bản sống lại, nhưng ơng cho rằng khơng sợ
nó, mà kêu gọi Chính quyền Xô viết cần sử dụng tư nhân nông dân, thợ thủ công, thương
nhân,... để phát triển kinh tế đất nước, bởi vì tư bản tư nhân sẽ tạo ra nhiều hàng hóa tiêu
3
Tim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dangTim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dang


Tim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dangTim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dang

dùng cho xã hội - cơ sở ổn định chính trị. Đặc biệt, Lênin đánh giá rất cao vị trí, vai trò
của thành phần kinh tế chủ nghĩa xã hội, coi đây là “xương sống” của nền kinh tế - những
“mạch máu” kinh tế cơ bản như công nghiệp, ngân hàng, tài chính tín dụng ln nằm
trong tay chính quyền Xơ viết, thuộc sở hữu nhà nước. Khi chính sách kinh tế mới được
thực hiện, Lênin chủ trương các xí nghiệp quốc doanh hoạt động theo chế độ tự hoàn
vốn, chế độ hoạch tốn kinh tế, các xí nghiệp này được giao quyền tự chủ và tự chịu trách
nhiệm vật chất với kết quả hoạt động của mình.
Như vậy, Lênin đã nêu ra 5 thành phần kinh tế và sắp xếp thứ tự một cách có chủ
đích và hàm chứa ý nghĩa phương pháp luận cấp độ tăng lên về tính chất xã hội chủ nghĩa
của mỗi thành phần kinh tế; tỷ trọng của các thành phần kinh tế trong từng giai đoạn lịch
sử; sự biến đổi tỷ trọng các thành phần kinh tế phải theo hướng xã hội chủ nghĩa; tính đan

xen, mâu thuẫn, đấu tranh và thống nhất giữa các thành phần kinh tế, tạo ra một cơ cấu
kinh tế bền vững, tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế của đất nước và tiến nhanh
lên chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, thứ tự đó cịn thể hiện mức độ gần gũi của các thành
phần kinh tế với kinh tế xã hội chủ nghĩa. Trong một nước tiểu nông, muốn tiến lên
CNXH phải trải qua một quá trình lâu dài, qua nhiều nấc thang trung gian, CNTB nhà
nước chính là nấc thang trung gian đó. Tóm lại, từ nền kinh tế tiểu nông xuyên qua
CNTB nhà nước lên CNXH là tư tưởng nhất quán trong quan niệm xây dựng CNXH của
Lênin. Đồng thời, Lênin đã có sự thay đổi trong việc nhìn nhận về những đặc điểm kinh
tế của thời kỳ quá độ. Ông cho rằng sự tồn tại và phát triển của các thành phần kinh tế
khác nhau, các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh dựa trên chế độ sở hữu khác nhau
về tư liệu sản xuất, dẫn đến có sự đối lập nhau về lợi ích là điều hiển nhiên, khơng thể
dùng ý chí chủ quan hay sức mạnh hành chính mà phủ nhận sự đối lập đó dẫn đến xóa bỏ
các thành phần kinh tế. Lênin nhận thấy sự tồn tại 5 thành phần kinh tế trong thời kỳ quá
độ là tất yếu, là hợp qui luật; chúng cần tồn tại trong một thời gian cần thiết.
1.2.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá
độ lên CNXH ở Việt Nam.

Hồ Chí Minh cho rằng: “Có nước thì đi lên chủ nghĩa xã hội như Liên Xơ, có
nước phải kinh qua chế độ dân chủ mới rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Có thể hiểu : “chế
độ dân chủ mới” mà Người nói là thời kỳ quá độ lên CNXH. Bác đã nhận thức rõ, thời kỳ
quá độ lên CNXH ở nước ta là một thời kỳ lịch sử mà nhiệm vụ quan trọng nhất của
chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của CNXH,… tiến dần lên
CNXH, có cơng nghiệp và nơng nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong
thời kỳ quá độ lên CNXH ở những nước như nước ta sẽ tất yếu tồn tại đan xen nhiều hình
thức sở hữu khác nhau, chế độ sở hữu thiết yếu phải đa dạng, cơ cấu kinh tế phải có nhiều
thành phần. Và với điểm xuất phát đi lên CNXH của nước ta về kinh tế là thấp kém, cho
thấy cần sự tồn tại của một nền kinh tế nhiều thành phần. Từ nhận định: “Trong nước ta
hiện nay có những hình thức sở hữu chính về tư liệu sản xuất như sau: sở hữu của Nhà

nước tức là của toàn dân, sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao
4
Tim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dangTim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dang


Tim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dangTim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dang

