TÔN GIÁO ĐÔNG BẮC Á
So sánh ảnh hưởng của Phật giáo đến văn hóa Trung Quốc với
Việt Nam hiện nay
Họ tên: Phạm Thị Minh Trang
1
MỤC LỤC
A, Giới thiệu chung về Phật giáo .........................................................3
B, Vài nét về Phật giáo ở Trung Quốc và Việt Nam
I.
Trung Quốc ..............................................................................6
1, Sự du nhập ...........................................................................6
2, Sự phát triển.........................................................................8
II.
Việt Nam ...................................................................................11
1, Sự du nhập ...........................................................................11
2, Sự phát triển.........................................................................12
C, Ảnh hưởng của Phật giáo đến tư tưởng và tính cách của người dân
Trung Quốc và Việt Nam,
I.
Ảnh hưởng đến người dân Trung Quốc .................................13
II.
Ảnh hưởng đến người dân Việt Nam .................................... 18
C. KÊT LUẬN ..................................................................................... 23
2
A. Giới thiệu chung về Phật giáo
Theo truyền thuyết, người sáng lập ra Phật giáo là Siddharta Gautama, sau
khi thành Phật được đệ tử tôn xưng là Xakia Muni ( Thích ca Mâu ni), con
vua Sutdodana nước Capilavaxtu ở chân núi Hymalaya.
Năm 29 tuổi, hoàng tử Siddharta xuất gia đi tu dể tìm kiếm con đường cứu
với những khổ đau của loài người. Đến năm 35 tuổi, ngài đã nghĩ ra đước
cách giải thích bản chất của tồn tài, nguồn gốc của mọi khổ đau, do đó cho
rằng đã tìm được con đường cứu vớt. Từ đó, ơng đượcc gọi là Buddha, ta
quen gọi là Phật hoặc Bụt, nghĩa là “người giác ngộ”, “người đã hiểu được
chân lí”
•
Học thuyết Phật giáo
Nội dung chủ yếu của học thuyết Phật giáo được tóm tắt trong câu nói sau
đây của Phật Thích ca: “Trước đây và ngày nay ta chỉ lí giải và nêu ra cái
chân lí về nỗi đau khổ và sự giải thoát khỏi nỗi đau khổ”. “ Cũng như nước
đại dương chỉ có một vị mặn, học thuyết của ta chỏ có một vị là cứu vớt”
Cái chân lí về nơi đau khổ và sự giải thốt khỏi nỗi đau khổ ấy được thể
hiện trong thuyết “ tứ thánh đế” hoặc còn gọi là “tứ diệu đế”, “tứ chân đế”,
“tứ đế”, nghĩa là 4 chân lí thánh. Đó là khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế.
•
Khổ đế: chân lí về các nỗi đau khổ.Theo Phật, con người có tám nỗi
khổ bát khổ): sinh, lão, bệnh, tử, gần kẻ mình khơng ưa, xa người mình u,
cầu mà khơng được, giữ lấy 5 uẩn (thủ ngũ uẫn)
3
•
Tập đế: chân lí về nguyên nhân của các nỗi khổ
•
Diệt đế: chân lí về sự chấm dứt các nỗi khổ
•
Đao đế: chân lí về con đường diệt khổ tức là phương pháp thực hiện
việc diệt khổ. Con đường đó gọi là “bát chính đạo”
Về mặt thế giới quan, nơi dung cơ bản của học thuyết Phật giáo là thuyết
“Duyên khởi”. Duyên khởi ;à chủ nói tắt câu” chư pháp di nhân duyên nhi
khởi” nghĩa là “ các pháp đều di nhân duyên mà có”
“Pháp” là tất cả mọi sự vật, bao gồm cả vật chất và tinh thần. Giáo lí của
đạo Phật cũng là sự vật nên cũng gọi là “pháp”
Cịn nhân dun là ngun nhân, nhưng trong đó, nhân là nguyên nhân chủ
yếu, duyên là nguyên nhân phụ. Ví dụ: Sở dĩ một cái cây có thể nảy mầm và
phát triển được là nhờ có hạt giống, đất, nước, khí trời, ánh sáng, trong đó,
hạt giống là nhân, đất nước, khí trời, ánh sáng là duyên.
Do quan niệm duyên khởi sinh ra vạn vật nên đạo Phật chủ trương “vơ tạo
giả” tức là khơng có vị thần linh tối cao tạo ta vũ trụ. Bên canh đó, đạo Phật
cịn nêu ra các thuyế “ vơ ngã”, “vơ thường”
Vơ ngã là khơng có những thực thể vật chất tồn tại tại một cách cố định.
Con người cũng chỉ là sự tập hợp của 5 uẩn sắc, thụ, tưởng, hành, thức chứ
không phải là một thực thể tồn tại lâu dài.
4
Vô thường là mọi sự vật đều ở trong quá trình sinh ra, biến đổi, tiêu diệt chứ
khơng bao giờ được ổn định.
Như vậy, vể thế giới quan, tuy Đạo phật ban đầu chủ trương vô thần (vô tạo
giả) nhưng chung quy vẫn là duy tâm chủ quan.
Về mặt xã hội, đạo Phật không quan tâm đến chế độ đẳng cấp, vì đạo Phật
cho rằng ngưồn gốc xuất thân của mỗi người không phải là điều kiện để
được cứu vớt. Mọi người, dù thuộc đẳng cấp nào, một khi đã tu hành theo
học thuyết của Phật thì đều trở thành những thành viên bình đẳng của một
Tăng đồn.