động, sở hữu của người lao động riêng lẻ, một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư
bản”. Tiếp đó Người lí giải: nước ta phải trải qua một giai đoạn dân chủ mới vì “đặc
điểm to lớn của thời kỳ quá độ là một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa
xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Đây là điểm xuất
phát của quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chính điểm xuất phát này là cơ sở
khách quan quyết định tính chất phức tạp của kết cấu kinh tế - xã hội và sự tồn tại các
thành phần kinh tế khác nhau. Từ đó người xác định cơ cấu các thành phần kinh tế trong
thời kỳ quá độ ở nước ta thể hiện ở ba khía cạnh sau:
Một là, Người xác định thành phần kinh tế ở nước ta (vùng tự do 1953) gồm:
- Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô: Đây là thành phần kinh tế của chế độ xã hội
phong kiến. Trong đó, giai cấp địa chủ chiếm ruộng đất và nông cụ nhưng không cày cấy,
“không nhắc chân đụng tay mà lại cửa cao nhà rộng, phú q phong lưu” cịn nơng dân
phải mướn ruộng của địa chủ phải nộp tô, phải hầu hạ “nông dân khơng khác gì nơ lệ”.
Trong chế độ mới, thành phần kinh tế đó đã lỗi thời, chỉ cịn là tàn dư. Nhưng để thực
hiện chính sách đại đồn kết dân tộc, phục vụ chiến lược giải phóng dân tộc, nhằm thu
hút số địa chủ vừa và nhỏ theo cách mạng, ủng hộ kháng chiến, Hồ Chí Minh khơng chủ
trương xóa bỏ thành phần kinh tế này mà chỉ thực hiện giảm tô, giảm tức, tạo điều kiện
cho thành phần kinh tế này đóng góp cho kháng chiến.
- Kinh tế quốc doanh: gồm các cơ sở sản xuất, kinh doanh của nhà nước, là của chung
nhân dân, phục vụ lợi ích của xã hội,... Đây là thành phần kinh tế ra đời trong chế độ dân
chủ mới, có vai trị đáp ứng yêu cầu to lớn và quan trọng của toàn xã hội, của cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Theo Hồ Chí Minh, kinh tế quốc doanh là “nền
tảng và sức lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng ta phải ra sức phát triển

nó và nhân dân ta phải ủng hộ nó”.
- Kinh tế tư bản tư nhân: là thành phần kinh tế của giai cấp tư sản dân tộc. Giai cấp tư sản
nước ta mới ra đời, còn non yếu do bị tư bản nước ngoài chèn ép. Tuy nhiên “về mặt sản
xuất so với chế độ phong kiến thì chế độ tư bản là một tiến bộ to”. Họ có nhiều kinh
nghiệm sản xuất, sử dụng vốn, khoa học kỹ thuật “cho nên, Chính phủ cần giúp họ phát
triển. Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phải phù hợp với lợi
ích của đại đa số nhân dân”.
- Kinh tế tư bản quốc gia: Đây là thành phần kinh tế do Nhà nước và nhà tư bản cùng góp
vốn với nhau để kinh doanh do Nhà nước lãnh đạo. Tư bản của tư nhân là tư bản chủ
nghĩa. Tư bản của Nhà nước là xã hội chủ nghĩa. Theo Lênin, thành phần kinh tế này là
nấc thang, bước trung gian để một nước kém phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội. Và thành
phần kinh tế "nửa chủ nghĩa xã hội" này sẽ tồn tại lâu dài trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
- Ngoài ra cịn có kinh tế hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp có tính chất nửa xã
hội chủ nghĩa; kinh tế cá thể của nông dân và của thủ công nghệ.
5
Tim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dangTim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dang


Tim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dangTim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dang

Hai là: Sau khi hồn thành cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Bắc, giành độc
lập về chính trị, chính quyền đã về tay Nhân dân, Bác chủ trương vừa xây dựng, vừa cải
tạo đất nước. Với sự đa dạng của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ rõ, q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước tiền tư bản (Trung Quốc,
Việt Nam) phải “kinh qua chế độ dân chủ mới”. Dưới chế độ dân chủ mới có 5 loại
thành phần kinh tế khác nhau là:
- Kinh tế quốc doanh (hay kinh tế nhà nước): là thành phần kinh tế có tính chất xã hội
chủ nghĩa, thể hiện ở chế độ sở hữu tồn dân: tài sản các xí nghiệp ấy là của chung của
nhân dân, của Nhà nước, chứ không phải của riêng. Trong quan hệ tổ chức quản lý sản