5
B. Vài nét về Phật giáo ở Trung Quốc và Việt Nam
I. Phật giáo ở Trung Quốc.
1. Sự du nhập
Theo nhiều nguồn sử liệu, hai thế kỷ đầu sau ngày đức Phật Niết-bàn,
địa bàn hoạt động của Phật giáo chỉ giới hạn quanh lưu vực sông Hằng của
Ấn Độ; nhưng vào nửa thế kỷ thứ III T.CN, Phật giáo bắt đầu vượt biên giới
và truyền bá sang nhiều quốc gia lân cận.
Về phương diện địa lý, người ta có thể từ Ấn Độ đến Trung Quốc
bằng cả đường bộ lẫn đường thủy. “Lịch Sử Phật Giáo Trung Quốc” viết
rằng, trước hết, từ Ấn Độ Phật giáo được truyền vào nước Đại Nhục Chi
(Tukhàra), An Tức (Parthia) thuộc Bắc Ấn, sau đó phát triển sang vùng Tây
Vực và cuối cùng đến Trung Quốc. Theo tác phẩm trên, các nước thuộc Tây
Vực nằm rải rác quanh sa mạc Takla-makan, dọc theo chân của ba dãy núi
Thiên Sơn, Côn Lôn, và Thông Lĩnh mà hợp thành. Con đường xuyên qua
vùng này là lộ trình trọng yếu nối kết hai nền văn hóa Trung-Ấn. Từ Tây
Vực người ta có thể đi đến Ấn Độ bằng hai con đường, một từ phía Bắc, và
một từ phía Nam. Nếu đi từ phía Nam, người ta sẽ khởi hành từ Đơn Hồng
và Ngọc Mơn thuộc địa phận Trung Hoa, dọc theo phía Bắc núi Cơn Lơn đi
qua các nước như Lop-Nor, Khotan, Yarkand và đến Kashgar. Từ Kashgar
người ta đi dọc theo phía Tây núi Thơng Lĩnh, rẽ về phía Nam nối kết với
ngả đường Bắc Ấn Độ. Nếu đi từ phía Bắc người ta cũng khởi hành từ Đơn
Hồng, Ngọc Mơn rồi đi dọc theo chân núi phía Nam của dãy Thiên Sơn,
xuyên qua các nước Hàmi (Y Ngô), Turfan (Cao Xương), Karashar (Yên
6
Kỳ), Kuccha (Khâu Tư), Aksu (Cơ Mặc), Ush (Ơn Túc), đến Kashgar, nối
liền với con đường ở phía Nam Ấn Độ.
Các đồn thương gia và truyền giáo cũng có thể từ Ấn Độ đến Trung
Quốc bằng đường biển. Những hải cảng chính ở Vịnh Bengal là cảng
Kaveripattanam nằm tại cửa sông Cauvery, và cảng Tamralipti nằm ở cửa
sông Hằng. Vào thời điểm đó, tàu đi Trung Quốc sẽ khởi hành từ
Bharukaccha (ngày nay là Broach) nằm ở bờ Tây Ấn Độ. Sau khi rời các
cảng trên, tàu ghe có thể xuôi buồm thẳng đến Java, hoặc đi theo bờ biển
dọc quanh bán đảo Malay cho đến khi đến Tonkin hoặc Canton thuộc phía
Nam Trung Quốc. Vào đầu nửa thế kỷ thứ VII khi quyền lực của Trung Hoa
khơng cịn ảnh hưởng lớn đến vùng Trung Á, ngày càng có nhiều Tỷ-kheo
chọn đường biển làm phương tiện chính trong việc qua lại giữa hai nước
Ấn-Hoa. Ví dụ, vào năm 671 Nghĩa Tịnh rời Trung Hoa để chiêm bái Ấn
Độ bằng đường biển; rồi vào năm 695 ngài cũng trở về lại quê hương bằng
con đường này.
Vào khoảng thế kỷ thứ I T.CN Phật giáo thật sự đã định hình một cách
ổn cố ở vùng Trung Á. Sau đó, nhiều phái đồn truyền giáo vượt qua dải sa
mạc đầy hiểm nguy để đưa Phật giáo vào các trung tâm văn minh và thịnh
vượng của Trung Hoa. Vào thời điểm đó, đế chế hùng cường và bành
trướng Hán Triều đang trị vì đất nước Trung Quốc. Trong khi ấy, tận miền
Tây của đại lộ giao thông thuộc châu Á, dân tộc Scythians đang củng cố
lãnh địa của họ; tại đây Phật giáo đã có một nền tảng vững chắc. Giới lái
bn, thương nhân thường có những chuyến du hành qua lại giữa hai trung
7
tâm văn minh này. Vào đầu kỷ nguyên Thiên chúa giáo, một số đoàn truyền
bá Phật giáo cũng hiện diện trong số đó và cuộc giao thoa ấy đã mở ra một
trong những bước chuyển động văn hóa vĩ đại nhất trong lịch sử Trung Hoa.
2. Sự phát triển của Phật giáo
Mới đầu nhiều người nghĩ rằng, đạo Phật là một tông phái của đạo Lão
(Lão Tử). Sự hiểu lầm này bắt nguồn từ quan điểm chung của hai tôn giáo
này; cả hai đều hướng đến giải thốt. Có người cho rằng, mới đầu người
Trung Quốc không hiểu đạo Phật vì ngơn ngữ chữ Hán thời đó khơng tiếp
cận được với các khái niệm hoàn toàn trừu tượng của Phật giáo và khi dịch
kinh sách Phật giáo, người ta đành dùng ngơn ngữ đạo Lão. Vì vậy về sau,
khi đạo Phật đã phổ biến, công các dịch giả rất lớn và tên tuổi của họ còn
lưu truyền đến ngày nay. Khoảng thế kỉ thứ 3, các nhà dịch kinh bắt đầu
dịch từ Phạn ngữ ra tiếng Hán, mà những đại diện kiệt xuất là An Thế Cao
(安世高), người chuyên dịch các kinh Tiểu thừa, và Chi Khiêm (支謙),
người chuyên dịch các tác phẩm Đại thừa.