xuất, “xưởng trưởng, cơng trình sư và cơng nhân đều có quyền tham gia quản lý, đều là
chủ nhân. Việc sản xuất thì do sự lãnh đạo thống nhất của Chính phủ nhân dân”. Kinh tế
quốc doanh có vai trò lãnh đạo nền kinh tế quốc dân, do đó, Nhà nước phải đảm bảo cho
nó phát triển ưu tiên nhằm xây dựng nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội.
- Kinh tế hợp tác xã: bao gồm các hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp, các hội đổi
công ở nông thôn, là thành phần kinh tế có tính chất nửa xã hội chủ nghĩa, được hình
thành từ hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động. Bởi vì, trong thành phần kinh tế
này, “nhân dân góp nhau để mua những thứ mình cần dùng, hoặc để bán những thứ
mình sản xuất không phải kinh qua các người con buôn, không bị họ bóc lột”. Chủ tịch
Hồ Chí Minh coi hợp tác hóa nơng nghiệp là khâu chính thúc đẩy cơng cuộc cải tạo xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc thông qua hình thức tổ đổi cơng và hợp tác xã sản xuất nơng
nghiệp. Đó cũng là sự thống nhất với quan điểm của Lênin về tổ chức hợp tác xã: đảm
bảo tính dân chủ, tự nguyện, bình đẳng, chú trọng lợi ích của hội viên và phù hợp với
điều kiện từng địa phương.
- Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ cơng nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác xã, tức là
nửa chủ nghĩa xã hội): Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, đó là “kinh tế lạc hậu” bởi nó
mang tính tự cung tự cấp, tự túc, ít trao đổi mua bán. Đối với thành phần kinh tế này:
“Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của họ, ra sức hướng dẫn và giúp đỡ
họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất theo nguyên tắc tự
nguyện”
- Kinh tế tư bản tư nhân: là thành phần kinh tế mang tính bóc lột. Họ bóc lột cơng nhân,
nhưng đồng thời họ cũng góp phần quan trọng vào xây dựng kinh tế. Do đó, Nhà nước
thừa nhận quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ nhưng phải hướng dẫn
họ hoạt động nhằm làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của Nhà
nước. Người nhấn mạnh: “Nếu mình thuyết phục khéo, lãnh đạo khéo, họ có thể hướng
theo chủ nghĩa xã hội”. Đồng thời, những hoạt động đầu tư, phát triển kinh tế chính đáng
có lợi cho Việt Nam của kiều bào cũng được Nhà nước giúp đỡ và bảo hộ.
- Kinh tế tư bản của nhà nước: là thành phần kinh tế hỗn hợp. Nhà nước và tư nhân hùn
vốn để kinh doanh, tư bản của tư nhân là chủ nghĩa tư bản, tư bản của Nhà nước là chủ
nghĩa xã hội. Nhà nước thực hiện việc lãnh đạo hoạt động của thành phần kinh tế này

6
Tim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dangTim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dang


Tim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dangTim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dang

theo kế hoạch thống nhất. Để đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh
tế, Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ các nhà tư sản cơng thương cải tạo theo chủ nghĩa
xã hội bằng hình thức cơng tư hợp doanh và những hình thức cải tạo khác. Và, trong nền
kinh tế nhiều thành phần ấy, để khỏi chệch hướng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh nhấn
mạnh rằng phải làm cho kinh tế quốc doanh phát triển nhanh hơn và giữ vai trị chủ đạo.
Nó là nền tảng và sức lãnh đạo của nền kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng ta phải ra
sức phát triển nó và Nhân dân ta phải ủng hộ nó; những nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá
nhân của nơng dân và thủ cơng nghệ là tư. Đó cũng là lực lượng cần thiết cho cuộc xây
dựng kinh tế nước nhà. Phải phát triển kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng cho kinh tế
XHCN; khuyến khích kinh tế hợp tác xã với các hình thức đa dạng, nhấn mạnh nguyên
tắc tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ, Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu
sản xuất cho họ, hướng dẫn và giúp họ cải tiến cách làm ăn. Cho nên kinh tế ta sẽ phát
triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ khơng theo hướng chủ nghĩa tư bản. Thực chất, đó
là quan điểm về nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong
đó, Nhà nước cần quan tâm đến sự phát triển của các thành phần kinh tế ở các mức độ
phù hợp.
Ba là, Hồ Chí Minh đề ra chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ để đảm bảo
ngun tắc đồn kết, phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế trong chiến lược phát
triển kinh tế:
- Công tư đều lợi: “công” là kinh tế quốc doanh, là thành phần kinh tế lãnh đạo của nền
kinh tế dân chủ mới. Đảng, Nhà nước phải ra sức phát triển kinh tế quốc doanh, Nhân
dân phải ủng hộ kinh tế quốc doanh; đồng thời phải trừng trị những người có hành động
phá hoại kinh tế quốc doanh như trộm cắp của công, khai gian lậu thuế. “Tư” bao gồm
những nhà tư bản dân tộc, kinh tế cá nhân của nông dân và thủ công nghệ.

- Chủ thợ đều lợi: thừa nhận sự bóc lột của nhà tư bản là tất yếu, nhưng Chính phủ cần
phải “ngăn cấm họ bóc lột cơng nhân q tay”. Đối với cơng nhân, Đảng và Chính phủ
phải bảo vệ quyền lợi chính đáng của họ. Để đảm bảo lợi ích lâu dài, Người cũng căn
dặn: “Anh chị em thợ cũng để cho chủ được số lợi hợp lý, không yêu cầu quá mức. Chủ
và thợ đều tự giác tự động, tăng gia sản xuất lợi cả đôi bên”. Sự hợp tác trong sản xuất,
việc chấp nhận những quyền lợi trong chừng mực nhất định của cả chủ và thợ cũng là
một trong những động lực để thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
- Công nông giúp nhau: lĩnh vực công thương đẩy mạnh phát triển thương nghiệp và chế
biến, tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa trong nơng nghiệp để làm sợi dây đồn kết “Liên minh
cơng nơng”.
- Lưu thơng trong - ngồi: tức là phải thực hiện chính sách mở cửa phát triển hợp tác kinh
tế theo hướng các bên cùng có lợi. Nói theo ngơn ngữ hiện nay là hội nhập kinh tế quốc
tế, hội nhập quốc tế, tham gia vào các chuỗi cung ứng, chuỗi sản phẩm, chuỗi giá trị.