Năm 355, Tăng-gia được thành lập. Kể từ thế kỉ thứ 4, nhiều trường
phái Bát-nhã-ba-la-mật-đa ra đời với Cao tăng Chi Độn (支遁; Chi Đạo
Lâm) là nhân vật quan trọng nhất. Năm 399, Pháp Hiển đi Ấn Độ và sau đó
một số Cao tăng khác như Nghĩa Tịnh và Huyền Trang cũng lên đường đi
Ấn Độ.
Năm 629, Huyền Trang cũng lên đường đi Ấn Độ và đã mang về một
số lượng đồ sộ kinh thư từ Ấn Độ. Sau đó ơng đã dành trọn phần đời còn lại
8
để dịch những kinh thư này. Các bản dịch của ơng có độ chính xác cao.,trở
thành bản dịch tiêu chuẩn, rất được ưa chuộng tại Trung Hoa, Nhật Bản và
Triều Tiên (cũng như Việt Nam).
Trong thế kỉ thứ 5, thứ 6, Phật giáo phát triển mạnh mẽ và được sự
ủng hộ của triều đình. Nhờ vậy trong thời gian này, nhiều chùa chiền được
xây cất, nhiều tác phẩm ra đời. Vào năm 466 và 574-577 có hai lần Phật
giáo bị bức hại nhưng vẫn phát triển mạnh. Trong thời kì này, hai vị có cơng
lớn nhất trong việc dịch kinh điển là Cưu-ma-la-thập ( 鳩 摩 羅 什 , sa.
kumārajīva) và Chân Đế (真諦, sa. paramārtha). Với trình độ văn chương
rất cao, hai vị này đã làm cho hầu hết các kinh Tiểu thừa và Đại thừa đều có
mặt tại Trung Quốc. Đóng vai trị quan trọng trong Phật giáo Trung Quốc là
Nhập Lăng-già kinh (入楞伽經, sa. laṅkāvatārasūtra), Đại bát-niết-bàn kinh
(zh. 大般涅槃經, sa. mahāparinirvāṇa-sūtra) và Thành thật luận (zh. 成實
論, sa. satyasiddhi). Từ đó, các tơng phái như Tam luận tông (zh. 三論宗),
Thành thật tông (zh. 成實宗) và Niết-bàn tông (zh. 涅槃宗) ra đời.
Giữa thế kỉ thứ 6 và thứ 10, Phật giáo Trung Quốc phát triển rực rỡ.
Các tông Hoa Nghiêm (zh. 華嚴), Thiên Thai (天台), Thiền (禪), Tịnh độ
(淨土), Pháp tướng (法相) ra đời, trong đó người ta nhắc nhở đến các vị
Cao tăng như Huyền Trang Tam tạng (玄奘), Trí Khải (智顗), Đỗ Thuận
(杜順). Với sự hiện diện của Huệ Năng (慧能) và các môn đệ kế thừa,
Thiền tông phất lên như một ngọn lửa sáng rực đời nhà Đường.
9
Với thời gian, giáo hội Phật giáo, nhờ không bị đánh thuế, đã trở thành
một tiềm lực kinh tế và có những điểm mâu thuẫn với triều đình. Nhiều
nơng dân cúng dường đất cho nhà chùa rồi thuê lại đất đó để trốn thuế. Năm
845, Phật giáo bị bức hại, giáo hội bị triệt hạ, tăng ni bị buộc phải hồn tục.
Từ thời điểm đó, Phật giáo Trung Quốc khơng bao giờ trở lại được thời đại
huy hoàng như trước, nhưng vẫn để lại những dấu ấn quan trọng trong nền
văn hoá nước này.
Trong đời nhà Tống (thế kỉ 10-13), Phật giáo hoà nhập với Khổng
giáo và Lão giáo thành một nền văn hố, trong các tơng phái chỉ cịn Thiền
và Tịnh độ là quan trọng. Dưới thời nhà Minh (thế kỉ 14-17), có một khuynh
hướng hợp nhất giữa Thiền và Tịnh độ (Thiền Tịnh hợp nhất 禪淨合一) và
gây được ảnh hưởng đáng kể. Nhân vật nổi bật thời này là Vân Thê Châu
Hoằng.
Giữa thế kỉ thứ 17 và 20, Phật giáo Tây Tạng bắt đầu gây ảnh hưởng
tại Trung Quốc. Qua thế kỉ 20, Phật giáo Trung Quốc lại bị bức hại, nhất là
trong thời kì cách mạng văn hoá (1966-1976).
10
II. Phật giáo ở Việt Nam
1. Sự du nhập
Qua lịch sử,Phật giáo từ Ân Độ truyền vào Việt Nam cùng thời với con
đường truyền qua Trung Quốc
Theo cuốn“Cổ sử các nước Ân Độ hóa ở vùng Viễn Đơng” và cuốn
Roman coinsINDIA-1964P.559-683 cùa R.Sewedl.Trong những năm đầu
của công nguyên,các thương nhân hằng hải của Ân Độ qua miền Viễn Đông
để buôn bán,đạo Phật đã theo bằng đường thủy qua Srilanca, Java,
Inddônêxia, Ân Độ Chi Na và Trung Quốc. Ở những nơi thương nhân ghé
lại, nơi thừa tự được Lâp để nguyện câù bình an, may mắn. Từ đó, tư tưởng
tơn giáo được thiết lập.
Theo cuốn “Ngơ chí” của Trung Quốc vào đời Hán thì có nói: Sĩ
Nhiếp trong buổi loạn lạc đã giữ yên quận Giao Châu, giúp dân an cư lạc
nghiệp. Vì thế ơng được người dân bản xứ tơn kính. Đi đâu ơng cũng có
người Hồ đi theo hai bên đường. Mà theo Sylvainlevi, Hồ là từ mà người
Trung Quốc dùng để chỉ người Trung Á hay Ân Độ. Như vậy, người Ân
Độ , kể cả các nhà sư có nhiều ở Giao Châu lúc bấy giờ. Bản thân Sĩ Nhiếp
cũng đã theo đạo Phật, đi đâu cũng có các nhà sư đi theo…Như thế chứng tỏ
là đạo Phật đã do các nhà sư Ân Độ đem vào Việt vào hạ bán thế kỉ thứ 2
Và con một số sách khác cho thấy rằng: Sinh hoạt Phật giáo đã bắt đầu
ở Việt Nam từ đầu thế kỷ do các nhà bn đem vào. Rồi thực sự có các nhà
sư theo thuyền buôn đến truyền đạo vào cuối thế kỷ thứ 2 và đầu thế kỷ thứ
11
3 bằng hai con đường là đường thủy và đường bộ. Vào các thế kỷ đầu ở
Giao Châu, Phật giáo đã cố một trung tâm lớn tại Luy Lâu - một trong ba
trung tâm lớn của đế quốc nhà Hán
Trụ sở của quận Giao Chỉ là Luy Lâu đã sớm trở thành trung tâm quan
trọng của Phật giáo. Tại đây với hoạt động truyền giáo của Khâu-Đà-La
(Kasudla) đã xuất hiện truyền thuyết đầu tiên về Phật giáo Việt Nam với
Thạch Quang Phật và Mang Nương Phật Mẫu. Từ đây những nhà sư Ân Độ
như Ma-ha-kỳ-vực (Marajivaka), Khâu Đà La (Kasudara), Khương Tăng
Hội ( K’ang-seng-houei ), Chi Cương Lương Lâu (Kalaruci), Mâu Bác
(meou-pô)
2. Sự phát triển
Thời kỳ từ thế kỷ VI – X, vẫn đước coi là quá trình truyền giáo. Đây là
thời kỳ Phật giáo ở Việt Nam đã phát triển khá mạnh. Vai trò của các nhà sư
Ấn Độ giảm, Phật fiaó từ Trung Quốc truyền và nước ta tăng lên, đặc biệt là
phái thiền. Đến thế kỷ x, sau hàn nghìn năm Bác thuộc, nhà nước độc lập,
nhà Đinh và tiền Lê đã tạo điều kiện chỏ Phật giáo phát triển.
Thời kỳ Lý – Trần ( thế kỷ XI – XV) là thời kỳ cực thịnh của Phật
Giáo Việt Nam.Phật giáo đóng vai trị là hệ tư tưởng xã hội, chính trị và đạo
đức,.. trong xã hội. Các vua nhà Lý, nhà Trần được đào tạo và trưởng thành
từ chùa như Lý Công Uẩn. Nhiều bậc đế vương có cơng nghiên cứu truyền
bá Phật giáo và trở thành sư tổ của nhiều môn Phái. Lý Thái Tôn là sư tổ
đời thứ 12 của thiền Vô ngôn thông, Lý Thánh Tông là sư tổ đời thứ 12 của
12
thiền Thảo Đường, Trần Nhân Tông là sư tổ của pháu thiền Trúc Lâm Việt
Nam ( Trúc Lâm Yên Tử). Các nhà sư thời Lý-Trần khơng chỉ có cơng lao
với đạo pháp, mà cịn có những đóng góp lớn với đất nược. Họ đã tham gia
triều chính, góp phần xây dựng nhà nước đương thời và cùng nhân dân ta
giữ nước,..
Thời kỳ Hậu Lê và nhà Nguyễn, Phật giáo không còn là quốc giáo.
Tuy nhiên, vốn đã được chấp nhận từ lâu, đến lúc này Phật giáo ddax ăn sâu
bám rễ và đời sống nhân dân ta. Vì vậy nó vẫn tồn tại cùng Nho giáo và
Đạo giáo.
Thời kỳ cống Pháp. Đến thế kỷ XIX, một mặt bị Nho giáo lấn át, mặt
khác Thiên chúa giáo được truyền vào mạnh mẽ đã làm cho Phật giáo bị suy
giảm.
C. Ảnh hưởng của Phật giáo đến tư tưởng và tính cách của người
dân Trung Quốc và Việt Nam hiện nay
I.
Ảnh hưởng đến người dân Trung Quốc
Ảnh hưởng của Phật giáo đối với tư tưởng người dân Trung Quốc chủ
yếu thể hiện ở ba phương diện:
- Thứ nhất, nhấn mạnh tâm lý xuất thế.