7
Tim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dangTim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dang


Tim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dangTim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dang

“Bốn chính sách ấy là mấu chốt để phát triển kinh tế của nước ta”. Chỉ bằng
những câu ngắn gọn Hồ Chí Minh đã cho chúng ta thấy những nguyên tắc, mục tiêu cần
hướng tới của nền kinh tế nhiều thành phần là: các thành phần kinh tế phải tồn tại trong
mối quan hệ bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi, tạo nên sự phát triển cân đối của nền kinh tế
quốc dân, thực hiện chính sách mở cửa phát triển hợp tác kinh tế theo hướng các bên
cùng có lợi. Nói theo ngơn ngữ hiện nay là hội nhập kinh tế quốc tế, hội nhập quốc tế,
tham gia vào các chuỗi cung ứng, chuỗi sản phẩm, chuỗi giá trị. Tư tưởng trên của Người
đã được đưa vào cuộc sống và đã đưa lại những thành tựu to lớn. Công cuộc khơi phục
kinh tế 1955-1957 nhanh chóng hồn thành, cơng cuộc cải tạo và phát triển kinh tế 19581960 giành được những thắng lợi to lớn, mở ra một thời kỳ “hoàng kim” của kinh tế xã
hội chủ nghĩa miền Bắc phát triển.

Như vậy, Bác đã kế thừa và vận dụng sáng tạo lý luận của V.I.Lênin về tính chất
nhiều thành phần của nền kinh tế quá độ lên CNXH, và nhận thức cơ cấu các thành phần
kinh tế ở Việt Nam trong từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Nhận thức của Bác về nền kinh
tế nhiều thành phần ở Việt Nam không những tuân thủ quy luật chung của q trình đi
lên CNXH, mà cịn thể hiện sự đánh giá sâu sắc tính đặc thù của những điều kiện chính
trị, kinh tế, xã hội khi bắt đầu xây dựng CNXH. Những nhận thức đó đã tạo cơ sở cho
những quyết sách khoa học ở Hồ Chí Minh và Đảng ta trên lĩnh vực kinh tế trong quá
trình xây dựng CNXH ở miền Bắc trước đây và trên phạm vi cả nước sau này.
2.
2.1.

Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển cơ cấu thành
phần kinh tế nước ta hiện nay.
Sự cần thiết phải sử dụng các thành phần kinh tế ở nước ta:

Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, sự tồn tại của sản xuất hàng hoá là
một tất yếu khách quan, bởi vì nước ta có lực lượng sản xuất còn rất thấp, đang tồn tại
nhiều thành phần kinh tế khác nhau, sự phân công lao động xã hội gắn với nhiều chủ thể
sở hữu khác nhau như các thực thể kinh tế độc lập. Trong những điều kiện đó, việc trao
đổi sản phẩm giữa các chủ thể sản xuất với nhau không thể thực hiện theo nguyên tắc nào
khác là nguyên tắc trao đổi ngang giá, tức là trao đổi hàng hố thơng qua thị trường, sản
phẩm phải trở thành hàng hoá. Ở nước ta trong thời kỳ quá độ, muốn phát triển mạnh mẽ
lực lượng sản xuất thì phải xã hội hố và chun mơn hố lao động. Q trình ấy chỉ có
thể diễn ra một cách thuận lợi trong nền kinh tế hàng hoá. Sản xuất càng xã hội hố,
chun mơn hố, thì càng địi hỏi phát triển sự hiệp tác và trao đổi hoạt động trong xã
hội, càng phải thơng qua sự trao đổi hàng hố giữa các đơn vị sản xuất để đảm bảo những
nhu cầu cần thiết của các loại hoạt động sản xuất khác nhau. Chỉ có đẩy mạnh sản xuất
hàng hố mới làm cho nền kinh tế nước ta phát triển năng động. Kinh tế tự nhiên, do bản
chất của nó chỉ duy trì tái sản xuất giản đơn. Trong cơ chế kinh tế cũ, vì coi thường quy
luật kinh tế giá trị nên các cơ sở kinh tế cũng thiếu sức sống và động lực để phát triển sản

xuất. Sử dụng sản xuất hàng hoá là sử dụng quy luật giá trị, quy luật này buộc mỗi người
sản xuất phải tự chịu trách nhiệm về hàng hố do mình làm ra. Chính vì thế mà nền kinh
8
Tim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dangTim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dang