Trước khi Phật giáo truyền vào, vắn hóa truyền thống Trung Quốc
không thể thiếu tư tưởng yến thế, nhưng cơ bản dừng lại ở lý tưởng trốn thế
của Láo Trang. Sau khi du nhập và Trung Quốc, Phật giáo đã dựa trên tue
13
tưởng xuất thế và giải thốt khổ nạn của mình để xây dựng nên cứu thế chủ,
có thể cứu giúp mọi người thoát khỏi khổ nạn như Bồ tát Quan Thế Âm,
Phật Di Lặc,.. Phật giáo bàn luận về luân hồi, báo ứng, dạy con người vứt
bỏ thế giới hiện thực, để tu cho kiếp sau. Những điều này đã ảnh hưởng đến
tâm lý xuất thân của người dân Trung Quốc
Đặc biệt, sự du nhập và truyền bá của tư tưởng Bàn Nhược đã ảnh
hưởng đến nhiều phương diện tâm lý đối với người dân Trung Quốc, trong
đó có tâm lý xuất thế. Trong Kinh Bàn Nhược có khơng ít tư tưởng xuất thế,
tuyên truyền sự biến đổi thần thông của các vị Phật và Bồ tát, thần hóa thờ
cúng Bàn Nhược. Ví dụ, chỉ cần thụ trì và tuyền truyền các loại kinh Bàn
Nhược, con người có thể nhận được sự bảo hộ của thiên thần, các vị Phận
và đẩy lùi mọi hiểm ác. Sự tuyên truyền tôn giáo này không những thâm
nhập và người lao ddiingj, khiến cho người khơng biết chữ cũng có thể đọc
thuộc kinh văn Phật giáo, tôn Phật giáo lên làm thánh điển, mà còn được cả
các nhân sĩ thượng tầng trong xã hội phong kiến Trung Quốc tiếp nhận.
- Thứ hai, nhấn mạnh tâm lý linh hồn bất tử:
Văn hóa truyền thống Trung Quốc thường có thái độ trốn tránh vấn đề
thế giới sau khi con người qua đời; tuy có tư tưởng linh hồn bất tử nhưng
cịn sơ lược và chưa có hệ thống. Trong Nho giáo tồn tại tư tưởng linh hồn
bất tử, nhưng khơng bàn luận nhiều về nó. Trong Đạo giáo tồn tại tư tưởng
xuất thế thoát tục siều phàm, tong quảng đại các giai tầng xã hội của linh
hồn sau khi chết, nhưng không quan niệm về thế giới bên kia hoàn chỉnh và
14
rõ ràng. Tư tưởng thế giới bến kia của Phật giáo làm phong phú thêm tư
tưởng linh hồn bất tử trong văn hóa truyền thống Trung Quốc.
Phật giáo Nguyên Thủy gọi Niết Bàn là tịnh diệt hồn tồn, “khơi thân
diệt trí, qun hình tuyệt lự”. Đó là các chết triệt để về thể xác và tinh thần.
Điều này được hiểu và tiếp nhận bởi quan niệm truyền thống thông thường.
Cho đến ngày nay, hầu hết người dân Trung Quốc vẫn coi Niết Bàn là tên
gọi thay thế cho tử vong, Phật giáo Đại Thừa luận chứng thế gian và Niết
Bàn khơng khác biệt, phản đối thốt ly thế gian để theo đuổi cõi Niết Bàn.
Niết Bàn mà Phật giáo Đại Thừa mô tả là vĩnh hằng, tràn ngập hoan lạc, loại
bỏ được mọi phiền não. Những mô tả tinh tế và tán dương của Phật giáo về
thế giới cực lạc và những thuật giảng về sự sợ hãi đối với các loại Địa Ngục
được người dân Trung Quốc đồng tình và đón nhận, bổ sung thêm cho tư
tưởng linh hồn bất tử trong văn hóa truyền thống Trung Quốc.
- Thứ ba, nhấn mạnh tư tưởng yêu người:
Tư tưởng luân lý Nho giáo có hai đặc điểm nổi bật: nhấn mạnh quan
hệ nhân luân, thể hiện dĩ nhân vi bản; và nhấn mạnh tơn tơn thân thân, ái
hữu sai đẳng. Cịn trong tư tưởng Phật giáo, chủ thể của hành vi luân lý
không nhất thiết phải là con người, mà là chúng sinh, tức mọi vật chất hữu
sinh mệnh hay vô sinh mệnh bên ngoài con người với con người. Đối với tư
tưởng này, người dân Trung Quốc ban đầu cảm thấy rất khó tiếp nhận. Họ
khó lý giải về sinh vật bên ngoài con người cũng đang tiếp nhận sự cứu giúp
và cần phải ban cho sự yêu thương. Do vậy, kinh Phật được dịch trong thời
15
Đông Hán đều chuyển thế từ “sinh vật” thành “nhân” hoặc “nhân dân” để
thích ứng với tập tục nhà Hán.
Nhà Hán tiếp nhận tư tưởng này, nên trong Tam Quốc có chỗ dịch là
“nhân thiên” (người và thần), đến nhà Đường có chỗ dịch là “hữu tình”, sau
này phổ biến dịch thành “chúng sinh”. Chúng sinh từ đó trở thành chủ thể
luân lý của Phật giáo, cũng trở thành từ được sử dụng rộng rãi trong quan
niện luân lý xã hội của Trung Quốc. Phật giáo cho rằng, chúng sinh bình
đẳng và chỉ cần lạc thiện hào thí, tích đức phụng phật thì đều có thể thành
Phật. Chủ trương này khiến cho quan niệm về bình đẳng, từ bi, khoan dung,
yêu người trở thành tín đuêỳ của giới tu sĩ Phật giáo và trở thành điểm lắng
đọng trong tâm lý của người dân Trung Quốc.
Ảnh hưởng đến tính cách người dân trung Quốc
Đặc trưng tính cách của người dân trung Quốc là hưởng nội, khép kín,
kiềm chế, trầm tính và kín đáo. Những đặc trưng tính cách này là kết quả sự
hun đúc của văn hóa truyền thống Trung Quốc. Phật giáo là đậm thêm đặc
trung tính cách này của dân tộc Trung Quốc. Tính cách của dân tộc Trung
Hoa có cả mặt tích cực lận mặt hạn chế. Phật giáo cũng ảnh hưởng đến tính
cách của dân tộc Trung Hoa từ hai phương diện tích cực và hạn chế.
Thứ nhất, nhấn mạnh tính cách dung nạp, đồng hóa: sự du nhập của
Phật giáo đã mở mang thêm cho tâm hồn, làm tăng khí chất dung nạp, đồng
hóa của dân tộc Trung Hoa đối với văn hóa cùa các dân tộc khác. Đối với
văn hóa du nhập từ bên ngồi bào, Trung Quốc thường áp đạt thái độ khoan
16
dung. Phật giáo cũng bao hàm tinh thần khoan dung này. Dễ dàng thấy,
trong rất nhiều điển cố của kinh Phật, khơng ít ác mà được giáo hóa trở
thành hộ pháp. Bồ tát Quan Thế Âm đi sâu vào trong tâm người Trung
Quốc bởi tấm lòng đại từ, đại bị, cứu độ chúng sinh. Bà nhận được sự kính
ngưỡng và sung bái của mọi người.
Quá trình pháy triển Phật giáo tại Trung Quốc cho thấy, mọi giai tang
xã hội đất nước này có thái độ khoan dung đối với Phật giáo. Thậm chí, họ
cịn chủ động tiếp nhậm Phật giáo. Phật giáo có thể hịa nhập với trung thổ,
vì nó có liên quan chặt chẽ đối với sự khoan dung của người dân Trung
Quốc.
Mặt khác, xét tử yếu tố nhân văn vốn có, Phật giáo nhấn mạnh nghiêm
vụ luật kỷ, lạc thiện hào thí, tự giác giác tha, khoan dĩ đãi nhân, chúng sinh
bình đắng; đồng thời thiên về tự biện và tiết lý rõ ràng. Điều này thúc đẩy
phát triển đặc điểm tâm lý tính cách của dân tộc trung Hoa như lòng khoan
dung , bác ái, lương thiện, trầm tĩnh, chặt chẽ, cẩn thận, trọng tu dưỡng, tự
khiểm điểm. đặc biệt, một số tong phái của Phật giáo nhấn mạnh tính chủ
quan, năng động và ý thức tự lực. Tư tưởng này được một số phái cải cách
xã hội tiếp nhận để khích lệ ý chí, rèn luyện các tính con người. Phái cảu
cách của Đàm Tự Đồng cuối thời nhà Thanh chịu ảnh hưởng sâu sác của tư
tưởng này. Văn hóa thiền của Phật giáo càng có sức chịu ảnh hưởng mạnh
mẽ đến triết học xử thế và quan niêm thẩm mĩ của dân tộc Trung Hoa.
17
Thư hai, nhấn mạnh tính cách hướng nội, bảo thủ: Ảnh hưởng của
Phật giáo đối với dân tộc Trung Hoa là đa tầng. Tầng lớp trí thức và tầng
lớp đại sĩ phu chú trọng tiếp nhận triết lý trong Phật giáo để tu thân dưỡng
tính, hun đúc tình cảm, tìm kiếm sự an ửi và giải thoát về mặt tinh thần. Cịn
đối với quảng đại thần chúng, cơng dụng của Phật giáo ở chỗ có thể đáp ứng
nhu câu phúc trừ họa cho kiếp này mà mưu cầu hạnh phúc cho kiếp sau.
Thuyết nhân quả luân hồi, niềm tin vào số mệnh và một loạt tư tưởng duy
tâm vượt ra ngoài hiện thực mà Phật giáo tuyên truyền làm gia tăn tâm lý,
tính cách hướng nội, khép kín, bảo thử của dân tộc Trung Hoa.
II.
Ảnh hưởng đến người dân Việt Nam
Thứ nhất, tư tưởng hướng nội. Hướng ngoại là thiên về nghiên cứu thế
giới vật chất bên ngoài. Hướng nội là thiên về nghiên cứu thế giới tinh thần
bên trong. Thiền tông đã đề xuất chủ trương “dĩ tâm truyền tâm”. Do đạo
Phật quan niệm vạn vật đồng nhất thể, nên bản thể vũ trụ cũng tiềm ẩn trong
mỗi con người. Bởi vậy khi làm cho bản thể trong mỗi cá nhân hồ đồng với
bản thể vũ trụ, thì ta và thế giới hoà làm một. Muốn đạt được điều đó thì
phải có trí tuệ hay Phật học gọi là Bát Nhã. Nhưng để đi đến cái đó, mỗi
người phải tự khai mở tâm mình, “hãy tự thắp đuốc lên mà đi”, mà bước
đầu là phải có sự biến đổi về mặt đạo đức theo hướng thiện. Điều này hợp
với người Việt với truyền thống nghiêng về trau dồi tâm tính, đạo đức luân
lý hơn là học hỏi trau dồi tri thức hiện đại.
18
Điểm này khiến người Việt trong cuộc sống đề cao cái tâm, lối sống
tình cảm. Cách suy nghĩ và lối sống mang nặng màu sắc tình cảm, một mặt
giúp nhân dân ta trong những thời hoạn nạn, thiên tai, địch hoạ... nhưng nó
cũng làm hạn chế sự tiến bộ của khoa học - kỹ thuật.