Tim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dangTim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dang

tế trở nên sống động. Mỗi người sản xuất đều chịu sức ép buộc phải quan tâm tới sự tiêu
thụ trên thị trường sao cho sản phẩm của mình được xã hội thừa nhận và cũng từ đó họ
mới có được thu nhập. Phát triển sản xuất hàng hoá là sự phát triển của lực lượng sản
xuất xã hội, cũng có nghĩa là sản phẩm xã hội ngày càng phong phú, đáp ứng nhu cầu đa
dạng của mọi người. Ở nông thôn nước ta, sự phát triển kinh tế hàng hố và việc tăng tỷ
lệ hàng hố nơng sản đã làm cho hàng hố bán ra của nơng dân nhiều lên, thu nhập tăng
lên, đồng thời các ngành nghề của nông thôn cũng ngày một phát triển, tạo cho nông dân
nhiều việc làm. Đó cũng là điều đã diễn ra ở thành phố, đối với những người lao động
thành thị. Phát triển hàng hố có thể đào tạo ngày càng nhiều cán bộ quản lý và lao động.
Muốn thu được lợi nhuận, họ cần phải vận dụng nhiều biện pháp để quản lý kinh tế, thúc
đẩy tiến bộ kinh tế hạ giá thành sản phẩm làm cho sản xuất phù hợp với nhu cầu của thị
trường, nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh tế. Qua các cuộc cạnh tranh trên thị trường
những nhân tài quản lý kinh tế và lao động thành thạo xuất hiện ngày càng nhiều và đó là
một dấu hiệu quan trọng của tiến bộ KT. Như vậy phát triển sản xuất hàng hoá đối với
nước ta là một tất yếu khách quan, một nhiệm vụ cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu
sang nền kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Đó là con đường
đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất, khai thác có hiệu quả tiềm năng của đất nước
để thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hố, hiện đại hố. Kinh tế hàng hố khơng đối lập với
các nhiệm vụ kinh tế xã hội của thời kỳ quá độ tiến lên XHCN mà trái lại thúc đẩy các
nhiệm vụ đó phát triển mạnh mẽ hơn. Thực tiễn của những năm đổi mới chỉ ra rằng, việc
chuyển sang mơ hình kinh tế hàng hố là hồn tồn đúng đắn nhờ mơ hình kinh tế đó ,
chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước đi đôi với thu hút vốn và kỹ

thuật nước ngồi giải phóng được năng lực sản xuất trong xã hội, phát triển lực lượng sản
xuất, góp phần quyết định đảm bảo nhip độ tăng trưởng GDP, tiềm lực, quy mô của nền
kinh tế được nâng lên, GDP năm 2020 đạt 343,6 tỉ USD (đứng thứ 4 Đông Nam Á; Tốc
độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm 2016 - 2020 đạt khoảng 6%/năm, năm 2020 đạt
2,91%; Thu nhập bình quân đầu người đạt 3.521 USD năm 2020. ( xếp thứ 6 ASEAN);
Dự trữ ngoại hối đạt gần 100 tỷ USD; Xếp thứ 42/131 quốc gia và nền kinh tế về chỉ số
đổi mới và sáng tạo. Những kết quả nêu trên, một lần nữa khẳng định rằng chúng ta hoàn
toàn tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng; đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn
đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Các thành phần kinh tế trong nền kinh
tế Việt Nam đảm bảo tính quy luật chung và tính đặc thù và phù hợp với thực tiễn đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Mỗi thành phần kinh tế tồn tại có ví trí,
vai trị riêng để thực hiện các nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ
sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn chủ nghĩa xã hội và thể hiện tinh thần dân chủ về kinh tế
tuân thủ theo pháp luật. Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định: “Kiên định và vận
dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên
định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa”.
9
Tim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dangTim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dang


Tim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dangTim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dang

2.2.

Bản chất và cơ cấu các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ:

2.2.1.


Bản chất của các thành phần kinh tế:
Bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH, trong nền kinh tế của mỗi nước, số lượng của
các thành phần kinh tế và tỷ trọng kinh tế có thể khác nhau tuỳ theo đặc điểm cụ thể của
từng nước và trong mỗi nước lại tuỳ từng giai đoạn. Thực tiễn hơn 30 năm Việt Nam
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, chúng ta đã có sự
lựa chọn sáng suốt, đúng đắn khi quyết định chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (2/1986). Điều đó đã tạo ra bước đột phá
về tư duy đổi mới thể chế, cơ chế trong quản lý kinh tế và đã vận dụng một cách sáng tạo
nhất quan điểm của Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về các thành phần kinh tế trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tùy vào từng giai đoạn phát triển kinh tế của đất nước
mà Đảng và Nhà nước ta đã lựa chọn từng thành phần kinh tế cho phù hợp, nhưng quan
điểm nhất quán trong suốt thời kỳ đổi mới cho đến nay, Đảng ta khẳng định phải phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần, dựa trên nhiều hình thức sở hữu. Hiện nay, nền kinh
tế nước ta có các thành phần sau đây:
- Kinh tế nhà nước: là thành phần kinh tế bao gồm các doanh nghiệp nhà nước các xí
nghiệp quốc gia và tài sản thuộc quyền sở hữu nhà nước như đất đai, hầm mỏ, rừng, biển
ngân sách, các quỹ dự trữ của ngân hàng nhà nước,... Kinh tế nhà nước rộng và mạnh hơn
doanh nghiệp nhà nước phân biệt được hai phạm trù này nhận thức đầy đủ vai trò kinh tế
nhà nước là một bước phát triển về nhận thức thực tiễn nền kinh tế nước ta trong quá
trình đổi mới.
- Kinh tế tập thể: là hình thức liên kết của những người lao động nhằm kết hợp sức mạnh
của từng thành viên với sức mạnh tập thể để giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề của
sản xuất, kinh doanh và đời sống. Kinh tế tập thể phát triển với nhiều hình thức hợp tác
đa dạng từ thấp đến cao từ tổ nhóm hợp tác đến hợp tác xã theo tắc tự nguyện, bình đẳng,
đơi bên cùng có lợi, quản lý dân chủ thực hiện đúng luật hợp tác xã. Kinh tế tập thể được
phát triển, rộng rãi và đa dạng trong các ngành nghề ở nông thôn và thành thị, nó giữ vai
trị quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành

nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân
- Kinh tế cá thể, tiểu chủ: (Của nông dân, thợ thủ công, người làm thương nghiệp và
người làm cá thể) bao gồm những đơn vị kinh tế dựa trên hình thức sở hữu tư nhân qui
mô nhỏ về tư liệu sản xuất và hoạt động dựa vào sức lao động của từng hộ là chủ yếu.
Trong một số ngành nghề ở nông thôn và thành thị kinh tế cá thể và tiểu chủ có vị trí
quan trọng nó có khả năng tận dụng tiềm năng về vốn, sức lao động, tay nghề của từng
gia đình, từng người lao động. Nhưng đến một trình độ nhất định, việc mở rộng sản xuất
kinh doanh của kinh tế cá thể tiểu chủ sẽ bị hạn chế vì thiếu vốn, trình độ cơng nghệ thấp
10
Tim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dangTim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dang


Tim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dangTim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dang

và khó tìm thị trường tiêu thụ, bởi vậy cần được sự hỗ trợ của nhà nước để khắc phục
những hạn chế nói trên. Các đơn vị kinh tế cá thể tiểu chủ có thể tồn tại độc lập, hoặc
tham gia các loại hình kinh tế tập thể, hay liên doanh liên kết với các doanh nghiệp nhà
nước dưới nhiều hình thức.
- Kinh tế tư bản tư nhân: là các đơn vị kinh tế mà vốn do một hoặc một số nhà tư bản góp
lại để sản xuất kinh doanh và thuê mướn nhân công. Kinh tế tư bản tư nhân có nhiều hình
thức là xí nghiệp tư doanh hay công ty trách nhiệm hữu hạn. Kinh tế tư bản tư nhân dựa
trên sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê.
Trong đIều kiện quá độ lên CNXH ở nước ta, thành phần kinh tế này cịn có vai trò đáng
kể xét về phương diện phát triển lực lượng sản xuất, xã hội hoá sản xuất cũng như về
phương diện giải quyết các vấn đề xã hội.
- Kinh tế tư bản nhà nước: là đơn vị kinh tế hình thành do sự liên doanh giữa nhà nước
xã hội chủ nghĩa với tư bản tư nhân trong nước hoặc với tư bản tư nhân nước ngoàI, kinh
tế tư bản nhà nước ra đời còn do nhà nước xã hội chủ nghĩa góp vốn cổ phần hoặc do tư
nhân ở trong và ngoài nước thuê tài sản , kinh tế tư bản nhà nước là cầu nối giữa sản xuất
nhỏ với sản xuất lớn. Đảng ta đã khẳng định kinh tế tư bản nhà nước có vai trị quan

trọng trong việc động viên tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý
của các nhà tư bản, vì lợi ích của bản thân họ cũng như cơng việc xây dựng và phát triển
đất nước.
Tuy nhiên, trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, XII, Đảng ta hầu
như khơng hoặc có đề cập nhưng không rõ ràng về thành phần kinh tế tư bản nhà nước,
đây là thành phần kinh tế mà theo Lênin là nó có vai trị rất quan trọng, là thành phần
kinh tế trung gian trong việc liên kết thành phần kinh tế tư bản tư nhân với thành phần
kinh tế xã hội chủ nghĩa, là “chiếc cầu nhỏ vững chắc đi xuyên qua” chủ nghĩa tư bản, để
đi vào chủ nghĩa xã hội, là thành phần kinh tế có vai trò cầu nối giữa TBTN và XHCN,
để thành phần kinh tế XHCN định hướng thành phần kinh tế tư bản tư nhân đi đúng định
hướng xã hội chủ nghĩa. Ở nước ta, đây là thành phần kinh tế đóng vai trò trung gian giữa
Thành phần kinh tế tư nhân với Thành phần kinh tế nhà nước, đó là sự kiên kết giữa tư
nhân trong nước, nước ngồi với tổng cơng ty, tập đồn kinh tế nhà nước. Thơng qua đó
chúng ta có thể học hỏi kinh nghiệm quản lý doanh nghiệp, cơng ty, tổng cơng ty, tập
đồn kinh tế kinh tế tư nhân trong thời kỳ đẩy mạnh kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta.Trong văn kiện XII Đảng ta không đề cập một cách rõ ràng nhất về
thành phần kinh tế này, chỉ đề cập đến một nội dung nhỏ về thành phần kinh tế tư bản
nhà nước “tạo điều kiện hình thành một số tập đoàn kinh tế tư nhân và tư nhân góp vốn
vào các tập đồn kinh tế nhà nước”, nếu chúng ta đi phân tích nội dung này với khái
niệm thành phần kinh tế tư bản nhà nước thì nội hàm của nó gần như giống nhau, bởi vì,
thành phần kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế liên kết giữa tư nhân trong nước
và nước ngoài với Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

11
Tim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dangTim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dang


Tim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dangTim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dang

2.2.2.


Mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế:
Các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH có mối quan hệ và tác
động qua lại lẫn nhau, hoạt động đan xen vào nhau trong cơ cấu kinh tế quốc dân thống
nhất. Vai trò của các thành phần kinh tế, mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế phụ
thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, hiệu quả sản xuất kinh doanh và sự
đóng góp của chúng vào sự phát triển của nền kinh tế. Mỗi thành phần kinh tế dựa trên
một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Các hình thức sở hữu về tư liệu sản
xuất tuy có sự độc lập tương đối và cơ bản có bản chất riêng, nhưng trong hoạt động sản
xuất kinh doanh không có sự ngăn cách và có thể hỗn hợp, đan kết với nhau (cùng một
chủ sở hữu có thể tham gia nhiều quan hệ sở hữu, cùng một đối tượng sở hữu có nhiều
quan hệ sở hữu). Hình thành các tổ chức kinh doanh đa dạng trong nền kinh tế quốc dân
thống nhất do nhà nước hướng dẫn, điều tiết, kiểm soát, cùng với việc nhà nước nắm giữ
những vị trí then chốt các chủ thể sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế vừa
hợp tác với nhau, bổ sung cho nhau vừa cạnh tranh với nhau bình đẳng trước pháp luật.
Đại diện cho mỗi thành phần kinh tế là giai cấp hoặc tầng lớp xã hội nhất định mà tổng
hợp toàn bộ tạo thành cơ cấu xã hội - giai cấp. Trong cơ cấu xã hội giai cấp ấy mỗi giai
cấp mỗi tầng lớp xã hội, các chủ thể sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế
đều có những lợi ích kinh tế riêng, vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau, hơn nữa nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động phát triển theo các quy luật kinh tế thị
trường, đồng thời chịu sự đIều tiết của nhà nước theo định hướng XHCN.
Tóm lại, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh” ở nước ta
một mặt chính là sự tiếp tục lơgíc khách quan của nền kinh tế, mặt khác còn là sự tiếp tục
tư tưởng của Lênin và Hồ Chí Minh về nền kinh tế nhiều thành phần trên một nền tảng và
trong một hoàn cảnh khác và được phát triển lên một trình độ mới và hình thức mới. Điều
đó được thể hiện ở các nội dung:
Thứ nhất, các thành phần kinh tế không chỉ phát triển bên cạnh nhau mà cịn thâm nhập
vào với nhau nhiều hình thức kinh tế hỗn hợp, đa dạng kể cả hình thức kinh tế cổ phần,
tạo thành một chỉnh thể của nền kinh tế quá độ.

Thứ hai, trong các thành phần kinh tế, quyền sở hữu và quyền sử dụng tư liệu sản xuất
được tách biệt và có cơ chế đảm bảo để huy động động lực của sự phát triển.
Thứ ba, trong cơ chế kinh doanh, thừa nhận quyền tự chủ sản xuất và hoạt động kinh tế
của các đơn vị kinh tế kể cả hộ gia đình.
Thứ tư, cơ chế thị trường tác động mạnh mẽ, các thành phần kinh tế vừa cạnh tranh vừa
hợp tác với nhau để cùng phát triển dưới tác động của luật pháp và theo luật pháp của nhà
nước, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo.
Thứ năm, phát triển kinh tế nhiều thành phần là lực lượng và sức mạnh để công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, trên cơ sở đó mà các thành phần kinh tế cùng phát triển. Như vậy, tư
12
Tim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dangTim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dang


Tim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dangTim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dang

tưởng của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đã được phát triển lên trình
độ mới với một hình thức mới, phù hợp với quy luật vận động của sự phát triển kinh tế và
xu thế phát triển của thế giới. Tuy nhiên xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và
khu vực vừa tạo ra những thời cơ thuận lợi đồng thời cũng có nhiều thử thách gay go đặt
ra cho các thành phần kinh tế. Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta
nhằm giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa các nguồn lực cho phát triển kinh tế, tạo
điều kiện cho công bằng xã hội, dân chủ hóa nền kinh tế, tăng sức mạnh của khối đại
đoàn kết dân tộc theo tinh thần của Hồ Chí Minh: “Cơng tư đều lợi, chủ thợ đều lợi, lưu
thơng trong ngồi”.
Sau gần 20 năm thực hiện đường lối đổi mới chúng ta đã giành được những thành
tựu to lớn, tồn diện, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội;
kinh tế tăng trưởng khá nhanh, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bước
đầu được xây dựng; công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước được đẩy mạnh. Tuy nhiên
bên cạnh đó chúng ta cịn những hạn chế đó là nước ta chưa ra khỏi tình trạng kém phát
triển và vẫn tồn tại nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và