Thứ hai, chú ý nhiều tới các quan hệ. Cùng một sự vật, hiện tượng
chúng ta thường hoặc quan tâm đến cấu trúc, bản chất hoặc nghiên cứu
những mối liên hệ, quan hệ với những sự vật , hiện tượng khác. Đương
nhiên phương Đông chú trọng mối quan hệ nhiều hơn. Xuất phát từ “dịch”,
“vô thường”, người phương Đơng cho rằng khơng có gì là trường tồn, đứng
yên mà vạn vật luôn vận động, biến đổi khơng ngừng. Vì vạn vật sinh sinh,
hố hố, sắc sắc, không không nên cái ta thấy được chỉ là những mối liên hệ
thấp thoáng giữa các trạng thái của sự vật trong quan hệ với những sự vật
khác.
Để chỉ những mối liên hệ, Phật giáo có luật nhân quả. Nhân quả là chỉ
mối quan hệ phổ biến mọi sự vật, hiện tượng. Khơng có cái tơi độc lập,
khơng có thế giới tác rời “cái tơi, khơng có “cuộc sống” tách rời - tất cả
những cái đó là những tương tác chặt chẽ và chỉ bị tách rời nhau trong
tưởng tượng. Do vậy mà người phương Đông, Việt Nam theo đạo Phật
thường để ý nhiều đến mối quan hệ, chủ yếu cảm tính, đạo đức nên nhiều
nhìn nhận sai lệch, có tính chủ quan duy ý trí. Do đó, cuộc sống người Việt
Nam thường chú ý nhiều đến quan hệ họ hàng, làng xóm, xã hội sao cho
khơn khéo, tế nhị.
19
Chịu ảnh hưởng tư tưởng bởi ba đạo lí Duyên Khởi, Tứ Diệu Đế và
Bát chánh Đạo. Ba đạo lí này là nền tảng cho tất cả các tông phái Phật giáo
nguyên thủy cũng như Đại Thừa đã ăn sâu vào lịng người dân Việt. Về giáo
lí nghiệp báo hay nghiệp nhân quả báo của đạo Phật đã được truyền vào
nước ta rất sớm. Giaos lí này đã trở thành nếp sống tín ngưỡng đối với
người Việt Nam có hiểu biết, có suy nghĩ. Người ta biết lựa chọn ăn ở hiền
lành, nó chẳng những thích hợp với giới bình dân mà cịn ảnh hưởng đến
giới trí thức. Vì thế, giáo lí nghiệp báo luân hồi đã in dấu ấn đậm nét trong
văn chương bình dân, văn chương chữ Hán, chữ Nôm từ xưa cho đến nay để
dẫn dắt từng thế hệ con người biết soi sáng tâm trí mình vào lí nhân quả
nghiệp báo mà hành động sao cho tốt đẹp, đem lại hịa bình an vui cho mọi
người. Mỗi người dân Việt Nam đều biết câu” ác giả ác báo”. Mặt khác, họ
hiểu rằng nghiệp nhân quả không phải là định nghiệp mà có thể làm thay
đởi, do đó họ tự biết sửa chữa, tu tập cải ác thành thiện. Từ những hành
động thiện, giảm bớt điều ác, dần dần ta sẽ chuyển hóa và tạo cho ta một
cuộc sống yên vui.
Đạo lí ảnh hưởng nhất là giáo lí từ bi, tinh thần hiếu hịa, hiếu sinh của
Phật giáo đã ảnh hưởng và thấm nhuần sâu sắc trong tâm hồn người Việt
Nam. Tinh thần thương người như thể thương thân này đã biến thành ca dao,
tục ngữ rất phổ biến trong quần chúng Việt Nam như: “ lá lành đùm lá rách”,
“ nhiễu điều phủ lấy giá gương. Người trong một nước phải thương nhau
cùng”. Đó là những câu ca dao tục ngữ mà bất cứ người Việt Nam nào cũng
thấm nhuần và thuộc lịng, nói lên lịng nhân ái vị tha của người Việt Nam.s
20
Ngồi đạọ lí Từ Bi, người Việt Nam cịn chịu ảnh hưởng của Đạo lí
Tứ Ân, gồm: ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân quốc gia và ân chúng sinh. Trong
đó ân cha mẹ là nổi bật và ảnh hưởng rất sâu đậm trong tình cảm và đạo lí
người Việt bởi vì đạo Phật đặc biệt chú trọng đến chữ hiếu, như thế là, phù
hợp với đạo lí truyền thống của dân tộc Việt.Đạo lí Tứ Ân cịn có chung
động cơ thúc đẩy từ bi hỉ xa khiến con người ta sống hài hòa với xã
hội,thiên nhiên để tiến đến hạnh phúc dích thực và bền vững
Thuyết Nhân quả, Nghiệp báo của Phật đã hình thành một nhân sinh
quan tin vào một chủ thể thánh thần có khả năng nhìn thấu nhân gian, Trời –
Phật có mát, gieo nhân xấu át gặt quả xấu, gieo nhân tốt gặt quả tốt. Người
Việt Nam rất tin vào triết lí nhân quả, nghiệt báo của nhà Phật. Vì vậy,
người dân Việt thường “ làm lành, tránh dữ”, ăn ở phúc đức để mong kiếp
này, đời này được hưởng phúc lộc, đồng thời con cháu họ sau này được
nương nhờ ân huệ phúc đức của cha mẹ, tổ tiên mà cũng được sung sướng.
Như vậy, người Việt coi trọng và tin tường vào đạo đức hơn là tài năng trí
tuệ. Từ đó, họ có ý thức xây dựng nhân cách ngay chinyhs, lương tâm trong
sạch, ngăn chặn những sự ác tâm.
Về tính cách:
Sự tác động của Phật giáo đến sự hình thành nhân cách con người Việt
Nam hiện nay khá rõ nét và có mặt tích cự nhất định. Nhìn chung, những
bài học ln lý, đạo đức của Phật giáo đã được dân tộc ta tiếp thu vì nó phù
hợp và tương thích cới tâm ý dân tộc. Tuy nhiên, đạo đức tôn giáo nói
21
chung cũng như đạo đúc Phật giáo nỏi riêng đều mang tính nhân đạo cao
siêu và một thái độ chấp nhận chứ khơng phải là cái tạo hồn cảnh. Điều đó
phần nào ảnh hưởng tiêu cực tới lối sống của người Việt, làm cho con người
có thái độ yến thế trước thời cuộc.
Phật giáo nhìn cuộc đời là một bề khổ khơng bờ bến, con đường để
giải thốt khỏi nỗi khổ đó phải là phá bỏ được sự mê muội, vơ minh, đatk
tới sự sáng tỏ bản thân mình. Thế giới quan, nhân sinh quan đó của Phật
giáo đã ảnh hưởng đến cách nhìn cuộc đời của người Việt., người Việt coi
cuộc đời là phù hoa, thoáng qua, “Sống ngày nay dễ biết ngày mai, khoảng
đường sinh tử nào hay tỏ tường”, sinh ký tử quy… Cuộc đời bị nhìn dưới
nhãn quan như vậy, dẫn đến hình thành tính cách coi nhẹ mạng sống, khơng
cố gắng dấn thân, ít nghĩ tới việc phải làm gì to tát, lâu bền, dễ chán nản,
chùn bước khi gặp phải khó khan, khồn biết đua chen, hổ thẹn với đời, cứ
sống buông trôi cho qua ngày đoạn tháng. Và rồi, tin tưởng rằng “có đức
không sức mà ăn”
Nhân sinh quan, thế giới quan Phật giáo chi phối khiến người Việt
nhiều khi gặp trắc trở thường hay nghĩ đến số phận, nghiệp chướng, nhân
quả. Quan niệm định mệnh, số phận ấy khiến con người ta thường hình
thành tính cách bị động, thậm chí “nhắm mắt đưa chân” trong hành động.
Phật giáo đề cao sự công bằng, bình đẳng, từ bi, bác ái. Đức Phật quan
niệm: “Phật là chúng sinh đã thành và chúng sinh là Phật chưa thành.” Với
22
quan niện như vậy, trong quá trình phát triển ở Việt Nam , Phật giáo đã có
đóng góp to lớn vào truyền thống dân chủ, đoàn kết, đồng thuận xã hội.
Nhìn một cách tổng quát, những giáo lý của Phật giáo như Luân hồi,
Nhân quả, Tứ đế, Vô thường, Vô ngã, Nghiệp,… đã góp phần hình thành
nên nhân cách của con người Việt Nan trong lịch sử và cho đến tận ngày
nay, khi xã hội đã có nhiều thay đổi, những tính cách đó vẫn được bảo lưu
như một nếp sống, một thói quan giao tiếp, ứng xử cộng đồng.
III. KẾT LUẬN
Xuất phát từ Ấn Độ, Phật giáo du nhập vào Trung Quốc và Việt Nam,
đóng góp vai trị lớn đối với sự phát triển của văn hóa Việt Nam và Trung
Quốc.
Với hơn hai nghìn năm phát triển ở Việt Nam, trong quá trình và phát
triển của mình, Phật giáo đã đóng góp cho dân tộc Việt Nam trên nhiều
phưởng diện. Hơn hai nghìn năm ở Việt Nam là hơn hai nghìn năm Phật
giáo đã nhập thân vào dân tộc và để lại dấu ấn sâu đậm của mình trong lối
sống của con người Việt Nam trong lịch sử cũng như hiện nay.
Tính cố kết cộng đồng, lối sống thấm đượm tinh thần vô ngã, vị tha, từ bi,
cứu khổ, cứu nạn của Phật giáo đã dần trở thành một giá trị tinh thần truyền
thống Việt Nam. Các giá trị tinh thần truyền thống như phong tục, tập quán,
giá trị đạo đức, cách ứng xử và nhân sinh quan của Phật giáo.
23
Tuy nhiên, bên cạnh lối sống vị tha, nhân ái, cố kết cộng đồng, Phật giáo
khơng phải khơng có những tác động tiêu cục tới lói sống cảu con người
Việt Nam hiện nay. đó là việc đề cao quá mức thực tại thái quá, hay cách
nhìn cuộc đời là bề khổ dẫn đén hình thành tính cách coi nhẹ mạng sống,
khơng cố gắng dấn thân, ít nghĩ tới việc phải làm những gì to tát, lâu bền, dễ
chán nản, chùn bước khi gặp phải khó khan, khơng biết vươn lên xây dựng
cuộc sống hiện thực. Đó là những tập tục lạc hậu trong sinh hoạt tín ngưỡng
như đốt vàng mã, bói quẻ, xin xăm, giải hạn,..
Nhắc đến nền văn minh, văn hóa Trung Quốc, chúng ta khơng thể khơng
nhắc đến Phật giáo, bởi Phật giáo thực sự là một bộ phận, một viên đá quý
của văn hóa, tư tưởng Trung Hoa. Quả đúng như vậy, đạo Phật đã từng
bước ảnh hưởng đến mọi nếp sống sinh hoạt của người dân Trung Quốc từ
triết lý, tư tưởng, văn hóa, nghệ thuật cho đến phong tục tập quán…
24