trên thế giới. Quá trình hình thành và phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần cũng nảy
sinh những hạn chế, mâu thuẫn cần được khắc phục như: Sự mâu thuẫn giữa việc phân
định các thành phần kinh tế trên đường lối, chủ trương với sự hình thành và tồn tại của
chúng trên thực tế; mâu thuẫn giữa vai trò chủ đạo được trao cho thành phần kinh tế nhà
nước với hiệu quả hoạt động kém của nó; mâu thuẫn giữa yêu cầu bình đẳng trước pháp
luật với chính sách ưu đãi riêng đối với từng thành phần kinh tế; mâu thuẫn giữa tư bản
và lao động,... Từ cơng cuộc đổi mới, Đảng ta có thể rút ra những bài học quý báu trong
rất nhiều bài học mà Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta:
Một là: Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, coi đó là nguyên tắc là "cái bất biến" trong sự
nghiệp đổi mới, nhưng phải biết vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin vào
điều kiện cụ thể của nước ta mà Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về sự trung thành đổi
mới và sáng tạo. Chính điều đó đã mang lại những thắng lợi vẻ vang cho cách mạng Việt
Nam.
Hai là: Phải luôn gắn lý luận với thực tiễn, mọi tư tưởng và hoạt động luôn gắn với quy
luật phát triển khách quan của lịch sử, phải đáp ứng yêu cầu do thực tiễn đặt ra như Hồ
Chí Minh đã nói: “Lý luận cốt áp dụng vào cơng việc thực tế”, “lý luận phải đem ra thực
hành. Thực hành phải nhằm theo lý luận”.
Như vậy, trong các chặng đường phát triển kinh tế khác nhau thì nhận thức về
thành phần kinh tế cũng có sự thay đổi, đó là quá trình khách quan phù hợp với quy luật
nhận thức. Cho nên, quá trình đổi mới tư duy về các thành phần kinh tế ở nước ta qua các
kỳ Đại hội của Đảng là hoàn toàn phù hợp với nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế
ngày càng sâu, rộng hơn.
13
Tim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dangTim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dang


Tim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dangTim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dang

KẾT LUẬN

Hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần vẫn có vai trị
quan trọng và ý nghĩa phương pháp luận cần được quán triệt và vận dụng sáng tạo để góp
phần cho sự nghiệp đổi mới phát triển nền kinh tế đất nước. Dự thảo văn kiện đại hội X
đã rút ra bài học lớn trong quá trình 20 năm đổi mới là: “Trong quá trình đổi mới phải
kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời luôn nhạy bén với cái mới, với những phát triển mới của
thực tiễn”. Dự thảo cũng đã nêu rõ về vấn đề phát triển các thành phần kinh tế: “nước ta
có ba chế độ sở hữu là: sở hữu tồn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân; thể hiện dưới
bốn hình thức có bản: sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp”
và “tương ứng với bốn thành phần sở hữu cơ bản trên, nền kinh tế nhà nước ta có bốn
thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và kinh tế hỗn hợp. Kinh tế nhà
nước giữ vai trị chủ đạo”.
Qua đó có thể thấy, phát triển kinh tế nhiều thành phần là vấn đề có ý nghĩa chiến
lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH và thể hiện tinh thần dân chủ
về kinh tế bảo đảm cho mọi người được tự do làm ăn theo pháp luật. Các thành phần kinh
tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH được Đảng ta vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh Việt
Nam. Từ đó từng Đại hội trong thời kỳ đổi mới ln thực hiện chính sách kinh tế nhiều
thành phần. Nhà nước cần phát huy sức mạnh tổng hợp các thành phần kinh tế, qua đó
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội của nước ta.
Một lần nữa chúng ta lại thấy sáng ngời tư duy sáng tạo của chủ tịch Hồ Chí Minh và của
Đảng ta trong tư tưởng về sự phát triển nền kinh tế - xã hội theo phép biện chứng khách
quan của lịch sử trong hoàn cảnh cụ thể. Với đường lối lãnh đạo của Đảng, dưới ánh sáng
tư tưởng của Người, chúng ta có quyền hy vọng trong tương lai không xa, nền kinh tế
Việt Nam sẽ phát triển lên một tầm cao mới, thực hiện thắng lợi trong sự nghiệp cơng
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Đồng thời, là sinh viên của trường Đại học Kinh tế
Quốc dân, mỗi chúng ta gần cố gắng học hành, rèn luyện và tu dưỡng phát triển bản thân
để xứng đáng với cơng sức của Hồ Chí Minh, của Đảng và nhà nước, góp một phần cơng
sức nhỏ bé của mình vào việc phát triển của đất nước. Cảm ơn thầy đã cho chúng em
những bài giảng hay và một đề tài thật bổ ích để chúng em có cơ hội tìm hiểu và biết
thêm về tư tưởng Hồ Chí Minh.


14
Tim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dangTim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dang


Tim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dangTim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dang

Tim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dangTim.hieu.va.phan.tich.quan.diem.cua.ho.chi.minh.ve.co.cau.thanh.phan.kinh.te.trong.thoi.ky.qua.do.len.chu.nghia.xa.hoi.o.viet.nam..su.van.dung.quan.diem.neu.tren.cua.dang



×